In bài này

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần C)

Lượt xem: 5695

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

C

Canh cuối (ThờiKhóa) tức là buổi khuya, sau khi thức dậy phải đi kinh hành hoặc ngồi nếu không buồn ngủ, luôn luôn không được lười biếng ham ngủ. Ban ngày cũng như ban đêm, đầu canh hay cuối canh đều duy nhất tu hành có một mục đích là xả tâm tẩy trừ các chướng ngại pháp. Trước khi nằm ngủ phải tập tỉnh thức rồi mới ngủ, không được nằm xuống là ngủ ngay liền.

Canh giữa (ThờiKhóa) tức là lúc nửa đêm chỉ có nằm nghiêng giữ chánh niệm tỉnh giác và phải luôn nghĩ đến thức dậy, chứ không được lười biếng nằm ráng, hể thấy thức ngủ thì nên thức dậy ngay liền để tu tập rèn luyện tẩy trừ tâm khỏi chướng ngại pháp tức là ly dục ly ác pháp.

Cá nhân thanh tịnh (Đường Về.7) là cá nhân phải có đạo đức, là một tu sĩ Phật giáo thì giới luật phải được nghiêm chỉnh, không vi phạm, không bẻ vụn giới luật.

Các căn (PhậtDạy.2) Trong thân chúng ta có sáu căn: 1- Nhãn căn, 2- Nhĩ căn, 3- Tỷ căn, 4- Thiệt căn, 5- Thân căn, 6- Ý căn.

Các căn được chế ngự (CầnBiết.4) Trong thân chúng ta có sáu căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn. Chế ngự nghĩa là làm cho nó giảm bớt, không còn tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Trước khi làm theo ý muốn thì phải quán sát nên làm hay không nên làm, nên làm là làm không có dục xen vào, có dục xen vào nhất định không làm. Ví dụ 1: Chưa đến giờ ăn mà bụng đói muốn ăn, thì nhất định không ăn, chờ đúng giờ mới ăn. Đó là chế ngự ăn uống.

Các hành Ác bị diệt (12Duyên) là người thông suốt Giới Luật Đức Hạnh. Giới Luật Đức Hạnh trong pháp tu hành của Phật giáo từ thấp đến cao. Phải theo sự phân chia pháp môn tu tập từ thấp đến cao mà Đức Phật đã tuyên bố: “Giới, Định, Tuệ”.

Các pháp ức chế thân tâm (ĐườngVề.4) không thể tu tập đi đến giải thoát được, không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người. Từ bỏ và viễn ly các pháp đó.

Các pháp vô thường (PhậtDạy.4) không có một vật gì là thường hằng bất biến, luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, sự vô thường không chờ đợi một ai, một khi nó đã đến thì không từ bỏ một người nào cả. Không thấy các pháp vô thường thì tâm không ly dục ly ác pháp được, dễ sanh ra dính mắc và chấp đắm các pháp. Không ly dục ly ác pháp được thì không làm sao có được sự giải thoát, sống sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Do các pháp vô thường nên không có pháp nào là ta, không có pháp nào là của ta, không có pháp nào là bản ngã của ta.

Các pháp Yết Ma (TâmThư.2) là những qui cụ của đoàn thể chúng tăng để điều hành người trên kẻ dưới trong Tăng đoàn có thứ bậc như kỷ luật quân đội. Các pháp Yết Ma còn là những nghi thức, nghi lễ truyền giới, thọ giới cho các giới tử mà người tu sĩ Phật giáo khi lãnh chúng, lãnh đạo giáo hội cần phải thông suốt. Các pháp Yết Ma gồm chung tất cả pháp thuộc về giới đàn, thành lập giới đàn, giới đức, giới hạnh, giới hành, giới tướng và giới thể, giáo trình, giáo án về kinh, luật, luận của Phật giáo. Muốn hiểu biết các pháp Yết Ma thì phải tu học từ căn bản đến chuyên sâu giới luật. Không học thì không hiểu, không hiểu thì không biên soạn được. Người tu chứng Tam Minh thì tất cả đều thông suốt, nhưng tu mà phạm giới thì không bao giờ tu chứng được Tam Minh.

Các quả tu chứng của Phật giáo (TrợĐạo) Con đường vào Niết Bàn tức Con đường tu tập theo Phật giáo mỗi chặng đường đều có kết quả. Cho nên người tu sĩ tu tập phải nhận biết điều này để khi tu tập tới đâu mình đều biết. Những điều tu hành ở đây là hãy xem tâm mình còn bị ác pháp tác động hay không? Nếu tâm không bị ác pháp tác động được thì đó là chứng đạo. 1-/ Chặng đường vào Niết Bàn thứ nhất: Những người tu hành đoạn trừ các lậu hoặc, đoạn trừ các kiết sử cho nên không có ác pháp nào tác động đến tâm họ được, họ là người giải thoát hoàn, là những vị tu hành đã đoạn trừ các lậu hoặc và các hữu kiết sử, đã chứng quả A-la-hán, họ đã đạt được mục đích tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đạo Phật tu tập đến đây đã hoàn thành không còn tu tập một pháp môn nào nữa cả. 2-/ Chặng đường thứ hai được vào Niết Bàn: Những người tu hành chỉ cần diệt trừ được năm hạ phần kiết sử, khi chết vẫn nhập vào Niết Bàn rất dễ dàng. 3-/ Chặng đường thứ ba vào Niết Bàn. Đức Phật dạy “Những tỳ-kheo diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác.” 4-/ Chặng đường thứ tư: chỉ cần diệt trừ ba kiết sử thì cũng nhập vào Niết bàn sau khi bỏ xác thân này. 5-/ Chặng đường thứ năm, Đức Phật dạy: “Những tỳ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành, những vị này sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.” Chặng đường thứ nămnày tùy theo pháp thiện hay ác mà giữ gìn tâm thanh thản an lạc thì cũng vào Niết Bàn. Chặng đường thứ năm Đức Phật dạy chúng ta không diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi và kiết sử nhưng chỉ có giữ gìn tâm thanh thản, an lạc thì cũng vào Niết Bàn. 6-/ Chặng đường thứ sáu: chỉ có lòng tin nơi Đức Phật mà khéo đối xử với mọi người mọi hoàn cảnh, không làm mình khổ, không làm người khác khổ và tất cả chúng sinh khổ thì mình cũng vào Niết Bàn. Đức Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết đối với Ma giới, khéo biết đối với phi Ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo biết đối với phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin nơi Ta, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.”. Chỉ cần tin nơi lời Phật dạy, biết đối xử với mọi người không làm khổ mình khổ người và tất cả chúng sinh thì khi bỏ thân này cũng vào Niết Bàn. Bởi đạo Phật có sáu chặng đường vào Niết Bàn chúng ta muốn đi chặng nào cũng được chỉ tùy vào sức lực, vào khả năng của mình mà chọn lấy nẻo vào Niết Bàn.

Cách đảnh lễ (OaiNghi) Trước khi đảnh lễ, người nam hay người nữ đều phải đứng trước bàn thờ Phật, tổ tiên hay đối tượng để đảnh lễ. Ðứng thẳng người, hai tay chắp lại để trước ngực rồi đưa lên trán cúi đầu xá, rồi đưa hai tay xuống ngực, hai chân từ từ quỳ xuống, hai bàn tay mở ra úp xuống mặt bằng, đưa thẳng các ngón tay về phía trước, đầu cúi xuống trán chạm vào bàn tay. Sau khi trán chạm vào lưng bàn tay thì hai tay chống thân đứng dậy, nhưng hai chân vẫn quỳ, lúc bấy giờ hai tay chắp lại để trước ngực rồi nâng lên trán, đầu cúi xuống hai tay vẫn còn chắp từ từ hạ xuống theo thân cúi xuống, lạy lần thứ hai và lần thứ ba cũng vậy. Cuối cùng hai tay vẫn chắp đặt trước ngực, hai chân từ từ đứng dậy, đồng thời hai tay vẫn chắp đưa lên trán, đầu cúi xuống xá, hai tay vẫn chắp nhưng từ từ hạ xuống ngực. Lạy ba lạy và xá một xá là đủ. Lạy bình thường thì úp lòng bàn tay xuống. Lạy sám hối thì lật ngữa lòng bàn tay lên. Lạy người còn sống thì hai bàn tay để ngang nhau. Lạy người đã chết thì hai bàn tay đưa thẳng về phía trước. Giáo Ðoàn Phật Giáo là theo gót chân Phật, nên lạy ba lạy đơn giản mà thôi.

Cách đẩy lui chướng ngại của tâm (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 7 của Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách đẩy lui chướng ngại của thân (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 5 của Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách đẩy lui tâm si, đẩy lui sự buồn ngủ, đẩy lui trạng thái lười biếng (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 18 của Định Niệm Hơi Thở: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách để ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 6 của Định Niệm Hơi Thở: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Mỗi lần hít vô hay thở ra đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm và niệm ấy là niệm mang ý nghĩa gì. Đề mục này là để hướng dẫn ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường; nếu thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm mang ý nghĩa nói gì xen vào trong suốt 30 phút hay 01 giờ là đã đạt được kết quả tu tập tâm lặng lẽ về đề mục này. Nhưng đề mục 6 này mục đích không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm mà cảm nhận sự hoạt động của Tâm Hành, biết rõ có lúc tâm lặng lẽ nhưng có lúc tâm không lặng lẽ. Đề mục 6 này dạy rất rõ là nương theo hơi thở vô ra mà thấy tất cả sự hoạt động của tâm, tâm muốn gì hay tâm làm gì đều biết rất rõ không bỏ sót một hành động nào của tâm. Tâm ở trong sự hoạt động là tâm nương hơi thở để cảm nhận sự hoạt động đó, cho nên câu này nghĩa rất rõ “Cảm Nhận Tâm Hành Tôi Biết Tôi Thở Ra". Cảm nhận Tâm Hành tức là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác được. Vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cho cảm nhận được sự động và sự tịnh của tâm. Khi tâm được An Tịnh thì không còn tạp tưởng, dù có những tư tưởng mạnh như thế nào đi nữa cũng đẩy lui được hết.

Cách hành chữ quán (ĐườngVề.9) như câu “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, câu này có ba nghĩa và có ba kết quả trong một hành động tu: 1- Nhắc nhở tôi quan sát xem xét tâm tôi có khởi lên tham muốn cái gì không? Nếu có thì tôi phải tỉnh thức quán xét tâm tham muốn đó “để xa lìa” như tôi đang tỉnh thức biết hơi thở vô ra vậy. 2- Nếu không có niệm khởi tâm tham muốn thì nó giúp tôi tỉnh thức trên tâm tôi, tôi biết rõ tâm tôi “không có tham muốn” tức là tôi biết rõ tâm tôi đang ở trong trạng thái “thanh thản, an lạc và vô sự” như tôi đang tỉnh thửc biết hơi thở ra vô rõ ràng vậy. 3- Nếu tâm tôi không có niệm khởi tham muốn thì câu pháp hướng trên sẽ thấm nhuần “lý ly tham”và sau này trở thành một “nội lực không tham muốn” nó sẽ giúp tôi đoạn diệt lòng tham muốn.

Cách phát lồ sám hối (OaiNghi) là xin phát lồ sám hối. Nếu thấy mình có lỗi thì nên phát lồ như sau: “Hôm nay là ngày ... Suốt nửa tháng tu học tại ..., con, tỳ kheo ..., có làm một lỗi là .... Vậy từ đây con xin sám hối, không dám vi phạm lỗi lầm đó nữa, xin Phật và đại chúng chứng minh cho con, để thân tâm con được thanh tịnh”. Nếu thấy mình không có lỗi thì nên phát lồ như sau: “Hôm nay là ngày.... Suốt nửa tháng tu học tại ..., con, tỳ kheo ..., không tự thấy mình có làm lỗi trong giới luật Phật. Vậy ngưỡng mong quý thầy có nhận thấy (pháp danh vị đang sám hối) có vô ý làm lỗi gì, xin quý thầy chỉ dạy để (pháp danh vị đang sám hối) phát lồ sám hối, nhờ đó từ đây về sau (pháp danh vị đang sám hối) không tái phạm những lỗi lầm đó nữa. (pháp danh vị đang sám hối) xin thành tâm tri ân quý thầy”. Sau khi người cuối cùng phát lồ xong thì tất cả mọi người đồng tụng bài ước nguyện: “Hôm nay ngày phát lồ, Chúng con nguyện thành tâm. Giữ gìn tròn giới luật, Không hề vi phạm phải, Dù một lỗi nhỏ nhặt, Cũng không hề vi phạm, Nhờ đó tâm ly dục, Nhờ đó ác pháp lìa, Nhờ đó tâm thanh tịnh, Chúng con cũng thành tâm, Ước nguyện cho mọi người, Phát lồ như chúng con, Ðể thân tâm bất động, Thanh thản và an lạc, Cùng nhau vào Niết Bàn”. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

Cách quán Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.9) tức tu Định Vô Lậu trên bốn chỗ thân thọ tâm pháp khiến cho thân tâm không còn phiền não đau khổ nữa. 1- Thấy thân yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 2- Thấy tâm yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 3- Thấy thọ yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 4- Thấy pháp yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó.

Cách thức gom tâm (ĐườngVề.3) phải thường xuyên tu tập những cách sau đây: 1- Phải thường xuyên đi kinh hành, phải biết đi kinh hành đúng pháp môn, đúng cách đi kinh hành, làm mọi việc phải biết làm mọi việc, hoặc ngồi tại chỗ biết ngồi tại chỗ, trong lúc ấy thường hướng tâm nhắc: “Tâm phải gom về thân hành, thân làm cái gì thì tâm phải biết làm cái nấy, không được phóng dật ra ngoài, không được đi lang thang, không được nghe ngóng, phải gom về thân hành cho thật chặt”. Nên tu tập tỉnh thức bằng pháp hướng này thì kết quả gom tâm rất nhanh. 2- Nên theo phương pháp thở hơi thở chậm để gom tâm. Trước khi thở hơi thở chậm nên hướng tâm: “Tâm phải tập trung vào hơi thở tại nhân trung”, hướng tâm xong, hít vô chậm chậm cho đến khi không còn hít vô được thì bắt đầu thở ra và cũng thở ra chậm chậm cho đến khi hết thở ra được thì thở trở lại hơi thở bình thường mười hơi thở, sau khi mười hơi thở bình thường đã thở xong thì phải hướng tâm như trên lại một lần rồi lại thở một hơi thở chậm chậm và nhẹ, rồi thở trở lại mười hơi thở bình thường. Cứ như thế mà tu hết 30 phút thì xả nghỉ. (theo thứ tự: hướng tâm nhắc, một hơi thở chậm chậm và nhẹ, mười hơi thở bình thường,…). Nếu 10 hơi thở thấy sức gom tâm còn yếu thì nên tu 5 hơi thở bình thường và một hơi thở chậm, khi nào tâm gom được thì chỉ thở hơi thở bình thường mà không cần thở hơi thở chậm và nhẹ nữa.

Cách thức làm chủ bệnh (PhậtDạy.4) “giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác chịu đựng cơn đau”. Trong pháp môn Tứ Chánh Cần gồm có Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh. Chánh Niệm Tỉnh Giác chỉ là để chịu đựng cơn đau ghê gớm, khốc liệt như dao cắt ruột, bứt gan; giữ gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác trên Thân Hành Niệm Nội (hơi thở) hay Thân Hành Ngoại (hành động tay chân). Nhờ có pháp môn này mà tâm mới bất động hoàn toàn, mới ly dục ly ác pháp được trọn vẹn. Chánh Niệm Tỉnh Giác là phương pháp vượt qua cơn đau, chứ không phải là phương pháp trị cơn đau. Khi thân bị bệnh đau bất cứ chỗ nào, nặng nhẹ, hãy cố gắng dựng thân ngồi kiết già sừng sững, đừng nên nằm, rồi nhiếp tâm thanh thản, an lạc và vô sự, khi tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì tâm định trên hơi thở ra hơi thở vào một cách nhẹ nhàng rõ ràng và cụ thể. Khi biết tâm đã định trên hơi thở như vậy thì tác ý nhắc: “Thọ là vô thường cái đau bệnh này phải đi khỏi nơi thân tâm ta” (Nhất là phải chỉ rõ bệnh gì? Bệnh ở đâu?). Khi tác ý xong câu này thì tiếp tục tác ý câu thứ hai: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong thì cứ bám cho chặt trong hơi thở vô, hơi thở ra, ý thức chỉ biết hơi thở vô ra đều đặn, đừng lưu ý đến bệnh đau, thỉnh thoảng lại tác ý: “Thọ là vô thường cái thân bệnh này hãy đi! Ði! Ði cho khỏi thân ta”. Đó là phần nhiếp phục cơn bệnh đau bằng pháp môn như lý tác ý và pháp môn Ðịnh Niệm Hơi Thở.

Cách thức tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm (ĐườngVề.5) Suy tư nào ác làm khổ mình, khổ người thì phải chấm dứt ngay liền; suy tư nào thiện không làm khổ mình, khổ người thì cần phải phát triển những suy tư ấy, sống không phóng dật, nhiệt tâm siêng năng tỉnh giác từng hành động thân ý, từng sự việc, từng đối tượng, từng hoàn cảnh, v.v...

Cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.2)(TrợĐạo) 1- Trên thân quán thân. 2- Trên thọ quán thọ. 3- Trên tâm quán tâm. 4- Trên pháp quán pháp.

Kinh dạy là trên thân quán thân tỉnh giác Chánh Niệm để khắc phục tham ưu ở đời... Chúng ta phải hiểu quán là quan sát, quán xét trên bốn chỗ thân, thọ tâm, pháp; bốn chỗ này đức Phật gọi là Tứ Niệm Xứ. Trên bốn chỗ này thường có Tà Niệm xảy ra (ác pháp) vì vậy mà phải quan sát quán xét cho kỹ để phát hiện ra những Tà kiến, Tà Niệm; phát hiện ra được những Tà Kiến và Tà Niệm thì chúng ta phải đẩy lui chúng ra khỏi tâm tư mà Ðức Phật gọi là khắc phục tham ưu.

Công việc tu hành Tứ Niệm Xứ là chỉ có quan sát bốn vị trí này để diệt trừ các chướng ngại pháp, cho nên tâm thường ở trong Chánh Niệm tức là không có Tà Niệm, tức là không có niệm ác. Không có niệm ác thì thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi thân, thọ, tâm, pháp có chướng ngại thì dùng Tứ Niệm Xứ để đẩy lui ác pháp.

Cách thức yểm ly các sắc (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. Do lục nhập này (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly các thức (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. Do lục nhập này (Nhãn thức do mắt sanh, Nhĩ thức do tai sanh, Tỷ thức do mũi sanh, Thiệt thức do lưỡi sanh, Thân thức do thân sanh, Pháp thức do ý sanh) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly các xúc (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn mọi vật. Do lục nhập này (Nhãn xúc do mắt sanh, Nhĩ xúc do tai sanh, Tỷ xúc do mũi sanh, Thiệt xúc do lưỡi sanh, Thân xúc do thân sanh, Pháp xúc do ý sanh) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly con mắt (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. (tức không có bất cứ niệm nào về vật thấy)

Cách tu tập Thân thiện hành (CầnBiết.4) hằng ngày phải tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, như vậy là tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần ra hành động thì phải tu tập Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu.

Cái biết của con người (ĐườngVề.6) có ba cái: 1/ Cái biết của ý thức (cái biết do sự phân biệt của sáu thức hằng ngày). 2/ Cái biết của tưởng thức (cái biết trong giấc mộng). 3/ Cái biết của tâm thức (cái biết của thức uẩn, cái biết siêu không gian và thời gian, cái biết để thực hiện Tam Minh vô lậu của bậc A La Hán).

Cái biết của tâm thức (ĐườngVề.6) là cái biết của thức uẩn, cái biết siêu không gian và thời gian, cái biết để thực hiện Tam Minh vô lậu của bậc A La Hán.Chữ tâm ở đoạn kinh “Tâm chủ, tâm tạo tác, Nếu nói hay hành động, Với tâm tư ô nhiễm, Khổ não sẽ theo ta, Như xe theo vật kéo”. Theo chúng tôi thì chữ tâm mà dịch giả dùng ở đây phải hiểu là “ý thức phân biệt hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta”. Nó chính là tri kiến của mỗi người đang sử dụng hằng ngày. Con đường tu tập của đạo Phật lấy ý thức phân biệt tấn công giặc tham, sân, si; giặc sinh tử luân hồi. Ðó là ý của bài kinh này vậy.

Cái biết của tưởng thức (ĐườngVề.6) là cái biết trong giấc mộng.

Cái biết của ý thức (ĐườngVề.6) là cái biết hằng ngày do sự phân biệt của sáu thức.

Cái khó của người tu hành theo đạo Phật (PhậtDạy.4) là ở chỗ Tỉnh Giác Chánh Niệm buông xả sạch dục và ác pháp, không phải chỗ nhập Bốn Thánh Ðịnh, thực hiện Tam Minh chứng quả A La Hán. Khi Tỉnh Giác Chánh Niệm buông xả sạch dục và ác pháp là trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự là chứng quả A La Hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào cả. Có người tu tập rất lâu mới chứng đạt được chỗ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác này.

Cái thấy, cái biết, cái nghe (TâmThư.1) không phải ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta. Cái THẤY là cái BIẾT của THẤY, mà cái biết của thấy là NHÃN THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH. Cái BIẾT là cái BIẾT của THỨC, mà cái biết của thức là cái biết của Ý THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH. Cái NGHE là cái BIẾT của NGHE mà cái biết của nghe là NHĨ THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH.

Cái thức (hay Cái biết)(LinhHồn) Trong thân chúng ta có 3 Cái biết: I- Cái biết thứ nhất: Hằng ngày chúng ta đang chung đụng và giao tiếp với mọi người bằng sáu cái thức (Cái biết) 1- Cái thức của mắt. 2- Cái thức của tai. 3- Cái thức của mũi. 4- Cái thức của miệng. 5- Cái thức của thân. 6- Cái thức của ý; II- Cái biết thứ hai: là cái biết trong giấc ngủ khi ngủ chiêm bao, cái biết ấy là của tưởng thức; III- Cái biết thứ ba: là cái biết của người tu theo Phật giáo chứng đạo gọi là Tam Minh. Ba cái biết này đang xử dụng các cảm thọ và các hành động trong thân tâm của chúng ta.

Cải thiện (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là khắc phục những lỗi lầm, sửa sai những lỗi lầm; thay đổi, làm cho tốt không còn để thói hư tật xấu. Sửa sai những lỗi lầm, thay đổi những thói hư tật xấu của mình.

Cà sa (TruyềnThống.1) là một loại áo mặc của những vị tu sĩ Phật Giáo bằng những vải thô xấu (vải vụn, vải bó thây ma).

Cành lá (TrợĐạo) được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng (được sự cung kính cúng dường) (Trung Bộ, kinh số 29. Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây).

Cảm Giác Toàn Thân (MuốnChứngĐạo) hít vô thì cảm nhận từ trên đầu xuống tới chân; thở ra thì cảm nhận từ chân lên đầu. Khi hít thở thì thân có độ rung do hơi thở, quí vị quan sát, lắng nghe độ rung đó.

Cảm nhận Tâm Hành (MuốnChứngĐạo) là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác. Ý thức xả tâm tức là Cảm Nhận Tâm Hành vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cho cảm nhận được sự động và sự tịnh của tâm.

Cảm nhận thân an tịnh (MuốnChứngĐạo) là đề mục làm cho xuất hiện tướng trạng thân an tịnh để đẩy lui bệnh khổ. Tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” vừa nương vào hơi thở. Tâm phải có thời gian để nương vào được trong hơi thở thì tướng an tịnh mới hiện ra. Cứ tiếp tục tập luyện riết trong những thời khóa khác thì chỉ sau 5 hơi thở là tướng an tịnh đã hiện ra rồi, thời gian được thu ngắn lại là nhờ khi ngồi chơi mà xả tâm vì thế vừa vào tập luyện chỉ mới nhắc là nó hiện ra ngay. Đó là có kết quả. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Cảm nhận thân an khi hít thở thân không bị động đậy, không bị rung động; khi hít thở thì thấy tâm không niệm, không niệm là yên tịnh. Cứ hai trạng thái đó mà cảm nhận thôi.

Cảm thọ (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(12Duyên) chỉ cho sự đau khổ của thân. Cảm thọ gồm có ba phần: 1- Cảm Thọ Lạc thì tâm ưa thích nên gọi là Ái Lạc 2- Cảm Thọ khổ thì tâm không ưa thích nên gọi là Ái Khổ. 3- Cảm Thọ Bất Lạc, Bất Khổ thì không chấp nhận, vì đó là một trạng thái của một người bình thường nên trạng thái này không được kéo dài thời gian. Muốn cho các cảm thọ không sinh ra thì phải ngăn ngừa không cho sáu trần xúc chạm với sáu căn. Nếu khi sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ thì cố gắng giữ tâm không hề dao động trước ba cảm thọ. Tác ý "Tất cả các cảm thọ (đau nhức, ngứa ngáy, mệt mỏi, tức lói, v.v... ) đều vô thường, vô ngã, không phải là ta, không phải của ta". Để thắng vượt cảm thọ thì ta tư duy: Tính chất của cảm thọ là vô thường vô ngã thì ta sợ gì; nó có làm gì được ta đâu mà sợ, mặc kệ nó, vì ta với nó là hai kẻ xa lạ; và cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đừng sợ cảm thọ, nó không phải là ta, của ta, nó là người xa lạ hãy đi, đi! Không được ở trong thân ta” hoặc ta tác ý như sau: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc “Thọ phải đi, đi! Thân phải an tịnh. Tôi biết tôi đang đi kinh hành”, luôn bám cho thật chặt vào hơi thở hoặc thân hành ngoại thì cảm thọ sẽ đi mất. Cảm thọ đi mất tức là dục đi mất. Dù tham, sân, si, ngã, vô ngã hay nhân quả... đều lấy thọ làm chỗ quy tụ.

Cảm thọ dục (PhậtDạy.2) Dục ở chỗ đau gọi là dục đau.

Cảnh giác (TâmThư.1) là pháp thế gian, không phải là một pháp môn tu tập. Cảnh giác là tâm lo sợ nghi ngờ, là sự đề phòng, là nỗi lo lắng, luôn luôn nghi ngờ người này người kia, là để phòng những đối tượng hại mình, chứ không lưu ý từng hành động thân, miệng, ý. Cảnh giác làm khổ mình nên lúc nào cũng dè dặt lo ngại. Người cảnh giác chỉ là một đức cẩn thận đề phòng bảo vệ cá nhân mình mà thôi, cho nên cảnh giác chỉ là nghi ngờ dò xét chứ không phải tỉnh giác. Ở đạo đức nhân bản - nhân quả thì dùng từ tỉnh giác, còn ở góc độ thông tin thế gian thì dùng từ cảnh giác. Nếu dùng tỉnh giác cho cuộc sống hằng ngày thì không cần dùng cảnh giác. Dùng “cảnh giác” thì phải dùng thêm “tỉnh giác” mới đem lại sự bình an cho mình thật sự, còn chỉ dùng riêng “cảnh giác” là đem đến cho mình một sự bất an lo lắng.

Cảnh giới Ðịa Ngục (YêuThương.2) là cảnh những con người xấu ác tự làm khổ mình khổ người và tất cả các loài động vật khác ở trên hành tinh này, vì sống không biết thương yêu và tha thứ. Bởi Thiên Ðàng và Ðịa Ngục không phải ở trên trời hay ở dưới lòng đất mà ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của con người. Bởi vậy Thiên Ðàng và Ðịa Ngục đều do con người mà có.

Cảnh giới Thiên Đàng (YêuThương.2) là cảnh con người sống trên hành tinh này mà sống biết thương yêu và tha thứ không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả vạn vật. Bởi Thiên Ðàng và Ðịa Ngục không phải ở trên trời hay ở dưới lòng đất mà ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của con người. Bởi vậy Thiên Ðàng và Ðịa Ngục đều do con người mà có. Cho nên những mẩu chuyện trên đây là nói lên ý nghĩa Thiên Ðàng và Ðịa Ngục.

Cảnh giới Thiên đàng và Cực lạc (ĐườngRiêng) là những cảnh giới tưởng do tưởng uẩn tạo ra, nên nó là cảnh giới không có thật, vì thế những người theo các tôn giáo này tu tập chỉ hoài công vô ích, thường sống trong ảo mộng, đau khổ lại hoàn đau khổ và cứ mãi tiếp tục tái sinh luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ chấm dứt. Hình ảnh mà chúng ta thường gặp đức Mẹ hiện ra hay chư Phật giáng trần đều là hình bóng tưởng do từ lòng tin không lay chuyển của chúng ta nên tưởng uẩn lưu xuất giúp chúng ta thỏa mãn lòng tin.

Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa (ĐườngVề.1) là dứt bỏ cuộc sống thế tục để cắt các duyên bên ngoài, không trang điểm làm đẹp, phải làm cho mình xấu xí, ăn mặc thì không được chải chuốt, mặc phải bằng những vải thô xấu, hình ảnh bên ngoài phải phá và dẹp bỏ cái đẹp đẽ của trần gian khiến cho mọi người không còn để ý đến mình thì mới dễ dàng tu hành. Người đi tu mà còn trang điểm làm đẹp, làm dáng là không thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn được.

Khi tu tập quán Tứ Niệm Xứ nếu thấy thân tâm cảm nhận có chướng ngại pháp: 1- Trên thân thọ có pháp ác đến, nghĩa là có cảm giác như: đau, nhức, ngứa, mỏi mệt, tê, nóng, rát trên thân, v.v... thì nên quán xét mà đẩy lui nó ra khỏi thân. Đẩy lui bằng cách: Khi ngồi kiết già chân bị tê, đau nhức hay nóng muốn đẩy lui chướng ngại pháp đó thì hãy đứng dậy đi kinh hành, tức khắc đau tê nhức được đẩy lui, tức là trở về trạng thái thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. 2- Trên tâm thọ có ác pháp đến, nghĩa là trong tâm có một niệm khởi, niệm khởi ấy đem đến một sự phiền não, một sự lo lắng, một sự buồn khổ, v.v... cho đến tâm có một niệm tào lao chẳng ích lợi gì tuy nó không làm cho tâm buồn khổ, phiền não, nhưng nó cũng làm cho tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự, vì vậy cần phải đẩy lui tất cả để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự thì mới đúng cách thức tu tập. 3- Trên Pháp thọ có ác pháp đến, có nghĩa là đang sống một mình và đang quan sát thân, thọ, tâm, và pháp thì có một người bạn đến nói chuyện, thì phải hiểu đó là ác pháp đến, khiến mất đi trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, nếu thích nói chuyện với người bạn đó hoặc tùy thuận nói chuyện để khỏi mất lòng bạn bè, thì trong cuộc đời tu hành không mạnh dạn quyết tâm đẩy lui các chướng ngại pháp đó thì dù có tu ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng bao giờ giải thoát được, vì đó là duyên để tâm phóng dật, mà tâm còn phóng dật thì chẳng bao giờ hết lậu hoặc, tâm không hết lậu hoặc thì làm sao tâm hết tham, sân, si được, tâm không hết tham, sân, si thì làm sao có thiền định được. 4- Thọ thân, thọ tâm, thọ pháp như thân thọ tâm pháp ở trên đã dạy đều có ác pháp đến xâm chiếm vào thân tâm thì nên quán xét đẩy lui để tâm luôn luôn sống trong thanh thản, an lạc và vô sự. Ở đây có nghĩa là tu tập đẩy lui như thế nào mà tâm tự nhiên không phóng dật. Tâm tự nhiên không phóng dật là đã đi hết hai phần ba đường của Ðạo giải thoát.

Chỉ có hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm, lúc nào, thời gian nào cũng đều phải quan sát trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó, để bảo vệ chân lý. Khi nào các chướng ngại pháp không còn tác động đến bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp là đã thành tựu viên mãn sự tu hành, đã chứng đạt chân lý, có nghĩa là lúc nào cũng sống với tâm bất động mà không một chướng ngại nào tác động được. Ðến đây con đường tu tập đã hoàn thành.

Cấm tà dâm (CữSĩTu) là “Giới đức chung thủy”. Người không tà dâm là thân và tâm của họ chung thủy, trung thành, tình nghĩa, chân thật. Một bậc Thánh cư sĩ thì không thể nào còn tà dâm. Còn tâm tà dâm thì làm sao gọi là Thánh cư sĩ được. Giới Ðức Chung Thủy là đức hạnh trước sau một lòng, có tình cảm gắn bó vợ chồng không thay đổi.

Cẩn ngôn (4Tâm) suy tư rồi mới nói và giảm tốc độ nói (có thì giờ suy nghĩ trước khi nói). Phải thường xuyên như lý tác ý câu này "Ta không nói thì thôi, mà nói ra thì phải làm vui lòng người".

Cẩn thận (TâmThư.1) mang theo hai tính chất chánh và tà, nên nói: Cẩn thận trong chánh niệm hoặc Cẩn thận trong tà niệm. Đức Cẩn thận không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống cẩn thận mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp.

Cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo (ĐườngVề.3) Phần thứ nhất là định lực, bảo tồn năng lượng, năng lực tự chủ. Phần thứ hai là hạnh lực, giữ gìn hành động thân, hành động lời nói và hành động suy nghĩ, làm cho oai nghi, tế hạnh nhẹ nhàng, êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, những hành động đó không thể vô tình, vô ý được. Vì vậy không làm khổ mình, không làm khổ người khác nữa. Phần thứ ba là tĩnh giác. Khi có cẩn thận, kín đáo, dè dặt, kỹ lưỡng thì phải có sức tĩnh giác rất cao, nếu không tĩnh giác thì cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo chỉ là danh từ suông. Vấn đề tu tập hàng đầu của đạo Phật là tu tập tĩnh giác, có tĩnh giác mới phát hiện được ác pháp và lòng tham đắm của mình. Phần thứ tư là chánh niệm, khi có cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo thì tâm luôn luôn ở trong chánh niệm, không có tà niệm xen vào, tức là không có niệm ác. Tuy những danh từ đơn giản nhưng hiểu ra để tu tập, trau dồi thân tâm là một công trình tu tập, mà còn phải biết các pháp hành đúng như pháp của Phật thì mới có kết quả tốt đẹp. Có cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì sự tu hành dễ tĩnh giác, các chướng ngại pháp ít xâm chiếm thân tâm. Người cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo mỗi tâm niệm thiện hay ác khởi lên nhận thấy được một cách dễ dàng. Người tu tập tĩnh giác, tức là tu tập Thân Hành Niệm, tức là tập luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo, chứ không phải sự tập trung tâm vào bước đi hoặc mọi hành động của thân, để cho tâm không khởi niệm vọng tưởng. Tu tập rèn luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngay trong sự kỹ lưỡng, dè dặt, cẩn thận, kín đáo đó trên mỗi hành động thiện hay ác của họ liền có sự giải thoát, khiến cho thân tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Vì sự cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo (tĩnh giác) trong thiện pháp (chánh niệm) nên thường ngăn chặn và diệt trừ các ác pháp (tà niệm).

Cận tử nghiệp (CầnBiết.1) là nghiệp lực trước khi chết do huân tập nhân quả trải dài thời gian của một kiếp con người. Ý thức ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim không đập, nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động, tức là tưởng thức hoạt động tạo ra giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao đó mọi người gọi là “cận tử nghiệp”. Chính nghiệp lực nầy đưa người ấy tiếp tục tái sanh kiếp mới của con người.

Cấp Giới Luật (PhậtDạy.1)(MuốnChứngĐạo) gồm có bốn lớp học Giới Luật: 1- Chánh Kiến 2- Chánh Tư Duy. 3- Chánh Ngữ. 4- Chánh Nghiệp. Khi học hết trọn vẹn cấp Giới Luật thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu.

Cấp Tam Minh (MuốnChứngĐạo) gồm có Tứ Thánh Định (1- Sơ Thiền. 2- Nhị Thiền. 3- Tam Thiền. 4- Tứ Thiền) và Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh).

Cấp thiền định (CầnBiết.4)(MuốnChứngĐạo) gồm có 4 thiền phải tu học 7 tháng. - Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ thiền. Cấp Thiền Định gồm có hai lớp: - Chánh Tinh Tấn (Tứ Chánh Cần). 2- Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ).

Cấp trí tuệ (CầnBiết.4) gồm có Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh).

Cầu cơ (ĐườngVề.9) là một hình thức cầu linh hồn người chết giáng cơ bút cho biết những điều mình ước muốn trong tương lai. Cầu cơ là một phương pháp tập hợp tín lực vào một đối tượng ảo tưởng để nội lực tín lực của những người có mặt trong lễ cầu cơ thực hiện những ước muốn. Nhất là những người trực tiếp cầu nguyện. Nếu những người đặt trọn lòng tin vào cơ bút thì tưởng uẩn sẽ hoạt động mạnh và rõ ràng. Còn không đủ tín lực thì tưởng uẩn không hoạt động, cơ bút không về hay nói cách khác là cầu cơ không được. Cầu cơ chẳng qua là một việc làm đánh thức năng lực của tưởng uẩn hoạt động. Năng lực tưởng uẩn hoạt động đúng thì người cầu cơ phải thân tâm thanh tịnh, nếu thân tâm không thanh tịnh thì cầu cơ không linh tức là không đúng, vì thế những học sinh cầu cơ thi rớt là vậy. Cho nên, trước khi cầu cơ thì thân phải tắm rửa sạch sẽ, còn tâm thì phải giữ gìn trai giới nghiêm chỉnh, nhờ có sự thanh tịnh như vậy nên tưởng uẩn giao cảm nhận ra từ trường đúng như thật. Còn thân tâm không thanh tịnh thì tưởng uẩn không nhận ra đúng, nên tín lực tạo thành ảo tưởng, vì thế mọi việc cơ báo đều sai.

Cầu cơ cũng giống như lên đồng, nhập cốt qua một hình thức khác nhưng cũng chỉ có một tưởng uẩn hoạt động mường tưởng như linh hồn người chết về nhập vào, thay vì nhập vào người thì gọi là lên đồng, lên cốt, nhập vào cơ thì gọi là cơ bút. Cho nên, cơ bút chỉ là tưởng uẩn của con người hoạt động, chứ không có linh hồn người chết hay Tiên, Phật, Thần Thánh, quỉ, ma nhập vào. Những điều kỳ lạ xảy ra chung quanh thế giới của con người cũng chỉ nơi thân tâm conngười lưu xuất, ngoài thế giới con người đang sống thì không bao giờ có thế giới vô hình nào khác. Bởi mỗi con người đều có năm uẩn mà phần sắc uẩn chỉ có một, còn phần không hình sắc tới bốn uẩn: 1- Tưởng uẩn (vô hình), 2- Thức uẩn (vô hình), 3- Thọ uẩn (vô hình), 4- Hành uẩn (vô hình). Cho nên, kẻ nào tin có Thiên Ðàng, Cực Lạc, có linh hồn người chết, có Phật tánh, có thần thức, có ma, quỷ là mê tín, là thiếu óc khoa học, là thiếu đạo đức nhân bản – nhân quả, là những người còn lạc hậu.

Cầu cơ là một loại mê tín tri thức do những nhà tri thức mê tín, trong đó có học sinh, sinh viên và một số người có trình độ học thức cao, nhưng vẫn không thoát ra khỏi sự mê tín này, ngay cả những nhà khoa học vẫn sống trong mê tín, vì những trạng thái mê tín này khoa học chưa giải thích được.

Cầu cơ là một sự đánh thức tưởng uẩn hoạt động để nó giao cảm với những từ trường mọi sự việc đã, sẽ xảy ra bằng tín lực của con người. Còn đúng hay sai là do thân tâm của những người cầu cơ có thanh tịnh hay không thanh tịnh như trên đã nói.

Cung kính (PhậtDạy.2) tỏ lòng tôn trọng, kính mến, không có chút lòng khinh bỉ xem thường, luôn luôn ngưỡng mộ mến yêu.

Cung kính và tôn trọng đối với mọi người (GiớiĐức.2) gồm có 9 pháp kính: 1.- Lời thăm hỏi, nghĩa là hỏi thăm sức khỏe hoặc hỏi thăm về công ăn việc làm, đồng thời hỏi thăm về con cái trong gia đình của người khác, đó là sự cung kính và tôn trọng người thứ nhất. 2.- Cúi đầu bái kính, nghĩa là khi gặp người khác, dù người trưởng thượng hay là những người bằng tuổi chúng ta hoặc trẻ con nhỏ hơn ta, ta đều cúi đầu bái kính, đó là sự cung kính và tôn trọng người khác thứ hai. 3- Dơ một tay xá hay đưa tay vẫy chào khi ở xa; nếu đối diện nhau thì bắt tay nhau nhưngười Âu Mỹ, đó là sự cung kính và tôn trọng chào hỏi lẫn nhau. 4- Chấp hai tay xá nghĩa là khi gặp nhau chấp hai tay lại xá nhau theo người Ấn Ðộ và tín đồ Phật giáo, đó là sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau thứ tư. 5- Co hai đầu gối nhún: nghĩa là khi hai người gặp nhau họ co hai đầu gối nhún ba cái. Đó là cách thức chào nhau của những dân tộc bộ lạc thiểu số ở miền rừng núi, thứ năm. 6- Quỳ dài nghĩa là người tín đồ khi vào đền thờ Thần, họ quỳ hai gối xuống, hai tay buông thỏng theo thân mình, gọi là quỳ dài. Ðó là sự cung kính và tôn trọng Thần linh của tín đồ ngoại đạo. 7- Hai tay chấp lại và đầu gối quỳ xuống đó là sự cung kính và tôn trọng của tín đồ Phật giáo. 8- Ngũ luân đều co, có nghĩa là đầu, hai tay và hai chân đều co lại đó là sự lễ Phật, cách thức cung kính và tôn trọng của Phật giáo. 9- Nằm sát đất có nghĩa là đầu, hai tay và hai chân nằm sát đất không nhúc nhích. Hành động đó là tỏ lòng hết sức cung kính và tôn trọng, mà còn có nghĩa là sợ hãi.

Cung kính, tuỳ thuận bậc Ðạo Sư (PhậtDạy.2) phải hết lòng cung kính tôn trọng, phải sống như Thầy của mình, nói lên được lòng cung kính ở nội tâm.

Cung kính, tuỳ thuận chúng Tăng (PhậtDạy.2) hãy chọn Tăng thanh tịnh giới làm Thầy, làm Ðạo Sư. Khi chọn đúng bậc Ðạo Sư thì ta nên y chỉ sống như bậc Ðạo Sư của mình không hề sai khác Người, lúc nào cũng gần gũi thân cận Người để thưa hỏi những điều cần biết, cần tu tập. Có sống như bậc Ðạo Sư và thưa hỏi cặn kẽ tất cả những thiện pháp để tránh những ác pháp.

Cung kính, tuỳ thuận học Pháp (Giới Luật)(PhậtDạy.2) Phải nghiên cứu tất cả hạnh Phạm Thiên tức là giới luật của Phật. Hạnh Phạm Thiên gồm có giới đức, giới hạnh và giới hành, là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người của Ðạo Phật. Phải sống như giới luật dạy, giới luật dạy sao phải sống đúng như vậy, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, tức là sống đúng lời dạy của đức Phật.

Cung kính, tuỳ thuận không phóng dật (PhậtDạy.2) phải cung kính, tôn trọng hạnh độc cư, vì có cung kính, tôn trọng hạnh độc cư thì tâm mới không phóng dật. Sống độc cư là sống phòng hộ sáu căn, là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp).

Cung kính, tuỳ thuận lễ phép xã giao (PhậtDạy.2) Tức là khéo léo thiện xảo thích ứng trong mọi hoàn cảnh về oai nghi tế hạnh của một người tu tập theo chánh pháp Nguyên Thủy.

Cung kính, tuỳ thuận Pháp (PhậtDạy.2) Phải cung kính cho đúng pháp, duy nhất chỉ có Pháp Thiện, phải từ trên pháp Tứ Niệm Xứ, phải tu tập từ pháp dễ đến pháp khó hơn. Bắt đầu là phải tu pháp Tứ Chánh Cần, trên Tứ Chánh cần phải tu Tứ Bất Hoại Tịnh (Tu Tứ Bất Hoại Tịnh là phải sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới), phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm (Muốn tu tập Tứ Vô Lượng Tâm phải tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Sáng Suốt, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác). Khi chọn pháp xong, mỗi khi muốn tu tập một pháp nào hãy ăn mặc tề chỉnh, hướng về pháp mà đảnh lễ ba lạy (cung kính) (xem thêm 37 phẩm trợ đạo) còn những pháp khác thì không cung kính và không tùy thuận.

Cúng dường đúng chánh pháp (ĐườngVề.9) là phải chọn một vị tăng giới đức nghiêm chỉnh, phải đầy đủ oai nghi tế hạnh, phải có một đời sống phạm hạnh, phải thiểu dục tri túc giống như Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa thì sự cúng dường ấy mới đúng là chánh pháp. Chọn được một vị tu sĩ như vậy thì phải thành tâm dâng lên cúng dường với một tấm lòng cung kính ngưỡng mộ, mặc dù của ít lòng nhiều, không phải đòi hỏi ở những món ăn cao lương mỹ vị mới có lòng thành, mà chỉ là những món ăn đơn giản như cơm muối, củ khoai và tương chao rau đậu luộc, v.v...

Cúng dường không đúng chánh pháp (ĐườngVề.9) là cúng dường cho những vị tăng phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng oai nghi tế hạnh. Cúng dường cho những vị tăng này là nối giáo cho ngoại đạo diệt Phật giáo. Bởi đức Phật dạy: “Giới luật Ta còn là Ðạo Ta còn, giới luật Ta mất là Ðạo Ta mất”, câu nói này có nghĩa là tu sĩ còn giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh thì đạo Phật còn, tu sĩ không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì đạo Phật mất.

Cúng dường phi pháp (ĐườngVề.1)(ĐườngVề.3) không nên cúng dường Phật và chúng Thánh Tăng thực phẩm động vật vì cúng dường như vậy không có phước mà tổn đức thêm trọng tội vì sát hại sanh linh. Vì sự sống của ta, ta không thể không ăn uống, nhưng ăn uống ta phải có lòng yêu thương muôn loài, trong ăn uống càng cố gắng tiết kiệm sự khổ đau, sự chết chóc của muôn loài vạn vật, đó là để thể hiện lòng thương yêu đúng ý nghĩa của đạo đức nhân bản – nhân quả làm người.

Cúng dường trai Tăng có phước báo lớn (ĐườngVề.7) là cúng dường cho cá nhân (tu sĩ) hay tập thể (giáo đoàn tăng, ni) phải thanh tịnh, tức có giới luật, giữ gìn nghiêm trì giới luật. Còn cá nhân (tu sĩ) và tập thể (Tăng đoàn)không thanh tịnh, không đoàn kết, không đạođức, sống phá giới và phạm giới thì cúng dường trai Tăng không được phước báo mà còn tạo thêm tội là vì tiếp tay cho những người này (tăng, ni) phá hoại Phật giáo.

Của phi nghĩa (10Lành) là của do gian tham, trộm cắp, manh tâm giành giựt của của người.

Cư sĩ trọc đầu (PhậtDạy.1) là chỉ một người tu sĩ Phật giáo tu tập giới luật không nghiêm túc, thường phạm giới, phá giới tức là không ly dục ly ác pháp. Ngoài hình thức đầu tròn áo vuông của một tu sĩ, hay một cư sĩ mà thôi, còn bên trong chỉ là Ma Ba Tuần đội lốt để kinh doanh mê tín, trừu tượng, ảo giác thế giới siêu hình.

Cướp (TruyềnThống.2) là một hành động hung ác ngang nhiên xông vào nhà lấy của người khác, nếu chủ nhân có sự cản trở thì ra tay giết hại không chút lòng thương xót.

Cứu cánh (PhậtDạy.2) nơi tột cùng của sự giải thoát, không còn có một nơi nào hơn được.

Cứu cánh an ổn khỏi khổ ách (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) tức là Minh Giải Thoát, là chánh tri kiến. Chánh tri kiến là sự hiểu biết mọi vật như thật, do hiểu biết mọi vật như thật nên mọi khổ ách đều được hóa giải.

Cứu cánh mục đích (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là tri kiến và giới luật. Đó là cứu cánh giữa Minh và Hạnh nên gọi là cứu cánh mục đích. Giới luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, “Tri kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến”.

Cứu cánh Phạm hạnh (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là do giới luật. Một tu sĩ sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là có giải thoát ngay liền. Giới ly dục ly ác pháp mà tâm ly dục ly ác pháp là tâm bất động, Tâm bất động là tâm không phóng dật. Do giới luật mà tâm được giải thoát nên gọi là Hạnh Giải Thoát tức là Cứu Cánh Phạm Hạnh. Người có Giới hạnh không thể nào tu tập lạc vào tà pháp ngoại đạo.

Cựu Tỳ Kheo (ThờiKhóa) là Người tu sĩ tu lâu năm, giới luật đã thanh tịnh, không còn vi phạm lỗi và đã nhập được Sơ Thiền.

Có hân hoan nên hỷ sanh (CữSĩTu) có niềm vui thì thân được nhẹ nhàng an lạc. Khi có niềm vui thì toàn bộ thân tâm có một cảm giác thọ hỷ một cách kỳ lạ. Chỉ có người tu tập đến những trạng thái đó mới cảm nhận được, người ngoài cuộc không thể biết được.

Có hỷ, nên thân được khinh an (CữSĩTu) cơ thể ta an lạc và nhẹ nhàng như không còn trọng lượng, bước đi rất thoải mái, thân không còn đau nhức hay mệt mỏi gì cả, một trạng thái của thân an lạc vô cùng.

Có sống đạo mới vui đời (TâmThư.1) Đạo là đạo từ bi nên có nghĩa là mọi người biết thương yêu nhau thì đời mới vui. Ðạo Phật lấy giới luật đức hạnh làm cuộc sống của mình, cho nên người nào sống đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì cuộc đời họ mới có sự an vui chân thật.

Cõi A Tu La (ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(CầnBiết.2) là trạng thái tâm sân. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau, chứ không phải hơi ấm trên thân người. Cõi Atula (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là những người hay sân hận, giận dữ, chuyên môn đi đánh lộn,không biết nhường nhịn và nhẫn nhục ai cả, chỉ biết la hét đánh đập với nhau. Cõi Atula (theo kinh sách Nguyên Thủy) là chỉ cho những người bản chất nóng nảy sân hận, giận dữ chuyên đánh đấu đá với nhau. Kinh Nguyên Thủy thường nhắc đến vua Atula đem quân đánh Trời Ðế Thích, đó là chỉ cho những hạng người chuyên môn đi đánhcướp nước người, giết hại sanh linh. Cõi Atula (theo Phật giáo phát triển) nếu ở cõi Người sanh tâm làm ác, thường giận dữ, thích đánh đá, đến khi lìa bỏ thân người linh hồn ấy tiếp tục (nghiệp lực ác) tái sanh vào cõi Atula. Một Ngạ quỷ biết bố thí, biết san sẻ nhưng không từ bỏ những tâm sân, dữ tợn thì đến khi chết sanh vào cõi giới Atula.

Cõi Ðịa Ngục (ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là trạng thái thân tâm đau khổ, ê ẩm nhức nhối, phiền não, bất an, bất toại nguyện, v.v... Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Cõi Ðịa ngục là những người đang bệnh đau, đang khổ sở rênla trên giường bệnh, chúng ta hãy đến nơi cácbệnh viện nơi đó là Ðịa ngục của những người bệnh tật trầm kha kinh niên, quanh năm suốt tháng đau nhức chỗ này chỗ kia, khổ sở vô cùng hoặc nằm trên giường bệnh suốt nhiều năm tháng, chết không chết, sống không sống, đại tiểu tiện một chỗ, chịu hôi chịu thối của chính bản thân mình, v.v... Thật là đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông. Cõi Ðịa ngục (theo Phật giáo phát triển) Ngạ quỷ đang sống trong cảnh giới Ngạ quỷ mà tính tình hung dữ, thường làm nhiều điều tội ác, sát hại chúng sanh để ăn thịt, ích kỷ bỏn sẻn không từ bỏ thì Ngạ quỷ đến khi chết sanh vào cảnh giới Ðịa ngục, tức là thân tâm và cuộc sống của họ thường phải chịu nhiều khổ đau như: tù tội, giam cầm, gông cùm, tra tấn, đánh đập, v.v….

Cõi Ngạ quỷ (ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) Ngạ quỷ là những người nghèo đói, khổ sở không có cơm ăn, áo mặc. Cõi Ngạ quỷ (theo kinh sách Nguyên Thủy) là chỉ cho những người sống trong cảnh đói khổ thiếu trước hụt sau mọi mặt, muốn ăn không có mà ăn, muốn ăn mà ăn không được. Cho nên, kinh thường diễn tả một Ngạ quỷ bụng to như trống chầu mà cổ nhỏ như cây kim vì thế đói khát mà ăn uống chẳng được nên gọi là Ngạ quỷ. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Cõi Ngạ quỷ (theo Phật giáo phát triển) Nếu một Atula tâm thường giận dữ, ích kỷ, bỏn xẻn, hà tiện không dám tiêu xài, không dám bố thí cho những người bất hạnh. Sau khi Atula này chết bỏ thân tái sanh làm thân Ngạ quỷ. Ðời sống Ngạ quỷ thường đói khổ, muốn ăn không có mà ăn hoặc muốn ăn màkhông ăn được; muốn uống không có mà uống hoặc có mà không uống được.

Cõi Người (ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) Cõi Người là cõi nhữngngười đang sống đúng năm điều lành không hề phạm phải, còn những người sống không đúngnăm điều lành này là cõi khác chứ không phải cõi người. Cõi Người là trạng thái tâm Năm giới còn ý thức dục, trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Ở cõi Người, con người có thiện, có ác, có dục, có ái, có thương, có ghét, v.v... đó là những con người sống một đời sống bình thường nên có vui, có buồn, có bệnh tật, tai nạn, có phiền não khổ đau, có bất toại nguyện, có rầu lo sợ hãi, nhưng lại biết buông xả nhẹ nhàng nên vẫn thấy có hạnh phúc. Tuy cơm ăn áo mặc đầy đủ, không thiếu trước hụt sau, nhưng vì là đời sống con người nên không thể tránh khỏi luật nhân quả chi phối.    

Cõi Người (theo Phật giáo phát triển) Các chư Thiên hưởng phước báo, nhưng lại sanh lòng dục, tạo ác pháp, chờ hưởng hết phước báo cõi Trời thì các vị Trời ấy sẽ chết và phải đọa làm thân Người nghĩa là Chư Thiên chết sanh làm người do dục và ác pháp. Các Atula mà biết làm thiện ít giận hờn, không đánh đá ai hết đến khi chết sẽ được sanh làm Người. Ngạ quỷ mà biết bố thí và biết san sẻ, không giận dữ, biết ngăn ngừa các ác pháp, biết không làm khổ mình, khổ người thì từ một Ngạ quỷ sau chết được sanh vào cõi Người.

Cõi Súc Sanh (ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là trạng thái thân tâm ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, bẩn thỉu, ăn uống đồ bất tịnh, hôi thối, rượu chè say sưa quậy phá, v.v... Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Cõi súc sanh có hai phần: - Phần thứ nhất là chỉ cho những con người mang hình dáng con người mà tâm địa súc sanh. - Phần thứ hai là chỉ cho các loài vật chúng sanh hiện có mặt trên hành tinh này. Súc sanh gồm có những con người tuy mang hình người mà bản chất sống như loài thúvật, họ chẳng hề sống có một chút đạo đức làmngười nào cả, cho nên, dưới đôi mắt của đức Phật, những người này là súc sanh (động vật), và các loài thú vật.      

Cõi súc sanh (theo Phật giáo phát triển) là những loài động vật đang sống quanh ta trong thế giới hiện hữu này, chứ không có cõi nào khác nữa cả.

Cõi Trời (ĐườngVề.3)(ĐườngVề.5)(ĐườngVề.7)(CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là trạng thái tâm Thập thiện của những người đang sống đúng trong mười điều lành, tâm hồn của họ thường thanh thản, an lạc và vô sự, không làm khổ mình, khổ người, khônglàm điều ác, toàn làm điều thiện. Ðó là những bậc chân tu, thạc đức đang sống trầm lặng, sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau, chứ không phải hơi ấm trên thân người. Cõi Trời tức là nói đến hành động thiện của con người, chứ không phải nói đến thế giới siêu hình. Ðức Phật nói: “Ta đến cõi Phạm Thiên như duỗi cánh tay”. Lời nói này phải hiểu cõi Phạm Thiên là một trạng thái, một từ trường thiện vô dục. Kinh sách Phật đã xác định rõ ràng: “Bốn trạng thái Tứ Thánh Ðịnh là bốn trạng thái cõi Trời”: 1- Sơ Thiền Thiên, 2- Nhị Thiền Thiên, 3- Tam Thiền Thiên, 4- Tứ Thiền Thiên.      

Cõi Trời (theo Phật giáo phát triển) ở cõi Trời, chư Thiên hưởng phước báo do nhờ ở cõi thế gian con người làm thiện, ít ham muốn, đến khi chết sẽ được sanh vào. Hoặc những Atula làm thiện, ít dục, không giận dữ, không đánh đập, không làm khổ mình, khổ người thì đến khi chết sẽ được sanh vào cõi Trời. Ngạ quỷ mà sống toàn thiện, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì đến khi chết họ cũng được sanh vào cõi Trời.

Cõi Trời Ðâu Xuất (ĐườngVề.9) trong không gian chúng ta có 33 từ trường thiện (33 cõi Trời) muốn tươngưng với từ trường nào đó thì đức Phật nhập vào trạng thái từ trường đó ở tâm mình thì bắt gặp ngay liền từ trường thiện đó. Từ trường thiện đó không phải linh hồn của người chết. Xin đừng hiểu sai lệch, vì không có ngôn ngữ nên chúng tôi không thể giải thích mà chỉ tạm dùng danh từ “từ trường” chứ chưa được đúng lắm. Trong khoảng không gian trên hành tinh của chúng ta là một môi trường sống, có nhiều từ trường thiện và ác. Những từ trường ác theo nghiệp ác hợp thành thế giới khổ đau (sắc giới, dục giới và vô sắc giới), còn từ trường thiện theo nghiệp thiện nên không hợp thành thế giới được vì là một từ trường đơn điệu. Muốn thành một cõi giới thì phải có một sự hợp thành, không có một sự hợp thành thì không có cõi giới. Thế giới chúng ta đang sống mà đức Phật đã xác định là thế giới duyên hợp, do 12 nhân duyên hợp lại mà tạo thành thế giới này. Vì thế, một từ trường đơn điệu không thể tạo thành một thế giới được.

Con đường Bát Chánh Ðạo (PhậtDạy.1) chia ra làm ba cấp tu tập: - Cấp I Giới Luật. Khi học hết cấp này trọn vẹn thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu. - Cấp II Tứ Thánh Ðịnh. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn chưa trọn vẹn thì chỉ có “chứng chỉ” Thất Lai (Tư Ðà Hàm) cao hơn một chút nữa thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm). - Cấp III Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này thì tâm vô lậu hoàn toàn được “cấp bằng” Niết Bàn (A La Hán). Ba cấp tu này chia ra tám lớp học, thì tâm người ấy vô lậu hoàn toàn, chứng quả A La Hán. “Cấp bằng” cao nhất trong Ðạo Phật là Niết Bàn.

Con đường Phạm hạnh (PhậtDạy.4) sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.

Con đường trung đạo (12Duyên) là con đường vượt ra khỏi hai cực đoan, gồm có 12 nhân duyên: Từ duyên Vô Minh khởi nên duyên Hành khởi. Từ duyên Hành khởi nên duyên Thức khởi. Từ duyên Thức khởi nên duyên Danh Sắc khởi. Từ duyên Danh Sắc khởi nên duyên Lục Nhập khởi. Từ duyên Lục Nhập khởi nên duyên Xúc khởi. Từ duyên Xúc khởi nên duyên Thọ khởi. Từ duyên Thọ khởi nên duyên ÁI khởi. Từ duyên ÁI khởi nên duyên Hữu khởi. Từ duyên Hữu khởi nên duyên Thủ khởi. Từ duyên Thủ khởi nên duyên Sinh khởi. Từ duyên Sinh khởi nên duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi. Từ duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi nên duyên Vô Minh khởi. (là toàn bộ khổ uẩn theo 12 duyên tập khởi).

Con đường tu học của Phật giáo (TâmThư.1) có ba chặng: Chặng đầu gọi là Giới, chặng giữa gọi là Ðịnh, Chặng cuối cùng gọi là Tuệ.

Con đường tu tập giải thoát (Tạoduyên) theo những lời dạy của phật Sakya Gotama trong các kinh nguyên thủy chữ Pali.

Con đường tu tập theo Phật (Phậtdạy.3) phải trải qua ba giai đoạn: 1- Giai đoạn thứ nhất: “Ðể chứng đạt những gì chưa chứng đạt (Ly dục ly ác pháp)”. 2- Giai đoạn thứ hai: “Ðể chứng đắc những gì chưa chứng đắc (Nhập Bốn Thiền)”. 3- Giai đoạn thứ ba: “Ðể chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ (Thông suốt Tam Minh)”.

Con ngựa chưa thuần thục (CầnBiết.3) có nghĩa thân tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu thiền định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu thiền định của Đạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu thiền định mới bảo đảm. Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền định.

Con ngựa thuần thục (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng ta mới tu tập Thiền định. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng. Lúc bấy giờ chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định. Nền tảng thiền định của Ðạo Phật là giới luật mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Ðịnh. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy.

Con người của nhân quả (PhậtDạy.4) là con người của tham, sân, si. Con người tham, sân, si là con người đau khổ.

Con người hoàn hảo (ĐườngVề.9) là một con người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, trong cuộc sống hằng ngày đối với ông bà, cha mẹ, anh em, chị em, vợ chồng, con cái, bà con quyến thuộc, bạn bè thân hữu, chòm xóm láng giềng, v.v… luôn luôn phải đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và còn phải biết tha thứ thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, nhờ đó mới không làm khổ mình, khổ người. Ðây là giai đoạn tu tập giải thoát thứ nhất mà người cư sĩvà tu sĩ đạo Phật nào muốn cầu giải thoát thì cũng đều phải tu tập cho viên mãn.

Con người phi thường (MuốnChứngĐạo) Có ba phi thường: - Phi thường thứ nhất: làm chủ sinh, già, bệnh, chết. - Phi thường thứ hai: có ba trí tuệ siêu việt. - Phi thường thứ ba: tâm luôn bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Công đức (TâmThư.2) là sống đúng giới luật chuyển được ác nghiệp, do chuyển được ác nghiệp mới không còn đau khổ, không còn đau khổ.

Công đức rất lớn (TruyềnThống.2) là nói đến thiện pháp, nhưng đừng hiểu thiện pháp hữu lậu, mà phải hiểu là giới luật. Giới luật là thiện pháp vô lậu, vì vô lậu mới có lợi ích rất lớn. Ðức Phật đã từng dạy: “Tam Vô Lậu Học” là Giới vô lậu, Ðịnh vô lậu, Tuệ vô lậu. Cho nên thiện pháp vô lậu của giới luật sẽ chuyển hoá tất cả ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác.

Cốt tủy thiền định (ThiềnCănBản) hay nền tảng thiền định (ThiềnCănBản) của đạo Phật là chỗ ly dục, ly bất thiện pháp, phải nhắm vào đức hạnh và giới luật của đạo Phật để xả tâm, để ly ác pháp.

Cội nguồn sanh ra mọi đau khổ phiền não của con người (CầnBiết.2) gồm có 10 phiền não gốc: 1.- Tham: là lòng tham lam. 2.- Sân: là nóng giận. 3.- Si: là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng, không thể nhìn thấy được sự thật,phán đoán được cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu. 4.- Mạn: là ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, là nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; mình có tiền của tài trí, có học thức, có bằng cấp cao, có quyền thế mà sanh tâm "sanh âm sanh dương" với ngườiđức hạnh, chà đạp kẻ dưới,lấn lướt người trên. Mạn có bảy thứ: 1- Mạn: Nghĩ mình hơn người. 2- Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướtngười. 3- Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơnngười, người hơn mình mà cho là bằng. 4- Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. 5- Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng 6- Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít. 7- Tà mạn: Người tu về tà mạn được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khác, xem trời đất không còn ai. 5.- Nghi: là nghi ngờ, là lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin. Nghi ngờ có ba: 1- Tự nghi: là nghi mình. 2- Nghi pháp: là nghi phương pháp mình đang tu, nghi pháp mình đang tu không đúng chánh pháp của Phật. 3- Nghi nhân: là nghi người dạy mình, không tin ông thầy dạy mình. 6.- Thân Kiến: là chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta. 7.- Biên Kiến: có nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng nhưcác nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là danh từ mà thôi. 8.- Kiến thủ là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình, có ba trường hợp: 1- Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác: Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng, như tư tưởng chơn không, Phật tánh, v.v... Cũng nhưthấy những hiện tượng nhập đồng, nhập cốt do cô, cậu hoặc linh hồn người chết oan nhập vào, nói đâu trúng đó, rồi cho đó có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình, rồi chấp chặt, ai nói gì cũng không tin. Do sự chấp chặt này, họ phải chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời sống. 2- Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình: Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay, là giỏi, ai nói gì cũng chẳng nghe. 3- Kiến thủ vì tự ái, hay vì ngoan cố cứng đầu: Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không chịu từ bỏ, xa lìa. 9.- Giới cấm thủ: Có nghĩa là làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo. Những giới cấm của tà giáo ngoại đạo này phần nhiều vô lý, phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v... Những giới cấm này khiến cho con người bất hiếu và tự làm khổ mình. 10.- Tà kiến là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức, mê tín. Nghĩa là trên đời này, cái gì ý thức không hiểu được, mà phải dùng tưởng thức để hiểu, hiểunhư vậy là hiểu một cách mơ hồ, trừu tượng, không rõ, không thực tế, không cụ thể, thì đều gọi là tà kiến.

Cỗ xe Thân Hành Niệm (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4)(MuốnChứngĐạo) gồm có tất cả các hành động nội ngoại của thân, nghĩa là hành động tay, chân và hơi thở phải được sắp xếp như thế nào cho hợp lí khi đi, đứng, nằm, ngồi, cúi đầu, nhìn, ngó, liếc v.v… Trong các hành động trong thân còn một hành động tự động của thân, đó là Hơi Thở, vì hơi thở là một hành động tự động của nội thân, nó rất quan trọng trong việc tu tập Thân Hành Niệm, nếu thiếu nó thì pháp Thân Hành Niệm chưa đủ. Trong lúc pháp môn Thân Hành Niệm chưa thành căn cứ địa, nhưng nó vẫn thành tựu như một cổ xe kiên cố, tuy rằng nó còn có mọi chướng ngại pháp xâm chiếm vào, nhưng cứ ôm pháp tiến lên để vượt qua các chướng ngại ấy để chiếc xe Thân Hành Niệm không dừng lại. Như vậy là đã kết hợp các Thân Hành Niệm thành được cổ xe kiên cố. Nếu cổ xe bị đứng lại khi bị những chướng ngại pháp thì chưa kết hợp các Thân Hành Niệm trở thành cổ xe mà chỉ mới tu tập pháp Thân Hành Niệm mà thôi.

Ch

Chấm dứt tái sanh luân hồi (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.3) tức là chấm dứt sự đau khổ của muôn vạn kiếp làm chúng sanh. Khi chấm dứt tái sanh luân hồi mang năng lượng tỉnh giác trí tuệ, luôn luôn lúc nào cũng ở trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, chỗ tâm không còn ái dục. Trong không gian có một từ trường thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế người tu hành giữ gìn tâm không phóng dật là ở trạng thái từ trường đó, nên tâm không phóng dật. Trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự bên ngoài không có thì tâm chúng ta cũng không giữ gìn được thanh thản, an lạc và vô sự. Chấm dứt được sanh tử luân hồilà từ bỏ được tâm tham chứng quả vô lậu A La Hán.

Chân nhân (Tạoduyên) Bậc tu chứng đạo.

Chân pháp (ĐườngVề.5) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Chế ngự (PhậtDạy.2)(TruyềnThống.2)(CầnBiết.3) nghĩa là làm cho nó giảm bớt, không còn tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Chế ngự là ngăn chặn làm cho đối phương phục tùng, làm cho kẻ khác phải đầu hàng, làm cho giảm bớt, khiến đối phương phải làm theo ý lệnh của mình.

Chế ngự các căn (TrợĐạo) Trong thân con người có sáu căn. Ở đây chỉ tìm hiểu năm căn: 1- Nhãn căn (hai con mắt); 2- Nhĩ căn (hai lỗ tai); 3- Tỷ căn (hai lỗ mũi); 4- Thiệt căn (lưỡi); 5- Thân căn (cơ thể). Chế ngự các căn là làm cho căn không chạy theo các trần bên ngoài, không bị các trần bên ngoài lôi cuốn các căn. Căn và trần không lôi cuốn, không chạy theo thì tâm Bất động hiện tiền. Muốn tu chứng đạo hãy siêng năng Chế Ngự Các Căn. Muốn chế ngự các căn có kết quả hãy tu tập các pháp môn “Chánh Niệm Tỉnh Giác”. Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn tu tập trên Thân Hành ngoại và Thân Hành Nội tức là nương vào Thân Hành tu tập.

Chết (12Duyên) là cơ thể bị hủy diệt, tử vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt v.v... đó là một sự khổ mà con người không ai tránh khỏi.

Chết khổ (ĐạoĐức.2) Chết khổ là sự dừng hơi thở, nhưng trước khi dừng hơi thở thì con người phải thọ lấy những sự khổ đau tận cùng của thân và tâm. Tâm thì lo âu cho những người thân: anh, chị, em, con, cháu... lo lắng những việc làm chưa xong còn bỏ dở... nuối tiếc lúc phân ly hay rất sợ hãi trước cái chết... Còn về cơ thể bị bệnh đau nhức bất an, trăn qua, trở lại, vật vã người, mệt nhọc khó thở, v.v... cho đến khi kiệt sức mới chịu dừng hơi thở, tức là chết... Chết khổ là một sự thật hiển nhiên, nên là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài. Cái vui này là cái vui vô lượng (TâmThư.1) Người tu sĩ Phật giáo thấy cái ác, cái khổ của người liền tìm cách khuyên ngăn đừng làm ác và giúp cho người thóat khổ, để đem lại cho người nguồn vui hạnh phúc, chứ không làm cho người khổ hoặc bơi móc chuyện xấu của nguời hoặc nói xấu hoặc nói thêu dệt, thêm bớt hoặc nói li gián, v.v... Cho nên người tu sĩ Phật giáo lấy cái vui của người và lấy cái thiện để chuyển hóa cái khổ của người để làm nguồn vui chung cho mình, cho người. Người tu sĩ Phật giáo không có cái vui riêng cho mình. Vì vui buồn đối với người tu sĩ Phật giáo chỉ là pháp vô thường nên chẳng vui cũng chẳng buồn, lúc nào thân tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi.

Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ (PhậtDạy.4) Ðây là lời khuyên của đức Phật đối với những đệ tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham nhiều, không nên đòi hỏi món này, món kia, ai cho gì ăn nấy, dở ngon không cần, chỉ ăn để sống, sống để tu hành ly dục ly ác pháp, ly tất cả dục lạc trên cõi đời này, sống trong hạnh thiểu dục tri túc để luôn luôn sống đúng phạm hạnh; không phải ăn để mập, để béo, để hưởng thụ. Phải lấy câu này làm các câu tác ý tự kỷ ám thị hằng ngày để nhắc nhở tâm ít muốn biết đủ (thiểu dục tri túc). Giới luật mới nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào; mới ly dục ly ác pháp; tâm mới thanh thản, an lạc và vô sự; nhờ đó mới chứng đạt chân lí.

Chi phối (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là tác dụng điều khiển.

Chỉ trích (Phậtdạy.3) là sự nói xấu người khác. Có ba cách: 1- Ðặt điều ra nói xấu người. 2- Bới móc chuyện xấu của người khác, để tỏ ra mình là người tốt. 3- Phê bình chỉ trích những việc làm của kẻ khác, để tỏ ra mình là người thông thái.

Chiếc bè sang sông (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) Không còn dùng nữa, cho nên đức Phật cho nó là chiếc bè sang sông. Những giáo pháp của Phật được gọi là chiếc bè sang sông là các pháp môn Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Tứ Thần Túc. Những giáo pháp của Phật không phải chiếc bè sang sông là Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Niệm Xứ, Định Vô Lậu Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và giới luật.

Chiêm bao (LinhHồn) là cái thức Tưởng trong thân con người hoạt động, do tưởng thức của chúng ta tạo ra hình ảnh của người khác. Sống với ý thức không có chiêm bao được.

Chiên Ðà La (TruyềnThống.2) là giai cấp cùng đinh, làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho người khác.

Chín đức hạnh (Giới Bát Quan Trai)(ĐườngVề.9) gồm có: 1/ Ðức hiếu sinh (Lòng thương yêu sự sống của muôn loài). 2/ Ðức buông xả (Không gian tham trộm cắp cướp giựt, móc túi, lấy của không cho). 3/ Ðức chung thủy (Không tà dâm lấy vợ người, chồng người khác). 4/ Ðức thành thật (Không nói dối). 5/ Ðức sáng suốt (Không uống rượu). 6/ Ðức tự nhiên (Không trang điểm, đeo vòng vàng chuỗi ngọc và thoa dầu thơm). 7/ Ðức trầm lặng độc cư (Không ca hát, không nghe ca hát, không gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú). 8/ Ðức thanh bần (Không nằm giường cao rộng lớn). 9/ Ðức ly dục (Không ăn uống phi thời, Không ăn uống lặt vặt, chỉ ăn ngày một bữa).

Tám giới luật Phật tức là chín đức hạnh.

Chịu đựng khổ thọ (12Duyên) Khi cảm giác khổ thọ tận cùng của sức chịu đựng thì trở nên mát lạnh. Các cảm thọ là Vô Thường thì tâm không còn ưa thích và cũng không còn sợ hãi, vì thế khổ thọ đối với chúng ta không còn ý nghĩa tác dụng nên chúng ta vẫn thản nhiên, tâm bất động. Khổ thọ vẫn là pháp Vô Thường nên nó không làm gì được chúng ta. Đối với pháp Vô Thường chúng ta đừng sợ, đừng dao động tâm thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Hãy cố gắng gan dạ chịu đựng sự đau khổ tận cùng sinh mạng mình thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Do đó khổ thọ không còn tác động vào tâm được, tâm không còn dao động và trở nên mát lạnh, và cơ thể chỉ còn là một cái thây ma vô tri mà thôi.

Chịu thọ khổ trong cảnh địa ngục tại trần gian (GiớiĐức.1) để cho mọi người trông thấy cảnh bịnh tật, khổ đau tận cùng khi tu hành chưa đến nơi, đến chốn, bị tưởng giải mà viết dịch sai ý kinh sách khiến tín đồ Phật giáo hiểu sai kinh điển Phật giáo là tự mình phỉ báng Phật Pháp; Tăng, ni ăn uống phi thời, ngồi lều, ngồi quán; đi đứng, nói nín, oai nghi tế hạnh chẳng có; tăng, ni nam nữ chung chạ gần gũi... Tất cả những lỗi này tăng, ni phải nhiều đời nhiều kiếp đọa địa ngục và còn tái sanh làm thân súc sanh. Do thế, tất cả giới luật của Phật rất quan trọng đối với tăng, ni khi đã cắt ái ly gia, xuất gia học đạo, thì phải hết sức giữ gìn giới luật.

Chú tâm cảnh giác (PhậtDạy.1) biết chú tâm cảnh giác từng tâm niệm, từng đối tượng của mình để ngăn và diệt các pháp ác, đó là người đang thể hiện Hạnh Ðức của mình. Ðó là Ðịnh Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ, là Hạnh Ðức của vị tu sĩ và của vị cư sĩ.

Chú tâm tỉnh giác (12Duyên)(CầnBiết.4) là pháp môn nương vào thân hành niệm nội và ngoại tu tập để đoạn tận lậu hoặc: 1/ Chánh Niệm Tỉnh Giác 2/ Mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở. 3/ Thân Hành Niệm. Nếu ai tu đúng pháp Chú tâm tỉnh giác thì sức tỉnh giác rất cao, tỉnh giác trong cuộc sống hằng ngày, có việc gì xảy đến đều hóa giải một cách dễ dàng, có nghĩa là đẩy lui các chướng ngại pháp một cách dễ dàng. Còn nếu ai tu sai thì bị ức chế tâm, sinh ra các trạng thái tưởng và có thể rối loạn thần kinh, hoặc đứt mạch mao phế quản trong phổi. Muốn được tỉnh giác thì chỉ có pháp Như Lý Tác Ý và đi kinh hành. Cách chú tâm tỉnh giác là vị Tỳ kheo ban ngày trong khi đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các triền cái. Ban đêm trong canh một, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái. Ban đêm trong canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên hữu, trong tư thế con sư tử, chân này đặt lên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng đến lúc ngồi dậy. Ban đêm trong canh cuối, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái, như vậy gọi là chú tâm tỉnh giác”.

Chùa (Tạoduyên) là nơi để tu hành giải thoát, không phải chùa là nơi để nghỉ mát, nghỉ hè, làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho tăng, ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, Tuệ Tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội. Đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật, để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của đức Phật.

Chùa Am (ChùaAm) ngày xưa chỉ là một túp lều tranh với một cốt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất sét do anh em mục đồng và ông sơ vị trụ trì đời thứ 5 chùa Am (là Thầy Thông Lạc) khéo tay làm ra. Ngày nay cốt tượng ấy đã bị giặc Pháp càn quét đập phá tan nát làm mất một di chứng lịch sử, thật đáng tiếc. Chùa Am ngày nay là một cơ sở giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, nó có tám lớp học đạo đức để đào tạo những con người hữu duyên từ phàm phu, trở thành những bậc Thánh Hiền. Chùa Am cũng hiểu mọi việc đều do duyên nhân quả phước báu của mọi người, nếu mọi người không đủ phước báu thì dù có muốn cũng không làm nên được, cho nên làm được hay không đều do phước của mọi người chớ không phải do người chủ trương, đời họ làm chưa xong thì các thế hệ đời sau sẽ nối tiếp chí hướng đó mà không bao giờ bỏ cuộc.

Chuyên cần, tinh tấn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là phải bền chí siêng năng không lúc nào biếng trể, phải luôn luôn hăng hái sửa đổi, cải thiện những tính ác của mình và luôn luôn làm những điều lành, đoạn diệt những điều dữ và lòng ham muốn của mình. Phàm làm người ai cũng đều có những lỗi lầm. Có những lỗi lầm nhưng biết sửa mình, biết cải hối, biết làm cho mình sống thiện, biết sửa sai những điều ác để trở thành sống trong những điều thiện. Từ những người xấu trở thành những người tốt đều là những người biết cải hối, ăn năn, biết xấu hổ với những việc làm ác của mình thì người ấy sẽ trở thành người thiện, người tốt, người có ích lợi cho mình, cho người, cho xã hội, v.v...

Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành (CầnBiết.5) nghĩa là: Các Pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện. Hai câu này là chỉ cho pháp hành, tức là gieo nhân thiện, diệt nhân ác. Gieo nhân thiện diệt nhân ác tức là hằng ngày phải sống bằng những hành động thiện. Sống bằng những hành động thiện là luôn suy nghĩ những điều thiện và ngăn chặn những ý niệm điều ác; luôn nói những lời lành và ngăn chặn những lời nói ác; luôn làm những việc lành và ngăn chặn làm những việc ác.

Chư Thiên tăng thì con người giảm, chư thiên giảm thì con người tăng (ĐườngVề.9) có nghĩa là từ trường thiện tăng thì từ trường ác giảm, từ trường ác tăng thì từ trường thiện giảm. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn nhân quả thiện tăng thì nhân quả ác giảm, nhân quả ác tăng thì nhân quả thiện giảm. So sánh luật nhân quả là so sánh thiện và ác, cho nên trong sáu nẻo luân hồi của đạo Phật là sáu trạng thái của tâm: 1- Trời là trạng thái tâm sống trong 10 điều lành gọi là thập thiện. 2- Người là trạng thái tâm sống trong năm điều lành gọi là ngũ giới. 3- A tu la là trạng thái nóng giận, la hét, chửi mắng, đấm ngực, cào mặt. 4- Ngạ quỷ là trạng thái đang bị đói mà không có thực phẩm ăn. 5- Súc sanh là trạng thái ti tiện nhỏ mọn, ích kỷ. 6- Ðịa ngục là trạng thái đau khổ như đang đau nhức do bệnh tật, do bị đánh đập.

Chưa chứng đạo (TâmThư.2) Giới luật chưa nghiêm chỉnh, còn ăn uống phi thời, chưa sống thiểu dục tri túc, còn dùng phương pháp dưỡng sinh trị bệnh là chưa chứng đạo.

Chứng đắc những gì chưa chứng đắc (CầnBiết.4) là Nhập Bốn Thiền

Chứng đạo (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4)(12Duyên)(ĐườngVề.7)(ĐườngRiêng)(TâmThư.1)(TâmThư.2) Chứng đạo là sạch Vô Minh, Minh hiện tiền, là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Chứng đạo là chứng một đạo lực có BốnThần Túc để thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi, trước khi chết phải biết mình đi về đâu? ở đâu? phải làm chủ được sự sống chết. Chứng đạo là chứng trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.

Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động, tâm không còn tham pháp, sân pháp, si pháp. Trong sự chứng đạo chỉ có một điều quan trọng nhất, đó là phải sống đúng giới luật. Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người, v.v... mà chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là sống với cái tâm bình thường như mọi người, nhưng không có chướng ngại pháp nào làm cho tâm người ấy bị giao động, lúc nào cũng sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm không kềm chế; không bị bắt buộc phải tu tập như thế này, phải làm như thế kia.

Chứng đạo của Phật giáo là chứng một điều gì có lợi ích giải thoát khỏi mọi sự ưu bi sầu khổ và bệnh tật nơi thân tâm mình, chứ không phải chứng đạo để nói suông, để làm chiêm tinh gia, để trở thành những nhà ảo thuật. Người tu chứng đạo mới giảng giải nỗi nghĩa lý thâm sâu của kinh sách Phật, Nếu tâm tham, sân, si còn đủ (người tu chưa chứng đạo) thì làm sao hiểu được kinh sách Phật. Chứng đạo là phải chứng nghiệm bằng hành động sự thật chứ không phải bằng lời nói suông, phải nhập Tứ Thánh Ðịnh một tuần lễ, ai chửi mắng hay làm bất cứ một việc gì, biết mà vẫn thản nhiên Tâm Bất Động. Ðường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tỉnh giác, nếu thiếu tỉnh giác thì không tu tập được. Năng lực của những người tu chứng đạo là ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên người tu chứng đạo làm chủ sự sống chết không có khó khăn, không có mệt nhọc. Người chứng đạo là người sống trọn vẹn đầy đủ đạo đức làm người không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Ðạo Phật không chấp nhận thần thông, cho nên phải dẹp nó qua một bên, có nghĩa là xem thần thông không quan trọng, có thần thông hay không có thần thông không phải là chỗ chứng đạo của Phật giáo.

Chứng đạo của Đức Phật xẩy ra khi tâm đức Phật bất động thanh thản, an lạc và vô sự kéo dài từ ngày này sang ngày khác, cho đến khi tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự hoàn toàn, khi các ác pháp chướng ngại không còn nữa, thì đức Phật cảm nhận tâm mình bất động thanh thản an lạc và vô sự luôn luôn đang ở trên bốn chỗ của thân, thọ, tâm, pháp. Đức Phật để cho trạng thái tâm tự nhiên đó kéo dài suốt 7 ngày đêm liền. Sau khi ở trong trạng thái này suốt 7 ngày đêm như vậy thì đức Phật biết mình đã chứng đạo.

Chứng đạt (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là nhập vào pháp đó, sống như pháp đó, nhưng trước khi chứng đạt cần phải giác ngộ. Nhập vào giáo pháp đó gọi là nhập lưu, nhập lưu tức là nhập vào dòng Thánh, nhập vào dòng Thánh tức là tâm phải ly dục ly ác pháp. Còn tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không làm sao nhập vào dòng Thánh được. Ở đây đức Phật nêu ra bốn pháp giải thoát cần tu tập. Ðó là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát, nhưng khi tu tập pháp Thánh giới thành tựu thì thành tựu luôn ba pháp kia. Muốn thành tựu ba pháp kia thì phải thành tựu Thánh giới. Cho nên, thành tựu ba pháp kia là thành tựu một pháp Thánh giới này. Tám lớp học (Bát Chánh Ðạo) mà hết bảy lớp tu học về giới luật, chỉ có một lớp tu định và ngay khi nhập định là triển khai trí tuệ Tam Minh trong lớp đó. Như vậy xét thấy Thánh định, Thánh tuệ và Thánh giải thoát chỉ có một lớp học mà thôi. Trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn giới luật nghiêm túc đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì ngay đó là đã được giải thoát tâm vô lậu, tuệ vô lậu. Nhập vào dòng Thánh là tâm phải ly dục ly ác pháp, còn tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không làm sao nhập vào dòng Thánh được.

Chứng đạt chân lí (PhậtDạy.4)(Tạoduyên) Chứng đạt chân lí của Phật giáo là chứng đạt tâm Bất Động, là tâm vô lậu, tức là chứng quả A La Hán. Trước khi muốn chứng quả A La Hán thì phải học và tập sống đạo đức nhân bản - nhân quả, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chứng đạt chân lí là ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp. Nhờ có ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp mới chứng đạt chân lí. Muốn chứng đạt chân lí tức là muốn tâm thanh tịnh không còn một chút tham pháp, sân pháp, si pháp thì phải siêng năng tu tập. Khi chứng đạt được những chân lí này thì mới dám tuyên bố: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm”.

Chứng đạt những gì chưa chứng đạt (CầnBiết.4) là Ly dục ly ác pháp

Chứng đạt Thánh giới luật (PhậtDạy.4) Khi sống được tâm thanh thản, an lạc và vô sự, sống đem lại lợi ích cho mình, cho người, tức là sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, tâm luôn luôn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Thánh giới luật mà không được nghiêm trì thì Thánh định, Thánh tuệ, và Thánh giải thoát không làm sao có được. Thánh giới luật nghiêm chỉnh thì Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát sẽ hiện tiền rõ ràng, thì sự tu tập không còn khó khăn, không còn mệt nhọc. Bởi vậy, trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn giới luật nghiêm túc đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì ngay đó là đã được giải thoát tâm vô lậu, tuệ vô lậu.

Chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ (CầnBiết.4) là Thông suốt Tam Minh.

Chướng ngại pháp (ThờiKhóa) không khác dục và ác pháp nhưng còn rõ nghĩa hơn. Ví dụ như ngồi kiết già hai chân đau, đó là chướng ngại pháp; sáng muốn ăn, chiều muốn uống sữa, đó cũng là chướng ngại pháp; v.v...

Chương trình giáo dục đào tạo lớp ngũ giới (TâmThư.1) là một chương trình chọn lựa để đưa người vào lớp chuyên tu. Vào tu viện Chơn Như là vào đại giới đàn không được đi đây đi đó tự do, khi đi ra khỏi giới đàn mà không có duyên sự chính đáng thì không được rời khỏi giới đàn.

Chọn lựa pháp thiện (ĐườngVề.9) có hai cách: 1.- Chọn lựa pháp thiện loại trừ pháp ác tức là tu tập Ðịnh Vô Lậu, mà trong kinh dạy: “Với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên”. Khi Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên tức là chúng ta biết rất rõ pháp nào thiện và pháp nào ác rất cụ thể, và chúng ta không còn lầm lạc nên diệt trừ các ác pháp và lòng ham muốn của mình rất dễ dàng, tức là đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm. Người muốn tu Trạch Pháp Giác Chi thì giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm tỉnh giác, ở tâm tỉnh giác đó mà Trạch Pháp Giác chi thì rất hiệu quả, có nghĩa là ngăn ác và diệt ác pháp rất dễ dàng và dùng pháp hướng tâm điều khiển không mấy khó khăn. Cho nên kinh dạy: “Trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi được tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn”, có nghĩa là chúng ta thường tu tập chọn lựa pháp nào thiện và loại trừ pháp nào ác và thường hướng tâm đuổi ác pháp đi thì tâm của chúng ta thanh thản, an lạc, và vô sự, nhờ tâm thanh thản an lạc và vô sự chúng ta cảm thấy sự giải thoát an lạc rất rõ ràng và cụ thể, do đó tự động chúng thích tu tập Trạch Pháp Giác Chi vì tu tập Trạch Pháp Giác Chi có lợi ích thật sự cho cuộc sống của chúng ta. 2.- Chọn lựa câu pháp thiện dùng làm pháp hướng tâm cho đúng đối tượng pháp môn của mình đang tu. Ví dụ: đang tu định Sơ Thiền mà dùng câu pháp hướng tâm “diệt âm thanh hay tịnh chỉ tầm tứ” là không đúng, mà phải dùng câu pháp hướng tâm “Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Sự lựa chọn như vậy gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp Giác Chi là sự chọn lựa một câu pháp để tâm mình huân tập sự giải thoát như ý muốn của mình trong ý nghĩa của câu ấy.

Chơn pháp (CầnBiết.1) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Chơn tâm (ĐườngVề.2) là sự tưởng giải của kinh sách phát triển Ấn Ðộ, ảnh hưởng Lão giáo đẻ ra thiền Ðông Ðộ. Mục đích của người tu thiền Ðông Ðộ là kiến tánh rồi khởi tu (thấy tánh rồi mới tu) tu như vậy gọi là “bảo nhậm”, giữ “ông chủ” đó là chỗ ngộ được chơn tâm rồi mới sống với nó, chứ không phải nhập chơn tâm vì đã nhập vào thì đâu còn gì phải nuôi dưỡng. Mục đích của thiền Ðông độ không phải làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi, mà chỉ nhắm vào bản thể bất biến thường hằng bốn tánh Niết bàn “thường, lạc, ngã, tịnh”. Pháp môn Thiền Ðông Ðộ không phải là Phật Pháp nên không làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Chớ có tin (ĐườngVề.1) 1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, 2- Chớ có tin vì nghe theo truyền thống, 3- Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn, 4- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng, 5- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình, 6- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường, 7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện, 8- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, 9- Chớ có tin vì nơi phát xuất có uy quyền, 10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Ðạo Sư của mình.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai;

***