
Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần G)
Lượt xem: 5067
G
Gánh nặng đối với các thiện pháp (CầnBiết.4) Ví dụ 1: Ăn uống ngày một bữa từ năm này đến năm khác không bao giờ ăn uống phi thời. Ví dụ 2: Không ăn thịt chúng sanh tức là ăn trường chay, dù có bệnh đau đến chết, dù có sự bắt buộc nào, dù có hoàn cảnh như thế nào nhất định không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Ví dụ 3: Không ngủ nghỉ phi thời dù cho hoàn cảnh nào cũng nhất định không ngủ nghỉ phi thời; bằng mọi cách cố gắng nỗ lực kiên trì phá vỡ hôn trầm, thùy miên vô ký. Ví dụ 4: Nghiện ngập thuốc lá, rượu, thuốc lào, thuốc phiện, v.v..., cố gắng kiên trì nỗ lực để cai nghiện những loại độc dược này và suốt đời không còn uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện nữa. Đó là gánh nặng đối với thiện pháp.
Gặp thọ hành (ĐườngVề.6) Khi gặp thọ hành phải giữ độc cư trọn vẹn, phải gan dạ đừng sợ hãi, phải đầy đủ nghị lực dũng cảm và dùng pháp hướng tâm để đẩy lui các cảm thọ đó. Trong quá trình tu tập mọi người ai cũng gặp thọ hành nhưng tùy nghiệp nặng nhẹ mà thôi. Thọ hành do tu tập sai mà thành bệnh, vì thế khi bị thọ hành thì chúng ta phải quán xét lại sự tu tập của mình xem coi tu sai chỗ nào, để rồi chỉnh lại. Đức Phật đã dạy “Pháp của ta, đến để mà thấy, không có thời gian”. cho nên khi tu tập bị thọ hành là đã tu sai, phải mau mau sửa lại. Khi tu tập cảm giác thấy toàn thân thoải mái dễ chịu, cảm giác toàn tâm an lạc, thanh thản, vô sự thì đó là tu đúng.
Gậy (TruyềnThống.2) là một thanh cây cong qua uốn lại giống như con rắn có mắt gút. Người già yếu thường dùng: 1- Ðể chống khi bước đi. 2- Ðể phòng thân khi gặp ác thú. Ngày xưa trượng, gậy là hai loại vũ khí dùng để đánh và giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ và chết. Bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là đức hạnh cao thượng biết thương mình, không làm khổ mình; biết thương người, không làm khổ người; biết thương chúng sanh, không làm khổ chúng sanh; mang lại sự bình an cho muôn loài.
Gia đình thiếu đạo đức (ĐạoĐức.1) là một gia đình đau khổ, phần đông mọi người sống trong gia đình đó chỉ còn biết chịu đựng với nhau, chịu đựng để mà sống, sống trong khổ đau, nên không bao giờ tìm được chân hạnh phúc, an vui chân thật, Sống trong gia đình đó cũng giống như sống trong địa ngục của trần gian.
Gi
Giác cây (TrợĐạo) thành tựu tri kiến (thành tựu tri kiến giải thoát) (Trung Bộ, kinh số 29. ÐẠI KINH THÍ DỤ LÕI CÂY).
Giác ngộ (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là thông hiểu và thấu suốt nghĩa lý của pháp môn đó rõ ràng như thật, không có chuyện còn hiểu mù mờ, mơ màng, ảo tưởng, v.v... Phật dạy: “Những gì cần thông suốt phải thông suốt”. Thông suốt tức là giác ngộ, là thấy biết pháp đó như thật. Thấy biết pháp đó như thật mới hướng tâm đến pháp đó nên gọi là hướng lưu, nhưng khi tu tập có những kết quả nho nhỏ gọi là dự lưu.
Giác ngộ chân lí (PhậtDạy.4) Giác ngộ Tứ Diệu Ðế mới được gọi là giác ngộ chân lí,là hiểu rõ chân lí, là người biết rõ tâm có tham biết tâm có tham, tâm có sân biết tâm có sân, tâm có si biết tâm có si. Tứ Diệu Ðế là 4 chân lí của đạo Phật để xác định một kiếp người. Chân lí thứ nhất là “Khổ Ðế” là tâm tham, sân, si. Chân lí thứ hai là “Tập Ðế” là tâm tham ái. Chân lí thứ ba là “Diệt Ðế” là trong tâm hết tham ái. Chân lí thứ tư là “Ðạo Ðế” là một chương trình giáo dục đào tạo những bậc tâm vô lậu (A La Hán), còn gọi là Bát Chánh Ðạo, tức là 8 lớp học được chia ra trong 3 cấp Giới, Định, Tuệ. Người giác ngộ được chương trình giáo dục đào tạo những bậc tâm vô lậu (A La Hán), có tám lớp học và ba cấp là người giác ngộ được chân lí thứ tư. Giác ngộ chân lí chỉ là mới hiểu rõ chân lí, chứ chưa thâm nhập vào chân lí. Người giác ngộ được chân lí là để tu tập cho mình, là người ngay trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp mà nhiếp phục các ác pháp và ly các dục. Người giác ngộ chân lí là người nhiếp phục các ác pháp và ly các dục ngay trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp. Nếu không giác ngộ chân lí mà tu tập là tu mù. Người chưa giác ngộ chân lí nên nghe ai nói gì hợp với quan điểm của mình là tin ngay liền. Tin một cách mù quáng, vì thế, bỏ hết cả cuộc đời đi theo tôn giáo mà chẳng có lợi ích gì và sự tu hành cũng chẳng đến đâu cả. Cho nên, trước khi tu tập là phải giác ngộ chân lí của loài người. Muốn giác ngộ chân lí của loài người là phải tìm một vị Thầy tâm không còn tham pháp, sân pháp, si pháp để thân cận. Vị ấy sẽ chỉ dạy giác ngộ chân lí và hướng dẫn cho biết cách hộ trì và chứng đạt chân lí một cách dễ dàng không có khó khăn, không sợ lạc vào tà pháp, có vậy mới giác ngộ được chân lí khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Người giác ngộ được chân lí thì lòng tin không còn mù quáng, không bao giờ còn thối chuyển trên đường tu tập.
Giác ngộ Thánh giới luật (PhậtDạy.4) Thánh giới luật của người cư sĩ gồm có: Năm giới cư sĩ, tám giới Bát Quan Trai và Thập Thiện, đức Phật gọi là Thánh giới uẩn. Nếu là người giác ngộ Thánh Giới uẩn này thì phải thông suốt những đức hạnh của bậc Thánh trong những giới luật này rất rõ ràng và những sự lợi ích của những giới này đối với đời sống như thế nào đều phải rõ như thật. Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni không những thông suốt những Thánh giới uẩn của người cư sĩ mà còn phải thông suốt 10 giới Sa Di, 250 giới Tỳ kheo Tăng hay 348 giới Tỳ kheo Ni, nhưng Tăng, Ni còn phải thông suốt toàn bộ đức hạnh của giới kinh như trong các kinh Sa Môn Quả, kinh Phạm Võng,… phải giác ngộ giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Nếu chưa thông suốt thì không thể gọi là giác ngộ Thánh giới uẩn.
Giác ngộ Thánh giới uẩn (PhậtDạy.4) là Giác ngộ đức giới, hạnh giới và hành giới.
Giác niệm (Tạoduyên)(của Ðại Thừa) Với Ðại Thừa, niệm khởi mình chỉ biết thì nó không còn là vọng tưởng nữa nên gọi là giác. Tuy nhiên, trong Thiếu Thất Lục Môn, tổ Ðạt Ma có dạy lý nhập (thấy tánh) và hạnh nhập (tu định). Người thượng căn khi nghe một câu liền ngộ, và từ đó sống luôn với chỗ ngộ của mình, đây gọi là lý nhập (thấy tánh). Nhưng với người kém hơn phải nhờ hạnh nhập, tức là tu định một thời gian mới có thể thấy tánh. Lục Tổ có bảo: “Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”; “Trước niệm không sanh là Phật, sau niệm không thêm cái diệt chỗ đó là tâm”. Nếu giữ được như vậy lâu ngày thì thành viên mãn. Ðó là theo pháp môn ảo tưởng của Ðại Thừa, Thiền Tông nên chỉ nói suông, chứ không thể thực hiện được.
Giai đoạn I của Thiền Ðịnh (ThiềnCănBản) là giai đoạn LY, dùng ba hạnh Ăn, Ngủ, Ðộc cư làm đối tượng để tu tập, khắc phục cho được tâm ly dục.
Gian tham trộm cắp (CữSĩTu) ở đây không chỉ có nghĩa lấy của không cho, mà còn kể cả những hành vi gian tham, xảo quyệt khác nữa.
Giải đãi (PhậtDạy.1) là lười biếng.
Giải thoát (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.2)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.3) là tâm phải hết tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Giải thoát là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Sống không làm khổ mình, khổ người; sống ly dục ly ác pháp; sống tâm không phóng dật là giải thoát. Bất cứ pháp nào xâm nhập vào thân tâm của chúng ta, chúng ta đều lấy sự giải thoát để giữ vững thân tâm hoàn toàn bất động, không nên để tâm bị chúng xâm phạm. Người tu sĩ chỉ cần buông xuống hết, không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, không có của cải tài sản, không có gia đình, không có nhà cửa thì không có sự ràng buộc, không bị dính mắc, chỉ còn một tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là giải thoát phần thô về vật chất. Nếu phần vật chất đã lìa xa thì phần nội tâm quét cũng không còn khó khăn. Hai phần này gom lại là tâm đã ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Chúng ta lấy sự giải thoát làm năng lực kết tinh cứng rắn nhất của thân tâm, để các ác pháp không làm động thân tâm chúng ta được. Chỉ cần biết buông xả cho thật sạch dục và ác pháp, thì quả A La Hán ở tại đó.
Giải thoát của đạo Phật (ĐườngVề.1) là chỗ đẩy lui chướng ngại pháp trong thân và tâm. Hằng ngày, từng phút, từng giây siêng năng chuyên cần đẩy lui các chướng ngại pháp làm sao cho tâm không còn bất an. Tâm không còn bất an tức là giải thoát của đạo Phật hay gọi là tâm bất động. Mục đích của đạo Phật, là ở chỗ tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, là tâm bất động trước mọi cảnh, mọi vật, mọi sự cám dỗ của cuộc đời và mọi sự cảm thọ đau đớn khổ sở vô tận của thân tâm, không phải ở chỗ tịnh chỉ hơi thở hay thần thông phép lạ biến hóa tàng hình, kêu mây gọi gió, v.v… mà cũng không phải là kiến tánh thành Phật, cũng không phải chổ xuất hồn, nhập xác, ngồi Thiền năm bảy ngày, thọ hưởng hỷ lạc tưởng, hay ngồi trầm tư mặc tưởng một thế giới siêu hình nào đó.
Giải trình án (TâmThư.2) là phương pháp quán vô lậu để giúp cho tu sinh thông suốt nền đạo đức nhân bản – nhân quả, mà đức Phật thường dạy và nhắc nhở chúng ta khi mới bắt đầu học Phật: “Những gì thông suốt cần phải thông suốt”. Muốn thông suốt những gì cần thông suốt thì phải theo chương trình giáo dục lớp Ngũ Giới và Thập Thiện. Nếu chưa thông suốt những lớp học đạo đức này thì con đường tu tập sẽ mất căn bản thì Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định đừng mong nếm được mùi vị giải thoát của nó. Cho nên giải trình án là một điều rất quan trọng, nếu các con không chịu làm bài thì khó mà triển khai tri kiến giải thoát được và Thầy cũng đành chịu thua những người đệ tử không tinh tấn, thiếu ý chí tìm cầu sự giải thoát.
Giảng đường (GiớiĐức.1) là nơi tăng ni và cư sĩ tập hợp để tu tập và nghe pháp.
Giảng sư (ThiềnCănBản) là người giải thích cho dễ hiểu. Làm giảng sư dạy người tu tập là không nói dối. Lời nói “trả nghiệp, dồn nghiệp” chỉ là lời nói lừa đảo, để che đậy tội lỗi của mình với những người khác.
Giảng sư Thuyết Pháp (12Duyên) phải thuyết pháp về sự yểm ly, ly tham, đoạn diệt, sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh.
Giảng viên dạy lớp Ðức Hiếu Sinh (TâmThư.1) thực hiện lòng yêu thương của mình không những đến với học viên mà còn đến với mọi người, bằng thân hành, bằng khẩu hành, bằng ý hành. thương yêu chân thật từ trong tận thâm tâm của mình… 1- Bằng ý hành với sự hộ trì bảo vệ ý căn không được nghĩ điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nghĩ những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn nghĩ điều thiện với họ. Họ nghĩ những điều xấu ác về ta sẽ có luật nhân quả trừng trị còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách tư duy thiện pháp để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là đang hộ trì ý căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ nhất ý hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Cho nên suy nghĩ tư duy quán xét, lại là độc cư im lặng như thánh. 2- Bằng khẩu hành với sự hộ trì bảo vệ khẩu căn (thiệt căn) không được nói những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nói những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn dùng ái ngữ nói điều thiện với họ. Họ nói những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách nói lời thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì khẩu căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ hai khẩu hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới.. Cho nên, tiếp duyên nói chuyện với mọi người, lại là độc cư im lặng như thánh... Ở đây các con nên lưu ý chỉ cần nói không thật, nói dối, nói thêu dệt, nói li gián, nói lời hung dữ, nói chuyên tào lao, nói chuyện ngoài pháp tu, nói chuyện phím, nói chuyện của người khác v.v... là phá hạnh Ðộc Cư, là phạm giới… Ở đây giai đoạn học giới luật đức hạnh, cho nên Ðộc Cư là giới luật phòng hộ sáu căn, chứ không phải độc cư là không nói chuyện, nhưng chúng ta không hiểu pháp độc cư áp dụng không đúng thành không dám nói chuyện là bị ức chế tâm, thì cũng rất tai hại. Còn lợi dụng chỗ tiếp duyên nói chuyện này, đi nói chuyện tào lao cho thỏa thích như người thế gian, thì rất uổng cho một đời tu tập mà chẳng đi đến đâu. Người giữ hạnh độc cư cần nói những điều lành đem lợi ích cho mình cho người, còn nói những điều ác thà chết chứ không nói, đó là hạnh độc cư phòng hộ khẩu căn.. Các con nên ghi nhớ. 3- Bằng thân hành vời sự hộ trì bảo vệ thân căn, không được làm những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ làm những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn làm những điều thiện với họ. Họ làm những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách làm những thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì thân căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ ba thân hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới.
Giáo Án (TâmThư.2) là một bài học ngắn gọn được giảng viên biên soạn để đứng lớp truyền đạt, triển khai và đào luyện tư tưởng của những học viên, để cho những học viên thấm nhuần những bộ môn học tập đó, để trở thành một tri kiến hiểu biết và phản xạ một cách tự nhiên.
Giáo đoàn Chơn Như (TâmThư.1) với mục đích: Thứ nhất: Ổn định cư sĩ và tu sĩ đang theo học tại tu viện Chơn Như vào nề nếp oai nghi tế hạnh. Thứ hai: Chọn người giới đức làm sứ giả Như Lai đem nền đạo đức đến với mọi người. Thứ ba: Chọn người biết sống một mình hướng dẫn vào thiền định chứng đạt chân lí làm nòng cốt cho Phật giáo sau này. Thứ tư: Tu sĩ của Tăng đoàn Chơn Như đều mặc đồng phục một màu sắc, một kiểu y áo nguyên thủy như nhau không lẫn lộn với với màu y sắc áo của các hệ phái khác. Thứ năm: Cư sĩ của tu viện Chơn Như ăn mặc đồng phục như nhau khi vào lớp học. Thứ sáu: Tu sĩ xin xuất gia thì được trắc nghiệm sống đúng giới luật trong 4 tháng mới cho gia nhập vào giáo đoàn. Thứ bảy: Cư sĩ thì được cho phép học và tu tập thời gian ngắn hạn hay dài hạn tùy hoàn cảnh gia đình không bắt buộc.
Giáo lý thọ tam quy và trì ngũ giới (3Qui5Giới) là Giáo lý căn bản của Phật pháp.
Giáo lý của đức Phật (ĐườngVề.1) vạch ra cho chúng ta thấy con đường tu tập rất rõ ràng, bước đầu phải diệt trừ các ác pháp, lìa tâm ham muốn, lấy nhân quả làm nòng cốt, tu tập thiện pháp khiến cho tâm xa lìa và đoạn dứt thất kiết sử, ngũ triền cái, lần lượt tu tập buông xả, lập hạnh bố thí, cúng dường và còn trau dồi những đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, v.v... Nếu bước đầu tu tập đúng như vậy sẽ ly dục ly ác pháp một cách dễ dàng, mà đã ly dục ly ác pháp được thì tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Khi thực hiện được giai đoạn ly dục ly ác pháp thì con đường tu đạo Phật mới đi được một phần ba đường, muốn đi nốt quãng đường còn lại của đạo Phật trong chiếc áo người cư sĩ chắc chắn khó mà thực hiện được vì phải xả bỏ hết tài sản của cải. Khi xả bỏ được của cải, vàng bạc châu báu mới giải quyết tình cảm ái kiết sử như thế nào, để không còn bị trói buộc thương nhớ khi sống độc cư một mình.
Giáo lý của tôn giáo nào (ĐườngVề.1) chứng nghiệm được như khoa học thì giáo lý ấy là đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người, giáo lý nào chứng nghiệm khoa học không được thì giáo lý ấy là giáo lý mơ hồ, trừu tượng, giáo lý mê tín, giáo lý ru ngủ con người giống như liều thuốc an thần.
Giáo pháp của Bà La Môn (TâmThư.2) cầu cúng, tụng niệm: cầu siêu, cầu an, niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh Cực Lạc; để ức chế tâm không vọng tưởng (niệm Phật nhất tâm), lạy hồng danh Phật sám hối để được tiêu tai, giải ách, cúng dường tiền bạc xây chùa, đúc chuông, tượng Phật, trai tăng v.v.. để được phước báu. Cho nên tu tập niệm Phật, lần chuổi, tứ thời tụng niệm sớm, chiều, tối, khuya chuông, mõ hẳn hoi, là tu theo giáo pháp của Bà La Môn mà không biết.
Giáo pháp của Đại Thừa (CầnBiết.5) gồm có: tụng niệm, cúng bái, cầu siêu, cầu an; niệm Phật Di Đà cầu vãng sanh Cực Lạc; niệm chú, bắt ấn hô phong hoán vũ; ngồi thiền kiến tánh thành Phật; lạy hồng danh sám hối để tiêu trừ tai ách; Sổ Tức Quan; Lục Diệu Pháp Môn, Tham Công Án, Tham Thoại Đầu; tu Nhĩ Căn Viên Thông, biết vọng liền buông; chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền; v.v... Những pháp môn của Đại Thừa trên đây là Chánh pháp của Đại Thừa, là đệ nhất pháp.
Giáo pháp của ngoại đạo (ĐườngRiêng) trừu tượng, ảo tưởng, mơ hồ, ảo giác, v.v… là triết lý suông hay tưởng giải của con người kiến giải viết ra, không mang tính chất thiết thực, cụ thể.
Giáo pháp của Phật giáo (PhậtDạy.4)(ĐườngRiêng) là chân lí của loài người, có tính chất thiết thực, cụ thể, không trừu tượng, ảo tưởng, mơ hồ, ảo giác, là giáo pháp Bát Chánh Ðạo. Bài kinh Ðại Bát Niết Bàn đã xác định giáo pháp của Phật. Ngoài Bát Chánh Ðạo ra thì không có pháp môn nào được gọi là giáo pháp của đức Phật, bởi vì Bát Chánh Ðạo (Đạo Đế) là một chân lý trong bốn chân lý của Phật giáo. Bát Chánh Ðạo là tám lớp học của Phật giáo được chia theo ba cấp Giới, Ðịnh Tuệ, là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả.
Giáo pháp tu hành của Phật giáo (PhậtDạy.4) là giáo pháp dạy đạo đức làm Người, làm Thánh, Giáo pháp dạy những hành động đạo đức về thân, về khẩu, về ý, để làm người có đạo đức, để làm Thánh thoát khỏi kiếp luân hồi sanh tử.
Giáo trình (TâmThư.2) là một chương trình tùy theo các cấp GIỚI, ÐỊNH và TUỆ được biên soạn theo từng bộ môn chuyên khoa để cho người học bộ môn đó được hướng dẫn học tập và nghiên cứu hiểu biết tường tận.
Già (12Duyên) là cơ thể phải suy nhược, răng rụng, da nhăn, tóc bạc, lưng khọm, tay chân run rẩy, yếu đuối v.v... đó là một sự đau khổ của kiếp người.
Già khổ (ĐạoĐức.2) Già khổ là cơ thể suy yếu, đi đứng không vững vàng, tay chân run rẩy, thường mệt nhọc, khó thở, tâm trí lẫn lộn hay quên, muốn làm việc gì cũng làm không được, ngồi một mình thì cô đơn buồn khổ, v.v... Già khổ là một sự thật hiển nhiên, là sự thật, là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Già khổ” nên nó là chân lý
Giấc mộng cận tử nghiệp (CầnBiết.1) Khi một người vừa tắt thở, các duyên trong thân ngũ uẩn chưa phân tán (tức là chưa hoại diệt), lúc bấy giờ họ đang trải qua một giấc mộng. Giấc mộng đó báo cho biết đây là nghiệp cuối cùng của họ trong kiếp này chuyển sang kiếp mới. Giấc mộng đó cũng thể hiện một nghiệp lực, do huân tập nhân quả trải dài thời gian của một kiếp con người. Chính nghiệp lực nầy đưa người ấy tiếp tục tái sanh kiếp mới của con người, khi giấc mộng này vừa tan thì thân tứ đại cũng vừa dừng hẳn, nghĩa là thân tứ đại này không còn phục hồi lại được nữa. Trong thời gian nằm mộng, thì gương mặt người chết biểu lộ qua màu sắc, hoặc những nếp nhăn, cau có, hung dữ hoặc hân hoan, vui mừng, hiền lành, v.v... người chết có khi mặt trắng bạch, có khi vàng khè hoặc có khi xám xịt, v.v... rồi trở lại bình thường giống như người đang ngủ. Không phải chỉ có sự thay đổi màu sắc và nếp nhăn, mà còn nhiều tướng trạng hiện trên gương mặt, ghê sợ như trợn trừng mắt, há hốc miệng, mím chặt môi, cắn răng, như giận dữ, hoặc le lưỡi, hoặc nói lập bập trong miệng, có khi cười, có khi khóc, có khi gương mặt biểu lộ ra sự sợ hãi, cũng có khi gương mặt biểu lộ ra sự hân hoan, vui mừng, và cuối cùng giấc mộng cận tử nghiệp tan biến, thì gương mặt kia trở lại bình thường nhưngười đang ngủ.
Gieo nhân thiện, diệt nhân ác (ĐườngVề.4) là hằng ngày phải sống bằng những hành động thiện, tức là luôn suy nghĩ những điều thiện và ngăn chặn những ý niệm điều ác; luôn nói những lời lành và ngăn chặn những lời nói ác; luôn làm những việc lành và ngăn chặn làm những việc ác.
Giữ độc cư trọn vẹn (TâmThư.1) là đừng tiếp duyên với mọi người.
Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết (PhậtDạy.4) là giữ gìn giới luật nghiêm nhặt không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Vì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp; giới luật là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; giới luật là pháp môn đầu tiên để tu tập thiền định, tu tập có đủ Tứ Thần Túc mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra (CữSĩTu) là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra. Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý, dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi, làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Ðịnh Niệm Hơi Thở.
Ðể thực hiện giới hành hơi thở vô hơi thở ra này chúng ta nên tu tập như sau: trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng, sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít!”. Truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kỹ theo hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh: “Thở!”. Khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo hơi thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu trong 1 phút sức tỉnh giác rất tốt, không quên hơi thở nào, mà cũng không có một niệm vọng tưởng nào xen vào được thì tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút, tăng lên 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi tăng lên 10 phút ta soát xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không. Nếu có thì phải báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập, để tâm không bị ức chế, cơ bắp và thần kinh không bị rối loạn, v.v...
Giữ gìn giới luật (Đường Về.7) Ví dụ: Khi tâm khởi muốn ăn, thấy bụng đói mà chưa tới giờ ăn thì nhất định không ăn. Tâm khởi muốn nghe băng hoặc lấy kinh sách ra đọc thì nhất định không nghe băng, không đọc kinh. Khi bị người khác chửi mắng mạ nhục mình, mà mình tức giận là không ly ác pháp, là không giữ giới; còn không tức giận mà biết thương người chửi mắng mình là ly dục, ly ác pháp, là giữ giới.
Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý (12Duyên) bằng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý là pháp phòng hộ sáu căn. Mỗi lần mắt đang nhìn thấy một cái gì thì nên tác ý bảo nó nên quay vào trong thân nhìn TÂM BẤT ÐỘNG. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy. Hằng ngày tác ý như vậy thì sáu căn sẽ không phóng dật chạy theo sáu trần là chứng đạo.
Giữ tâm chánh niệm tỉnh giác (ĐườngVề.3) tức là nhiếp tâm an trú trên thân hành nội hoặc thân hành ngoại. Khi nhiếp tâm an trú được trên thân hành nội hay ngoại thì bắt đầu nhiếp phục bệnh đau trên thân.
Giữ tâm khéo giải thoát (PhậtDạy.1) là giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi tu tập khéo giữ gìn tâm bằng cách dùng ý thức tri kiến ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự.
Giữ tâm không phóng dật (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) tu tập những pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm. Nhờ tu tập các pháp này, tâm lần lượt sẽ không phóng dật.
Giữ thân được nhẹ nhàng (PhậtDạy.1) tức là thân khinh an, thân khinh an là thân không có đau, tê, nóng…
Giường cao (CầnBiết.4)(TâmThư.1)(ThiềnCănBản) Gường cao là giường làm cao hơn tám ngón Như Lai. Mỗi ngón Như Lai bằng 1 tấc, vậy tám ngón Như Lai là tám tấc, giường làm cao hơn tám tấc là giường cao, người tu sĩ không được nằm (Trong giới luật có người dịch là tám lóng tay Như Lai, mỗi lóng tay 2 phân. Như vậy giường chỉ cao có 1 tấc 6 phân. Giường cao có 1 tấc 6 thì không thể gọi là giường mà gọi là phản).
Giới (Phậtdạy.3)(CầnBiết.2)(3Qui5Giới) là giới luật, là những điều ngăn cấm, là những pháp thiện. Giới là đạo đức nhân bản - nhân quả. Giới là giữ vĩnh viễn, khi thề suốt đời giữ giới, dầu vì tánh mạng đi nữa cũng giữ giới, không được phạm vào giới ấy, bất cứ vì lý do gì. Giới thì một khi đã thọ, đã thề giữ giới rồi thì dầu suốt đời không gặp hoàn cảnh nào để giữ giới mà vẫn có cái công đức giữ giới. Tuy nhiên, Phật tử không đủ sức và hoàn cảnh để thọ được Giới nào cả, thì vẫn có thể thọ ba Qui-y và thực hành Diệu hạnh, như vậy còn hơn là thọ rồi mà không gìn giữ.
Giới cấm (PhậtDạy.1)(TruyềnThông.1) Giới cấm là một điều luật bắt buộc mỗi tín đồ không được vi phạm, nếu ai vi phạm thì không được chấp nhận là tín đồ Phật giáo nữa. Có nhiều giới cấm: Không sát sanh, Không tham lam trộm cắp. Không dâm dục. Không nói láo. Không nói hai chiều. Không nói lời hung ác. Không nói lời phù phiếm. Không làm hại hạt giống. Không làm hại cây cỏ. Ăn ngày một bữa. Không ăn uống phi thời. Không ăn ban đêm. Không đi xem múa hát. Không trang sức vòng hoa hương liệu. Không nằm giường cao rộng lớn. Không nhận vàng bạc tiền của cải. Không nhận các hạt giống. Không nhận thịt. Không nhận đàn bà con gái. Không nhận nô tỳ trai hay gái. Không nhận cừu dê. Không nhận gia cầm, heo. Không nhận bò voi ngựa. Không nhận ruộng vườn đất đai. Không làm môi giới. Không buôn bán. Không gian lận bằng cân đo, tiền bạc. Không ăn hối lộ. Không làm tổn thương cho chúng sanh. Ít muốn, biết đủ.
Đối với Phật giáo, giới cấm là tự tâm mình nhất quyết không làm những điều ác, tự mình ngăn cấm mình, chứ không phải giới cấm do Phật chế ra để ngăn cấm những đệ tử của mình làm sai. Bởi vì đệ tử của Phật đều là những người tự nguyện, tự giác sống đời sống Phạm hạnh theo Phật tu hành để cầu giải thoát, vì thế không bao giờ họ phạm giới, chứ không có giới luật nào bắt buộc họ cả. Giới cũng là một pháp môn tu tập, nên nó được gọi là giới vô lậu. Vì thế, đức Phật dạy: “Lấy giới luật làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc" hoặc “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Cho nên, phải tự mình ngăn ngừa mình không cho vi phạm giới luật, tức là không cho mình làm điều ác, chứ không phải giới luật ngăn cấm mình không cho vi phạm điều ác như pháp luật. Vì thế, giới hành dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Ngăn ác diệt ác pháp tức là không vi phạm giới luật. Cho nên, hằng ngày tu tập ngăn ngừa và diệt ác pháp như vậy thì làm sao vi phạm giới được.
Đối với đạo Phật không có sự áp đặt, ức chế, không có sự bắt buộc, cấm đoán một người nào hết, mà phải tự giác tu tập cho mình, phải tự giác sửa mình, răn mình không nên làm điều ác, không nên vi phạm phải những lỗi lầm dù là những lỗi lầm nhỏ nhặt. Vì sự tu tập này đem lại lợi ích cho chính bản thân của mình, chứ không phải đem lại lợi ích cho kẻ khác. Cho nên, giới luật của Phật là chỉ cho đức hạnh của một vị Sa Môn hay nói cách khác là quả vị của vị Sa Môn, giới luật của Phật là một pháp môn tu tập vô lậu, chứ không phải là một pháp luật quốc gia. Một người ngoại đạo đến xin Phật tu hành theo Phạm hạnh của Phật thì Đức Phật cho họ sống trong chúng bốn tháng. Nếu vị ngoại đạo này thấy mình tự giác thích nghi sống được đời sống Phạm hạnh thì đức Phật và chúng Tăng chấp nhận cho họ xuất gia thành Tỳ Kheo. Còn nếu thấy tự mình không thể sống đời sống Phạm hạnh được thì xin rời khỏi Tăng đoàn, chứ không có ai bắt buộc mình sống đời sống Phạm hạnh cả.
Giới cấm sát sanh (CữSĩTu) là “Giới Ðức Hiếu Sinh”. Giới Ðức Hiếu Sinh là lòng thương yêu sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Người phật tử cần phải học hiểu và sống cho đúng đức hạnh này. Đạo Phật ra đời chỉ dạy cho nhân loại có một tâm hồn hiếu sinh. Nhờ tâm hồn hiếu sinh con người mới sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, để biến cảnh sống trên hành tinh này thành cảnh sống an lạc cho mọi sự sống của muôn loài. Hành tinh của chúng ta đang sống là một hành tinh có nhiều duyên hợp để sống và nảy sinh ra sự sống khác nhau. Có trùng trùng duyên hợp thì phải có trùng trùng duyên sanh. Sanh diệt là một thể tự nhiên của hành tinh sống.
Giới cấm thủ (Phậtdạy.3)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4) có nghĩa là bảo thủ, cố chấp vào tà giới luật làm khổ mình, khổ người, phí công sức tu tập mà chẳng tìm thấy sự giải thoát chân thật. Đó là giới cấm thủ hay còn gọi là những giáo điều của ngoại đạo. Những giới cấm này khiến cho con người bất hiếu và tự làm khổ mình. Giới cấm thủ là làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo, những giới cấm này phần nhiều vô lý phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v...
Giới Cấm Thủ là những tà giới luật bắt buộc một cách vô lý, như: Tu hạnh con bò, tu hạnh con chó, đứng một chân, ngâm mình trong nước, ăn phân bò con, ăn rất ít, ngủ ngồi, ngủ đứng, ngủ trên rác bẩn, giết 1.000 người thì chứng đạo được cộng trú với Phạm Thiên, v.v... lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm trên chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, nhảy xuống sông trầm mình chịu lạnh lẽo để được phước, chặt hoặc đốt một lóng tay, có người chặt nguyên một cánh tay để cầu pháp. Đó là những giới cấm thủ bảo thủ, cố chấp vào tà giới luật; là các ác pháp làm khổ mình, khổ người của các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ, làm khổ mình, khổ người, phí công sức tu tập mà chẳng tìm thấy sự giải thoát chân thật.
Giới cấm thủ kiết sử (Phậtdạy.3)(TruyềnThống.2) Phiền não do giới cấm phi lý của ngoại đạo, như tu theo hạnh con bò, theo hạnh con chó, các cách tu khổ hạnh như tu đứng ba năm, tu ngồi ba năm, tu đứng, tu ngồi, ngồi thiền kiết già đau chân mà cứ ráng ngồi không xả ra, v.v… Giới cấm thủ kiết sử nghĩa là chấp chặt vào những giới cấm phi lý của ngoại đạo, là hạ phần kiết sử Phiền não do giới cấm phi lý. Muốn diệt trừ hạ phần kiết sử này thì chỉ có tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Giới của Thánh Hiền (PhậtDạy.4) gồm có: Ngũ giới cư sĩ, Bát quan trai giới cư sĩ, Thập thiện giới cư sĩ, Thập giới Sa Di tăng ni, 250 giới tỳ kheo tăng, 348 giới tỳ kheo ni, kinh Phạm Võng, kinh Sa Môn Quả, kinh Giáo Giới La Hầu La, v.v…
Giới đàn (TâmThư.2) là nơi chư Tăng đang ở, như một khu rừng có vị trí giới hạn, chư tăng không được đi ra ngoài giới hạn đó. Người nào đi ra ngoài giới hạn đó là bị tẩn xuất. Thành lập giới đàn là chỉ định chu vi khu rừng có giới hạn rõ ràng. Giới đàn Chơn Như là chu vi Nam, Bắc, Ðông, Tây của Tu Viện Chơn Như. Có giới đàn thì phải có pháp môn bảo vệ giới đàn. Đó là một pháp Yết Ma trong các pháp Yết Ma. Thứ nhất, khi quý sư, quý thầy xin vào Tu Viện tu tập thì có thời gian nhất định, quý sư, quý thầy không được phép ra khỏi Ðại giới đàn của Tu viện tức là chu vi của Tu Viện. Khi quý sư quý thầy ra khỏi chu vi của Tu Viện mà không có lý do xin phép chính đáng thì quý sư, quý thầy vi phạm vào pháp Yết Ma. Thứ hai, khi quý sư, quý thầy nhận thất ở tu tập tức là nhập thất. Thất của quý sư, quý thầy ở là Tiểu giới đàn của Tu viện, nếu quý sư, quý thầy ra khỏi thất đi nói chuyện là quý sư quý thầy vi phạm vào Tiểu giới đàn của pháp Yết Ma. Quý sư, quý thầy học pháp Yết Ma chỉ biết Ðại giới đàn mà không biết Tiểu giới đàn ; biết lập giới đàn mà không biết pháp hành giới đàn như vậy các pháp Yết Ma quý sư quý thầy cần phải học nhiều hơn nữa, nếu chỉ dựa theo những bộ sách dạy về các pháp Yết Ma của Phật giáo Ðại Thừa và Phật giáo Nam Tông thì chưa đủ. Trong tạng kinh Nikaya đức Phật dạy các pháp Yết Ma rất đầy đủ, quý sư quý thầy nên tham cứu lại cho đầy đủ hơn. Nhất là bộ sách Tam Quy do tu viện Chơn Như biên soạn.
Giới, định, tuệ (ĐườngVề.6)(ĐườngVề.8)(CầnBiết.2)(ĐườngRiêng)(ThờiKhóaTu) Giới là đạo đức nhân bản - nhân quả. Giới luật được tu tập thì tâm được giải thoát, không còn khổ đau, phiền não, sợ hãi, lo toan... Giới luật phải được chúng ta giữ gìn nghiêm túc, sống đúng phạm hạnh. Ðời sống thiểu dục tri túc, ba y một bát; sống không chùa to, Phật lớn, lấy gốc cây làm giường nằm. Ðịnh là tĩnh giác. Ðịnh được tu tập thì thân được giải thoát, thân được giải thoát là làm chủ được thân bệnh tật. Chúng ta phải thực hiện thiền định. Thực hiện thiền định là phải ly dục, ly ác pháp; phải diệt tầm tứ; phải ly hỷ tưởng; phải tịnh chỉ thân hành. Ðể chứng tỏ cho mọi người biết sức lực của thiền định làm chủ sự sống chết một cách cụ thể rõ ràng. Tuệ là sự hiểu biết. Tuệ được tu tập thì không gian và thời gian không còn chia cắt và trải dài, vì thế mà chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Chúng ta thực hiện trí tuệ vô lậu để chấm dứt tái sanh luân hồi, không gian và thời gian không còn tác dụng lên chúng ta được nữa. Ba vấn đề này gom chung vào một tâm, nếu tâm có hiểu biết tĩnh giác trong đạo đức nhân bản - nhân quả thì tâm liền có giải thoát.
Giới, Ðịnh, Tuệ chỉ cho một tâm duy nhất của ba trạng thái kết hợp tạo thành một nguồn sống giải thoát. Ba vấn đề này gom chung vào một tâm, nếu tâm có hiểu biết tỉnh giác trong đạo đức nhân bản - nhân quả, thì tâm liền có giải thoát. Ðó là một vấn đề (giới, định, tuệ) duy nhất của đạo Phật, giúp cho con người vượt qua khổđau của kiếp làm người, ngoài vấn đề này thì không có giáo pháp nào của đức Phật dạy cầu tha lực cả. Nếu có giáo pháp cầu tha lực là giáo pháp của ngoại đạo, đó là một sự xác định nghiêm túc của đạo Phật. Giới, định, tuệ của Ðạo Phật là pháp môn duy nhất ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm, đoạn dứt lậu hoặc, thực hiện đạo đức làm người làm thánh, không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Giới, Ðịnh, Tuệ là môn học đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người. Nền đạo đức nhân bản – nhân quả ấy chính là nếp sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nó là phương hướng xác định đường lối tu tập theo Phật giáo từ thấp đến cao.
Nếu ai chưa tu GIỚI mà tu ÐỊNH là tu sai pháp của Phật. Nếu chưa nhập được ÐỊNH mà bảo mình có trí TUỆ là người này lừa đảo người khác. Giới, định, tuệ là một pháp môn dạy dạo đức làm người làm thánh nhân tuyệt vời trên hành tinh này. Nếu ai đã có đầy đủ duyên mới gặp được pháp môn này mà chẳng chịu tu tập rèn luyện thân tâm mình, thật là một người bạc phước vô cùng và ngu si không chỗ nói. Vì pháp môn này vừa lợi ích cho mình, cho người và xã hội, vừa đem đến cho cá nhân một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; đem đến cho xã hội một trật tự, an ninh, phồn vinh và hạnh phúc. Ngoài vấn đề ly dục ly ác pháp thì không có tu tập một pháp môn nào khác hơn, nếu tu tập pháp môn nào khác hơn ngoài "Giới, định, tuệ" thì không phải là giáo pháp của Ðức Phật. Không phải giáo pháp của Ðức Phật thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi được.
Giới đức (PhậtDạy.1)(TruyềnThống.1)(TruyềnThống.2)(CầnBiết.3)(TâmThư.1)(TâmThư.2) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng. Giới đức là đức từ, đức bi, đức hỷ, đức xả, đức nhẫn nhục, đức tùy thuận, đức bằng lòng, đức hiếu sinh, đức buông xả, đức ly tham, đức ly dục, v.v… Giới Đức nói lên tính thiện của đức đó. Ví dụ: Thấy một người bị tai nạn giao thông liền chỡ họ vào bệnh viện cưú cấp. Hành động này gồm có hai: giới đức và giới hạnh: 1/ Giới Đức là tính hiếu sinh. 2/ Giới Hạnh là hành động hiếu sinh. Giới đức là đức hạnh của giới, mỗi giới có rất nhiều đức và hạnh. Giới đức phải áp dụng thực hành vào bốn pháp định của Phật như: Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Sáng Suôt, và Tứ Vô Lượng Tâm. Giới đức là dạy về đức hạnh của mọi người trên hành tinh này nói chung, nói riêng là cho những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ.
Giới đức bi giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức buông xả (CữSĩTu) giúp cho chúng ta sống một đời sống trong sạch, không gian tham, trộm cắp, tâm hồn thanh thản, an ổn. Giới Ðức Buông Xả đối trị được tâm tham lam, trộm cắp, giúp cho thân tâm không dính mắc vật chất thế gian, giúp cho tâm luôn được thanh thản, an lạc và vô sự.
Giới Ðức Chung Thủy (CữSĩTu) là đức hạnh trước sau một lòng, có tình cảm gắn bó vợ chồng không thay đổi. Người biết giữ gìn Giới Ðức Chung Thuỷ là người biết sống mang lại sự an vui hạnh phúc cho gia đình, không làm khổ vợ con, không làm khổ chồng con và không làm khổ cả hai bên cha mẹ, anh em, chị em dòng họ.
Giới đức địa giới hành (Truyền Thống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh Nghiệp.
Giới đức giới bất tịnh hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới hành nhãn căn (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới hành nhãn thức (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới hành sắc trần (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới hành tâm như đất (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.
Giới đức giới vô thường hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức giới xả hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới Ðức Hiếu Sinh (CữSĩTu) là những hành động sống đối xử với muôn loài bằng lòng yêu thương cao quí tuyệt vời, mà mọi người ai ai cũng đều phải học tập và trau dồi, không riêng những đệ tử của đức Phật. Muốn bảo vệ sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì chúng ta phải cố gắng khắc phục mình, để sống trọn vẹn Giới Ðức Hiếu Sinh. Giới Ðức Hiếu Sinh là những hành động cao quý tuyệt vời mà mọi người cần phải sống đúng như vậy để chan hòa lòng yêu thương với muôn loài. Vì loài nào cũng muốn sống như loài nào. Có loài nào muốn chết bao giờ đâu?
Giới đức hoan hỉ sống an tịnh (TruyềnThống.2) tức là tu tập tâm hoan hỉ, tu tập tâm hoan hỉ tức là tu tập hỉ vô lượng tâm. Sống nghiêm chỉnh giới đức hoan hỉ này thì sẽ tìm thấy sự an vui chân thật của Phật Giáo.
Giới đức hỏa giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức hư không giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.
Giới đức hỷ giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức khẩu hành nghiệp (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh ngữ nghiệp.
Giới đức không giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức niệm hơi thở ra, hơi thở vô (CưSĩTu) là những lời dạy đạo đức về đời sống đạo đức của con người trong hơi thở, tức là Chánh nghiệp.
Giới đức Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra (MuốnChứngĐạo) là những lời dạy đạo đức về đời sống đạo đức của con người trong Hơi Thở tức là Chánh Kiến.
Giới đức phong giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới Ðức Sa Di (TruyềnThống.1) là nền tảng cơ bản vững chắc về đạo đức nhân bản - nhân quả làm người: không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Mười Giới Ðức Sa Di này là một cuốn sách dạy đạo đức làm Người, làm Thánh, nên tất cả mọi người đều có thể đọc, học và rèn luyện những đức hạnh này. Những đức hạnh này giúp cho mọi người có một cuộc sống khỏe mạnh, an vui, hạnh phúc và sống lâu.
Giới đức sắc giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người đừng dính mắc vào sắc tướng (sắc giới) tức là Chánh mạng. Giới đức sắc giới hành là sự phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành, ý hành giúp có một cuộc sống Thánh thiện không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, biến cuộc sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đường, khiến cho cuộc sống của loài người có một tình thương chan hòa với nhau; không những chan hòa sự sống của loài người mà chan hòa sự sống trong môi trường sống trên hành tinh này.
Giới đức thanh tịnh (PhậtDạy.1) chính là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giới đức thủy giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức thủy giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.
Giới đức từ giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới đức ý hành nghiệp (TruyềnThống.1) là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh tư duy.
Giới hành (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.1)(TruyềnThống.1)(TruyềnThống.2)(CầnBiết.3)(TâmThư.2) Giới hành là những lời dạy cách thức tu tập đạo đức và oai nghi chánh hạnh; những lời dạy về những phương pháp rèn luyện trau dồi đạo đức cho mọi người trên hành tinh này nói chung, cho những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ nói riêng, những lời dạy cách thức tu tập đạo đức và oai nghi chánh hạnh của một tu sĩ Phật giáo trọn đầy đức hạnh làm người, làm Thánh không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là Chánh nghiệp. Trong giới luật có những pháp môn tu tập để tâm được thanh tịnh. Các pháp môn này có tên là Tứ Chánh Cần, gồm có bốn loại định: 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác, 2- Ðịnh Sáng Suốt, 3- Ðịnh Niệm Hơi Thở, 4- Ðịnh Vô Lậu. Nếu một người tu hành thật kỹ bốn loại định này thì giới luật sống rất nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh tức là tâm bất động là Tâm không dao động, là hoàn tất con đường giải thoát, mục đích tu hành.
Giới hành là phương pháp thực hành để sống đúng giới đức và giới hạnh, là những pháp môn thực hành để tâm ly dục ly ác pháp, để sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, để tâm thanh thản an lạc và vô sự, để tâm không phóng dật, để tâm vô lậu, để tâm có đủ Tứ Như Ý Túc, để tâm có đủ Tam Minh. Các giới hành gồm có: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, Thất Giác Chi, Ngũ Căn, Ngũ Lực. Tất cả pháp trên được gọi là 37 phẩm trợ đạo.
Giới hành chế ngự ý (TruyềnThống.2) là phương cách ngăn lại sự ham muốn, khi có một ý nghĩ ham muốn một điều gì ác khởi lên thì ngăn chặn ngay liền không cho ý nghĩ đó biến ra hành động thân hoặc lời nói. Nếu không ngăn và diệt ý nghĩ ác ấy, thì nó sẽ dẫn đến hành động thân hoặc lời nói, lúc đó tâm chạy theo dục lạc thế gian. Chạy theo dục lạc thế gian là chạy theo các ác pháp. Và như vậy tâm sẽ chịu nhiều sự khổ đau. Người biết sử dụng “Giới hành chế ngự ý” là người biết tu tập xả tâm vô lượng pháp. Do xả tâm vô lượng pháp nên tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn là tâm nhập vào dòng Thánh (Tu Ðà Hoàn).
Giới hành khẩu hành nghiệp (TruyềnThống.1) là giới hành về lời nói, khi muốn nói một lời nói gì thì hãy suy nghĩ lời ấy như sau: lời nói này của ta, có thể đưa đến làm khổ ta, có thể đưa đến làm khổ người khác, có thể đưa đến làm khổ cả hai. Lời nói này bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một lời nói như vậy thì chớ có nói.
Giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra (MuốnChứngĐạo) Giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... đều nương vào Hơi Thở Tĩnh Giác mà tiếp giao, nhớ đừng bao giờ quên Hơi Thở, như vậy được gọi là Chánh Tư Duy. Trước khi thực hiện làm cho sung mãn Giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở. An trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở tức là biết Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm Hơi Thở. Giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra tu tập an trú tâm trong Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt Hơi Thở vô ra. Vì tâm chúng ta hay quên (vô kí) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi, làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng Hơi Thở vô, ra. An trú được tâm trong Hơi Thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện Giới hành niệm Hơi Thở này trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng; sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được, có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ, mới đặt niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kĩ theo Hơi Thở vô. Sau khi Hơi Thở vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo Hơi Thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu tu tập 1 phút sức tỉnh giác rất tốt không quên Hơi Thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta quên Hơi Thở, mà cũng có nghĩa là trong một phút không có một niệm vọng tưởng nào xen vào được. Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tỉnh giác Hơi Thở ra vô, ta tăng 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi tăng lên 10 phút ta xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không. Trong giới hành về niệm hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập. 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở được chia ra làm hai phần: a- 7 đề mục đầu nhiếp tâm và an trú tâm. b- 12 đề mục sau đẩy lùi các ác pháp.
Giới hành tam nghiệp (TruyềnThống.1) Lấy thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp đưa ra đặt trước mặt và tư duy rút ra những kinh nghiệm của các thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp trong hiện tại, ta không để xảy ra thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp tự hại, hại người và hại cả hai nữa. Chính sự tu tập như vậy gọi là “giới hành tam nghiệp”.
Giới hành thân hành nghiệp (TruyềnThống.1) là những phương pháp dùng để tu tập, rèn luyện thân tâm trở thành một thói quen tốt. Có thói quen tốt tức là có những hành động sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Giới hạnh (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(TruyềnThống.1)(TruyềnThống.2)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4)(TâmThư.1) Giới là giới luật, là những điều ngăn cấm, là những pháp thiện. Hạnh là hành động, là đức hạnh nói lên sự hoạt động của đức đó qua thân, khẩu, ý. Giới hạnh dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động sống như: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh ấy được gọi là Chánh nghiệp. Giới hạnh dạy về oai nghi tế hạnh những hành động đức hạnh của mọi người trên hành tinh này nói chung, của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư Sĩ nói riêng.Giới hạnh là những hành động không vi phạm giới luật; là những hành động cao quý, những hành động thiện, những hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, những hành động mang lại sự an vui cho mình, cho người, cho tất cả chúng sanh; là những hành động không làm trái với lương tâm của mình. Người tu sĩ và người cư sĩ nào giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, những vị ấy đã thể hiện Hạnh Ðức của mình. Như vậy giới luật là “Hạnh Ðức” của người tu sĩ và người cư sĩ.
Giới hạnh làm cho tri kiến không có khởi ác niệm, không có những hành động ác, không có những lời nói ác. Nhờ thế được xem là tri kiến thanh tịnh tức là tri kiến giải thoát hay nói cách khác là tri kiến không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là sự hiểu biết thanh tịnh. Cho nên Giới hạnh là tri kiến giải thoát; ở đâu có tri kiến giải thoát là ở đó có đức hạnh. Lời này xác định đạo đức làm người rất rõ ràng: Người có đức hạnh không làm khổ mình, khổ người là người phải có tri kiến giải thoát. “Ai có giới hạnh là có tri kiến giải thoát, ai có tri kiến giải thoát là có giới hạnh”. Phần đông, trong cuộc đời người nào cũng có tri kiến, nhưng tri kiến không có giới hạnh. Tri kiến không có giới hạnh là tri kiến khổ đau, tri kiến ác, tri kiến dục làm khổ mình, khổ người. “Giới hạnh có thể làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến có thể làm thanh tịnh giới hạnh” Ðó là cách thức sử dụng tri kiến giải thoát để vượt ra khỏi qui luật của nhân quả, để làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp làm người. người.
Giới hạnh là hành động thiện. Ví dụ: Thấy một người bị tai nạn giao thông liền chỡ họ vào bệnh viện cưú cấp. Hành động này gồm có hai: giới đức và giới hạnh: 1/ Giới Đức là tính hiếu sinh. 2/ Giới Hạnh là hành động hiếu sinh.
Giới hạnh bi giới hành (Truyền Thống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua bi giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh chế ngự ý (TruyềnThống.2) là những oai nghi tế hạnh sống ly dục, ly ác pháp, sống diệt ngã xả tâm. Vì vậy, những oai nghi tế hạnh sống chế ngự ý là Thánh đức bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ. Giới hạnh chế ngự ý là những oai nghi tế hạnh sống ngăn ác diệt ác pháp tức là sống đoạn diệt lòng ham muốn của mình. Ðoạn diệt lòng ham muốn của mình là sống đúng chân lý Diệt Ðế. Diệt Ðế là Niết Bàn.
Giới hạnh địa giới hành (Truyền Thống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động như đất khi nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh độc cư (TâmThư.1) có ba giai đoạn tu tập: ở giai đoạn Giới Luật đức hạnh, ở giai đoạn Tứ Niệm Xứ, và giai đoạn Thân Hành Niệm. Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi miệng, thân, ý, để làm sao tâm ly dục ly ác pháp cho được. Người chỉ âm thầm chiến đấu với giặc nội tâm sống độc cư trọn vẹn là bậc phi phàm dù học ở lớp nào mà đời sống họ khác lạ với mọi người trong giới hạnh độc cư thì họ là bậc đặc cách, chúng ta không nên động đến họ để họ thực hiện con đường tu tập rốt ráo chứng quả trong thời gian ngắn nhất. Tu hành phải biết linh động, khéo thiện xào, nhưng phải sáng suốt biết chúng ta đang tu tập ở giai đoạn nào mà áp dụng đúng pháp môn ở giai đoạn đó, chứ đừng áp dụng sai cách thì rơi vào ức chế. Chỉ trừ những bậc siêu phàm, có những đặc cách phi thường, tuy học giới luật đức hạnh mà lại thích sống độc cư ở giai đoạn Tứ Niệm Xứ, họ không để ý những gì xảy ra bên ngoài mà lúc nào họ cũng sống bên trong với nội tâm của họ. Những người không giới luật thì không xả tâm chỉ biết ức chế tâm và còn để tâm dung ruổi chạy theo dục lạc ở đời, theo tình cảm của cuộc sống người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẻ, để ganh ghét, để thù hận với nhau. Tu mà nói chuyện người này đúng, người kia sai; tu mà còn so bì hơn thua với nhau từng chút, từng ly; tu mà đi rình ngó người này tu như thế này, người kia tu như thế kia, thì làm sao chứng đạo được?
Giới hạnh giới bất tịnh hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới bất tịnh hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới hành nhãn căn (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành nhãn căn như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới hành nhãn thức (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành nhãn thức như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới hành sắc trần (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành sắc trần như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới hành tâm như đất (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện giới hành tâm như đất qua như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.
Giới hạnh giới vô thường hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới vô thường hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới xả hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới xả hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh hoan hỉ sống an tịnh (TruyềnThống.2) là Thánh hạnh của Phạm Thiên, tức là vui vẻ sống an ổn một mình, sống cho mình. Sống cho mình tức là sống độc cư cô đơn. Sống vui vẻ và an ổn một mình, tức là đời sống của người tu sĩ Phật giáo biết hoan hỉ sống an tịnh. Chính giới hạnh này là một pháp môn giúp cho người tu sĩ phòng hộ sáu căn, để không dính mắc sáu trần, nhờ đó tâm hành giả không còn phóng dật. Tâm không phóng dật là trạng thái Niết Bàn.
Giới hạnh hỏa giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỏa giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh hỏa giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỏa giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.
Giới hạnh hư không giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hư không giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.
Giới hạnh hỷ giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua hỷ giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh khẩu hành nghiệp (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những khẩu hành nghiệp như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh khẩu nghiệp.
Giới hạnh không giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua không giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra (MuốnChứngĐạo) là những lời dạy về Phạm hạnh, những lời dạy về Hành Động Đạo Đức, thường thể hiện qua giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... đều nương vào Hơi Thở Tĩnh Giác mà tiếp giao, nhớ đừng bao giờ quên Hơi Thở, như vậy được gọi là Chánh Tư Duy hay Chánh nghiệp.
Giới hạnh phong giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua phong giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.
Giới hạnh sắc giới hành (TruyềnThông.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua sắc tướng (sắc giới) như: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... nhưng không dính mắc. Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh hạnh nghiệp. Giới hạnh sắc giới hành là sự phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành, ý hành giúp cho có một cuộc sống Thánh thiện không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, biến cuộc sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đường, khiến cho cuộc sống của loài người có một tình thương chan hòa với nhau; không những chan hòa sự sống của loài người mà chan hòa sự sống trong môi trường sống trên hành tinh này.
Giới hạnh Tàm quý (TruyềnThống.2) Xấu hổ với những điều làm ác, xấu hổ với những điều làm gian xảo, xấu hổ với những điều không thành thật, xấu hổ với những điều gian tham trộm cắp, xấu hổ với những lời nói hung dữ, xấu hổ với những việc làm đau khổ mình, đau khổ người, xấu hổ với lòng ưa ăn thịt chúng sanh, xấu hổ với sự mạ lỵ mạt sát người, xấu hổ với lời nói xấu người khác, xấu hổ với tính hung dữ của mình, xấu hổ với lòng tham vọng của mình đòi hỏi vượt ra khỏi hoàn cảnh của mình đang sống, xấu hổ với lòng kiêu mạn khinh rẻ người khác, xấu hổ với một việc mà mình làm chưa được, xấu hổ mình không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi hoàn cảnh của mọi ác pháp, xấu hổ với lòng sân hận thù oán người khác, xấu hổ với ý nghĩ bất thiện đang tìm cách nói xấu hại người khác.
Giới hạnh thủy giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua thủy giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh mạng.
Giới hạnh từ giới hành (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua từ giới hành như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v… Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hạnh ý hành nghiệp (TruyềnThống.1) là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua ý hành nghiệp như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh ý nghiệp.
Giới hòa đồng tu (ThanhQui) là phải biết lấy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và tất cả chúng sinh mà hòa hợp sống với nhau. Có nghĩa là mọi người chỉ cần lấy giới luật mà sống thì sẽ có sự hòa hợp với nhau.
Giới kinh (PhậtDạy.4)(TruyềnThống.1) Giới kinh là những bài pháp dạy tu hành nó có đầy đủ bốn đức (giới cấm, giới đức, giới hạnh, giới hành). Sau khi nghiên cứu lại tất cả các bộ giới thì chúng tôi xét thấy 37 phẩm trợ đạo của đức Phật là giới kinh, là những kinh nghiệm tu tập của đức Phật khi đạt được cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Do lòng thương tưởng đến chúng sanh, nên Ngài mới dạy lại cho con người, để mọi người theo kinh nghiệm đó mà tu tập để được giải thoát làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi như Ngài. Giới kinh không phải đức Phật chế ra để ngăn cấm đệ tử của mình mà dạy đạo đức làm Người làm Thánh để tâm hoàn toàn vô lậu và đúng theo tinh thần tự giác tự nguyện không có bắt buộc, không có khuyến dụ, không có mua chuộc.
Giới luật (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.5)(ĐườngVề.9)(ĐườngRiêng)(TruyềnThống.2)(CầnBiết.1)(Tạoduyên)(ThờiKhóaTu)(CữSĩTu)(TâmThư.2) Giới luật là Thánh hạnh (hạnh không làm khổ mình, khổ người), là pháp vô lậu, là sự giải thoát chân thật của một người sống đúng giới luật, là một người hướng đạo tốt dẫn đường, dắt lối chúng ta đến bờ giải thoát, là những hành động sống Thánh thiện tuyệt vời, đầy đủ đức hạnh nhân bản làm người – sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Giới luật là thiện pháp, là đức hạnh vì thế người sống đúng giới luật thì chuyển được ác nghiệp, do chuyển được ác nghiệp mới không còn đau khổ, không còn đau khổ là công đức, là đạo đức làm Người, làm Thánh. Giới luật là thiện pháp, là đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người nào có những hành động làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là người phạm giới, phá giới. Vả lại giới luật là thiện pháp, người sống trong thiện pháp là người không phạm giới, người sống trong ác pháp là người phạm giới. Giới luật là đức hạnh nên đạo Phật xây dựng mình trên nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai. Giới luật giúp cho con người vượt thoát ra khỏi sông mê biển khổ của cuộc đời.
Giới luật là pháp môn vô lậu mang đến những kết quả giải thoát thực tế, cụ thể, rõ ràng hiện tại, không có thời gian chờ đợi cho những người tu sĩ Phật giáo, đến để mà thấy kết quả ngay liền. Giới luật là một pháp môn làm nền tảng vững chắc cho sự tu học căn bản của Tăng, Ni và cư sĩ đúng chánh Phật pháp. Giới luật là một pháp môn để mọi người sống có đức hạnh làm Người, làm Thánh, là thiện pháp, là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai và khổ chúng sanh; là vị Thầy đức độ đầy đủ, một vị Ðạo Sư của mọi người. Giới luật là sự sống của đệ tử Phật, là sự giải thoát khổ đau của kiếp làm người. Ðời sống giới luật là đời sống thoát khổ. Người tu hành theo Phật giáo thì phải lấy giới luật và giáo pháp của Phật làm sự sống của mình.
Giới luật là pháp môn tu tập để ly dục ly ác pháp, nên giải thoát được đời sống của con người ra khỏi mọi ham muốn và mọi sân hận, phiền não khổ đau. Giới luật là những phương pháp tu tập hằng ngày để ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, và cuối cùng để đạt được kết quả giải thoát tâm vô lậu, chứng Thánh quả A La Hán. Giới luật là thức ăn của thiền định, nếu không có giới luật thì không có thiền định, cho nên thành tựu viên mãn giới luật là có thiền định. Giới luật thuộc về pháp môn Tứ Chánh Cần, trên pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Giới luật là cấp học quan trọng nhất trong Tam Vô Lậu Học và tu tập khó nhất trên đường tìm cầu đạo giải thoát theo đạo Phật. Người nào tu hành mà không giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật, thì có tu suốt đời cũng tu chẳng tới đâu, chỉ còn tu danh, tu lợi, tu tưởng, chẳng bao giờ có giải thoát thật sự. Nếu không tu giới luật mà tu trí tuệ thì trí tuệ đó là tà tuệ, kiến giải, tưởng giải, là trí tuệ tích lũy. Giới luật gồm có nhiều giới, mỗi giới đều có tính chất đặc thù riêng về đức và hạnh nên mới được mang tên là “Giới Vô Lậu”, nên mới được mọi người cung kính và tôn trọng, nên mới đem lại sự an vui hạnh phúc cho cá nhân.
Giới luật của Phật dạy người tu hành giải thoát là dạy đạo đức. Đạo đức tức là sự giải thoát cho mình cho người, nghĩa là người có đạo đức là người không làm khổ mình khổ người, vì ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, làm chuyện mê tín, bố thí, v.v... đều còn trong phước hữu lậu, mà phước hữu lậu có thì còn làm khổ mình khổ người. Giới luật là tri kiến giải thoát của người tu sĩ. Giới luật là một pháp môn tu hành của đạo Phật, chớ không phải là pháp luật của một quốc gia. Giới luật gồm có: 1- Năm giới tại gia. 2- Mười giới xuất gia. Đối với tu sĩ, Giới luật là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ. Ðối với phật tử tại gia lấy năm giới làm giới trọng, lấy bốn hòa làm giới khinh, lấy ba đức làm nòng cốt cho cuộc sống hằng ngày của mình; lấy tám giới làm đường đi đến đích giải thoát.
Giới luật của Phật (TâmThư.1)(PhậtDạy.1) là nền đạo đức nhân bản – nhân quả, tức là đạo đức của loài người. Dù giới lớn, giới nhỏ nhặt, giới trọng, giới khinh, v.v… giới nào cũng đều là những hành động đức hạnh làm Người, làm Thánh mà mọi người trên thế gian này, ai ai cũng cần phải học tập để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, bằng giới luật đạo đức thương yêu, tha thứ để đem lại hạnh phúc, yên vui cho nhau mãi mãi trong cuộc đời này. Chỉ có những người vô minh, sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới; họ không hiểu giới luật của Phật là đạo đức làm Người, làm Thánh của những bậc tu hành chân chính; họ không biết giới luật là thiện pháp để chuyển hóa nhân quả, đem lại đời sống an vui hạnh phúc cho họ, vì thế, họ mới dám tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt, chà đạp lên giới luật của Phật, mặc sức sống phạm giới, họ ăn uống phi thời, ngồi quán, ngồi lều, nhậu nhẹt rượu chè say sưa, chạy xe lạng lách, xem ca hát và tự ca hát, v.v.... vì vậy Giới luật của Phật là đức hạnh, là phương pháp phòng hộ bảo vệ sự tu tập cho tu sinh. Giới luật của Phật là những hành động đạo đức giải thoát cho mình cho người. Đức Phật đã dạy: “Giới luật là trí tuệ, trí tuệ là giới luật”, “Giới luật ở đâu trí tuệ ở đó”, “Ta nói giới luật là nói tâm ly dục ly ác pháp, Ta nói tâm ly dục ly ác pháp, đó là Ta nói thiền định”. “Ta nói giới luật là nói tâm không phóng dật, Ta nói tâm không phóng dật đó là Ta nói Niết Bàn”. Đức Phật di chúc: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Như vậy, đức Phật thành đạo là do giới luật. Giới luật là một pháp môn sống đúng, tu tập đúng là con người có đạo đức, có trí tuệ, có thiền định và có sự giải thoát ngay liền như những lời đức Phật đã xác định trên.
Giới luật đức hạnh (12Duyên)(TâmThư.2) gồm có: 1- Năm giới (Ngũ Giới) căn bản của người cư sĩ. 2- Mười giới Sa Di (Thập Giới Sa Di) của người xuất gia. 3- Hai trăm năm mươi giới tỳ-kheo Tăng (250 Giới tỳ-kheo Tăng) của tu sĩ nam, hay Ba trăm bốn mươi tám giới tỳ-kheo Ni (348 Giới tỳ-kheo Ni) của tu sĩ nữ. Giới luật đức hạnh chưa thấm nhuần, chưa thông suốt mà muốn ngồi thiền nhập định để có Tam Minh thì đó là một ảo tưởng, vì bỏ giới luật mà tìm thiền định thì không bao giờ có thiền định. Ngồi trong thất tu mà giới luật vi phạm thì làm sao tu chứng quả A La Hán được.
Giới luật hiện tiền (GiớiĐức) Dẫn chứng giới luật được thọ trì để dứt sự rầy rà.
Giới luật nghiêm trì (TruyềnThống.2) thì có sáu trạng thái giải thoát: 1- Giới luật thanh tịnh. 2- Kiên trì giữ gìn. 3- Nội tâm tịch tĩnh. 4- Không gián đoạn thiền định. 5- Thành tựu quán hạnh. 6- Thích sống tại các trụ xứ không tịch. Giới luật là thức ăn của thiền định, nếu không có giới luật thì không có thiền định, cho nên thành tựu viên mãn giới luật là có thiền định.
Giới luật Phật (GiớiĐức.2) gồm chung có: ngũ giới, thập thiện, thập giới sa di, sa di ni, 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni. Tất cả giới luật này để chỉ dạy những hành động đạo đức của con người từ phàm phu, bình thường đến bậc Thánh nhân, Hiền triết. Nếu ai biết lấy tất cả giới luật của Ðức Phật đã dạy làm tiêu chuẩn sửa sai những hành động thân, miệng, ý của mình, thì hành động của mình lần lần sẽ trở thành những hành động hiền lành, ôn tồn, hòa nhã, thương yêu và đầy lòng bác ái, từ bi, v.v... của những con người thật thụ là con người, mà người đời gọi đó là những hành động đạo đức nhân bản. Những hành động đạo đức đó sẽ tiến dần lên những hành động cao thượng hơn mà người bình thường không thể sống và làm được, nên gọi đó là những hành động đạo đức của những bậc Hiền Thánh, của những bậc Chơn Tu, là đạo đức Phạm Hạnh trong Phật giáo. Ðạo Phật còn gọi những hành động đạo đức này là oai nghi tế hạnh, là phạm hạnh, là đạo đức giải thoát của người tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nó chính là pháp môn tam vô lậu học: “Giới, Định, Tuệ” mà Giới luật là pháp môn đầu tiên dạy đạo đức làm người. Tất cả giới luật của Ðức Phật là những pháp môn dạy cho chúng ta tu tập, rèn luyện những hành động đạo đức làm người cho xứng đáng làm những con người và còn tiến lên làm những bậc Thánh Hiền cho xứng đáng là những bậc Thánh Hiền. Giới luật Phật là những hành động đạo đức chơn thật của con người không làm khổ nhau; là thước đo để chúng ta nhận xét biết được mọi con người, họ là con người hay là thú vật, họ là người tu thật hay là tu giả, họ là Thánh nhân hay là Ác quỷ. Giới luật Phật không phải là giới cấm mà là đức hạnh của một người tu sĩ. Người tu sĩ phải tự giác, tự nguyện sống đời sống giới luật mới chính là người tu sĩ của Phật giáo.
Giới tướng đức hạnh của 8 Quan Trai Giới (CữSĩTu) có 8 giới. 1.- Giới thứ nhất: Cấm sát sanh. 2.- Giới thứ hai: Cấm tham lam trộm cắp. 3.- Giới thứ ba: Cấm dâm dục là giới đức thanh tịnh, có sáu nơi vi phạm: 1- Vi phạm giới bằng mắt, 2- Vi phạm giới bằng tai, 4- Vi phạm giới bằng miệng, 5- Vi phạm giới bằng thân, 6- Vi phạm giới bằng ý. 4.- Giới thứ tư: Cấm nói dối. 5.- Giới thứ năm: Cấm uống rượu. 6.- Giới thứ sáu: Cấm trang điểm. 7.- Giới thứ bảy A: Cấm nằm giường cao, rộng lớn. Giới thứ bảy B: Cấm ca hát và nghe ca hát. 8.- Giới thứ tám: Cấm ăn uống phi thời.
Giới tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là những giới luật của ngoại đạo đặt ra để tu hành, do tưởng uẩn nghĩ ra và sự thật không ai giữ giới này có giải thoát. Ví dụ: Giới hạnh của con bò, giới hạnh của con chó, giới hạnh ngồi thiền đau chân cũng phải ngồi cho hết giờ, giới hạnh ngâm mình trong nước lạnh, giới hạnh tu đứng, giới hạnh tu ngồi, giới hạnh tu nằm, giới hạnh tu đứng một chân, giới hạnh ăn quá ít, giới hạnh lõa thể, giới hạnh ăn phân bò... Tất cả những giới hạnh này gọi là giới khổ hạnh do tưởng uẩn nghĩ ra và bảo rằng: ai giữ gìn sẽ được giải thoát, sau khi chết sẽ được cộng trú với Trời Phạm Thiên. Nhưng sự thật không ai giữ giới này có giải thoát, thường là chịu khổ đau và cũng không cộng trú với Phạm Thiên được.
Giới uẩn (PhậtDạy.4) là đức hạnh, là thiện pháp của con Người, của những bậc Thánh. Giới uẩn là nền tảng căn bản đạo đức tâm vô lậu, để tu tập theo con đường giải thoát của đạo Phật. Giới uẩn là đức hạnh của con Người, của những bậc Thánh, là thiện pháp. Nếu không thông hiểu giới luật thì làm sao thông hiểu nền tảng đạo đức giải thoát của đạo Phật. Một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ đệ tử Phật phải thông suốt Thánh giới uẩn. Nếu không thông hiểu giới luật thì không thông hiểu nền tảng đạo đức giải thoát của đạo Phật.
Giới Xứ (TâmThư.1) Sáu căn, sáu trần, sáu thức đầy đủ để tạo thành những nhân duyên Xúc, Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết. (Giới của Phật Giáo).
Giờ tu tập (TâmThư.2) chia ra giờ nào học tu pháp nào cho rõ ràng. Ví dụ: giờ đến lớp học, giờ làm bài ở trong thất, giờ đọc thêm sách trong thư viện của tu viện, giờ ngồi giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, giờ đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác và giờ nhiếp tâm trong hơi thở, v.v…
VIẾT TẮT CÁC SÁCH
(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai;
***