In bài này

VIỆC CHẤN HƯNG LẠI PHẬT GIÁO

Lượt xem: 6126

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT

II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)


Bài đọc thêm 11:

VIỆC CHẤN HƯNG LẠI PHẬT GIÁO

Ở đây Thầy xin nhắc lại trong thư thầy Thiện Thiền muốn hỏi là để thấy được sự việc trải qua thời gian của Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn giúp Hòa Thượng Thanh Từ để xây dựng lại Phật pháp vì Thầy là một người tu không còn chấp danh chấp lợi, không muốn mình làm bậc thầy của ai, chỉ muốn núp sau lưng Hòa Thượng để giúp Hòa Thượng xây dựng lại ngôi nhà Phật Giáo.

Trước đây 3 năm Thầy đã có những lời nói đó trong hai cuộn băng. Cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn, muốn khuyên quý thầy trở về với sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng chiếc áo tôn giáo mà làm lệch con đường của đạo Phật (xem bài Trở Về Đạo Phật trong Diễn Đàn Chơn Như). Cuộn băng thứ hai, trong đó Thầy muốn so sánh giữa thiền Đông Độ và 4 thiền của Phật để Hòa Thượng thấy cái đúng cái sai, Hòa Thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò hiểu nhau. Thầy sẽ núp sau lưng Hòa Thượng cố gắng đào tạo một số người quyết tâm tu hành giải thoát. Sau khi đào tạo được số người này rồi thì đương nhiên họ là đệ tử của Hòa Thượng chứ không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi, để cuối cùng người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hòa Thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy, như vậy, kết quả như vậy. Khi đã có những người do Thầy hướng dẫn họ ttu hành thành công, riêng Thầy thì âm thầm thị tịch ra đi, không để lại một dấu tích gì về công lao của Thầy đối với Phật giáo ở trong thế gian, nhưng cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của đạo Phật nó phải như vậy, chứ không phải như bây giờ người ta đang hiểu Phật giáo, như hiện bây giờ người ta đang tu tập.

Khi Thầy tu xong, làm chủ được sự sanh tử rồi, Thầy trở về thăm Hòa Thượng trên Chơn Không. Lúc bấy giờ trong bài thỉnh nguyện Thầy có nhắc phần đó. Để quý thầy hiểu rõ hơn, Thầy đọc lại bài thỉnh nguyện đó cách đây 7 năm, năm đó là 1990, ngày 26 tháng 3 (ngày 3 tháng 2 năm Canh Ngọ) Thầy về Thường Chiếu thỉnh nguyện bài này, trước khi đó Hòa Thượng Thanh Từ giao khu đất ở Phước Hải cho Thầy để xây dựng tu viện Chơn Lạc. Lúc bấy giờ có những duyên rất khó khăn, bây giờ Thầy dự tính nếu Trung tâm An Dưỡng ra đời cũng trên khu đất đó để thực hiện hoài bảo đem đạo đức của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ, họ làm từ thiện thì đem lại sự hạnh phúc cho họ, họ làm điều ác thì họ mang hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có cái hoài bảo đó.

Đây quý thầy nghe bài Thỉnh Nguyện đã viết cách đây 7 năm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Con là tỳ kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có đủ duyên sự, xin đầu thành đãnh lễ tác bạch sám hối.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy và đại chúng, từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu hành như thế nào.

Kính bạch Thầy và đại chúng, trong 3 tháng hạ năm 1970, con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu "Bồ tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật". Thầy giảng câu này cho chúng con đó là vọng tưởng độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật. Lại nữa cũng kinh đó, Thầy giảng câu "Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, và quá khứ tâm bất khả đắc", con ngộ câu này "tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý". Ngộ hai câu kinh này nên con đặt trọn niềm tin ở thầy là một kỳ sư đắc đạo mới hiểu được như vậy "Quét hết vọng tưởng dùng tác ý để thành Phật".

Bấy giờ tâm con đều buông xuống hết, con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc. Dẹp sạch. Cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa, con không còn ham học hay tìm hiểu về kinh sách nữa. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con kinh trong bộ Đại Tạng. Con từ giả tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.

Trong chúng chỉ có 10 huynh đệ tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao nghị luận, tìm nơi vắng vẻ năng nỗ tu hành. Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu, thường dẹp tất cả tìm lấy con đường giải thoát cho mình. Như ngài Đại Mai ngộ câu "Tức tâm tức Phật" rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành; Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ giả mẹ già đến chùa Huỳnh Mai nỗ lực thực hiện quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết; ngài Dược Sơn ngộ câu "không nhướng mày chớp mắt", 3 năm không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều rớt sạch. Bởi vậy, ngộ là để tu chứ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Kính bạch Thầy và đại chúng, suốt 10 năm trong thất, con quét sạch vọng tưởng, dừng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn tri vọng, biết vọng liền buông. Nhờ pháp môn này, con đã dẹp gần hết vọng tưởng nhưng chưa thật sạch. Năm cuốí cùng con dùng pháp Hơi Thở nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình, con thành tựu dừng tác ý kéo dài thời gian này 7 ngày đêm liên tục không biết đói khát. Tiếp tục suốt 2 tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài, và không còn cảm giác đau nhức nóng lạnh khó chịu, duy nhất con không mất tâm thức của con. Con rất tỉnh táo. Rồi một hôm ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xẩy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi, con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng, thanh thản. Các công án trong Bích Nhâm Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng. Con biết sạch. Cũng như hiện giờ thầy và con là một hay là hai, con cũng đều biết. Con đã có trí tuệ, đã có thiền định. Thầy hỏi con, con đều đáp đúng như ý của thầy, không bao giờ con đáp sai ý thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trình thầy 2 lần nữa, thầy đều cho rằng tất cả những điều con nhập định là đúng.

Kính bạch thầy và đại chúng, khi về trình thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin thầy ra đi (chết), trước là để niềm tin cho chúng thấy sự nhập định và làm chủ sự sống chết của con, để họ theo thầy tu tập và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho thầy. Nhưng thầy yêu cầu con ở lại (sống) giúp thầy chấn hưng Thiền Lý Trần. Do sự yêu cầu này con ở lại đem hết sức mình giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài. 10 năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng miễn thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con "Chẳng sợ ngại gì, chỉ thầy trò hiểu nhau là hơn hết". Con tin ở lời này.

Kính bạch thầy và đại chúng, con chẳng tự xưng mình chứng quả Alahán, nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi gặp thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ thiền cho đến Tứ thiền, con đáp lại lời thầy giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống, cũng như Tứ Không, Diệt Tận Định chẳng có ai dạy con nhập các thiền các định này nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định, chỉ dò theo trạng thái lúc nhiếp tâm nhập định phỏng chừng theo kiến giải ý nghĩa trong kinh điển mà nói ra, đó là kiến thức chứ không phải thiền định, và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói túc mạng, thế mà người ta đồn đải, nhất là từ ngày thầy Thông Huyển trú tại Chơn Như, sự đồn đải ấy ngày càng nhiều.

Kính bạch thầy và đại chúng, sự hiểu biết của trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyển là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng ảo tưởng huyền thoại và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyển.

Kính bạch thầy và đại chúng, hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ nên xin thầy và đại chúng chứng minh. Kể từ ngày nay con sẽ không dạy những kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời thầy đã dạy. Đất nước này, thời điểm này, thầy là người có căn chấn hưng lại Thiền tông Việt nam, con là đệ tử của thầy, trợ giúp thầy vô tình đã làm thầy buồn. Vậy con xin sám hối với thầy và đại chúng, từ nay về sau con không làm phiền lòng thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lổi lầm nhờ thầy và đại chúng chỉ dạy cho để con được làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.

Kính bạch thầy và đại chúng, ơn nghĩa thầy khai ngộ con thấu suốt được lí giải thoát sanh tử. Làm sao con quên được lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai "Phật pháp còn mãi thế gian là còn người tu chứng". Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Biết lấy chi so sánh được. Một lần nữa, con kính xin thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.

Sau cùng con xin phép thầy, khi thầy ra đi (chết) con sẽ cùng với thầy ra đi, nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì. Nếu lưu lại con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đó là bài thỉnh nguyện của Thầy tại Thường Chiếu, ngày 26 tháng 3 năm 1990.  

Vấn đề thiền viện Chơn Lạc đã gây nên sự rối loạn ở cả tu viện Thường Chiếu. Hầu hết tu sĩ ở Thường Chiếu lúc bấy giờ xin đăng ký ra Chơn Lạc, đó là việc rất đau lòng. Các thầy ấy không thấy rằng đó chỉ là sự chuyển tiếp để Thầy âm thầm giúp cho Hòa Thượng. Các thầy nghe đến sự làm chủ sanh tử thì quá ham, cho nên không thấy do các thầy đã tạo nên sự rối loạn ở cả tu viện Thường Chiếu, làm cho Thường Chiếu vắng vẻ không còn người tu nữa, như vậy làm sao Hòa Thượng ăn nói với người ta đây. Các thầy tuổi trẻ nhỏ (bây giờ là nòng cốt của các thiền viện) đều xin đăng ký ra Chơn Lạc hết. Những thầy cao thủ, những thầy ở cấp lãnh đạo lúc đó đang giữ gìn giềng mối của Thường Chiếu thì không nói. Do đó, cái duyên không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối như bài thỉnh nguyện trên. Quý thầy thấy bài thỉnh nguyện đó đã viết cách nay 7 năm. Chính những điều kiện này làm cho tu viện Chơn Lạc bị đỗ vỡ. Do đó tu viện Chơn Lạc không đem đến kết quả.

Thay vì lần đầu tiên khi Thầy về Thường Chiếu trình bày xin Hòa Thượng mà Hòa Thượng chấp nhận cho Thầy nhập diệt. Nhưng Thầy dự tính trước khi nhập diệt thì sẽ xin Hòa Thượng nhập định 7 ngày đêm ở tại Chơn Không để tất cả tăng ni đang theo Hòa Thượng tu hành chứng kiến sự nhập định của Thầy, họ sẽ thấy được sự tự tại và cái Định Như Ý Túc (muốn thế nào là đạt như thế). Sau khi nhập định 7 ngày đêm, Thầy sẽ xuất định và từ biệt đại chúng có đủ mặt tại đó và Thầy sẽ nhập diệt. Nếu được Hòa Thượng cho Thầy nhập diệt như vậy thì trước đó Thầy xin Hòa Thượng thiêu xác thân của Thầy và đem đổ xuống biển đừng có xây tháp gì hết, coi như hoàn toàn không có vật gì để lại. Thầy chỉ còn lưu lại cho Hòa Thượng một tài liệu để theo đó Hòa Thượng hướng dẫn cho người tu: phải lấy giới luật sống như thế nào, phải tu tập thiền định như thế nào để nhập định làm chủ được sự sống chết.

Đó là ý của Thầy muốn giúp Hòa Thượng ngay từ ngày thành tựu sau khi tu tập 10 năm trong thất. Đối với Thầy thì danh lợi không còn nữa mà chỉ còn có tình nghĩa thầy trò giúp nhau xây dựng lại Phật pháp, đem lại sự hưng thịnh của Thiền tông mà thôi. Hòa Thượng lấy kinh nghiệm bản thân của Thầy, lấy kết quả của Thầy để làm gương cho mọi người sáng suốt nhận ra được Phật pháp mà xây dựng. Nhưng Hòa Thượng lại không có ý để cho Thầy nhập diệt, mà muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử thành đạo giúp đở một bên Hòa Thượng.

Khi Thầy từ giả về Hòa Thượng có nhắc "Trong chuyến về này, Thông Lạc hãy ghé thăm các Chiếu". Nhưng Thầy không ghé thăm mà đi về luôn. Khi Hòa Thượng hỏi lại thầy Thông Lạc có về thăm không thì các Chiếu nói không có. Cho nên Hòa Thượng nói bây giờ mỗi Chiếu cử một đại diện về thỉnh Thầy mới về, chứ không thể nào mà Thầy về đâu. Do đó có một chuyến xe mỗi Chiếu có một đại diện về đây thỉnh Thầy. Sau khi được thỉnh, Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu khác. Sau chuyến thăm đó thì có nhiều tư tưởng chống đối ganh tị với Thầy. Nói rõ ra thì người phàm phu họ chưa thấy. Thầy đã hiểu biết tâm trạng đó cho nên khi đến thăm các Chiếu, Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ lộ ra một kinh nghiệm tu hành nào của mình. Tại sao vậy? Tại vì Thầy biết người ta không tin mình mà người ta có những cái ganh tị với Thầy. Họ hỏi tại sao Thầy được Hòa Thượng cho rằng Thầy đã tu chứng thế này thế khác. Thầy thấy trong tâm của mỗi huynh đệ của mình có những sự chống đối chứ chưa phải là quyết tìm con đường giải thoát. Trước khi về thăm các Chiếu, Thầy đã hiểu tâm đó của chúng sanh rồi. Cho nên khi tu xong, Thầy chỉ muốn làm cái gì cho họ tin ở Hòa Thượng hơn là ở Thầy.

Nếu Thầy ở lại giúp Hòa Thượng thì sẽ xẩy ra sự tranh chấp. Họ đâu muốn Thầy về làm thầy của họ đâu, họ muốn bao giờ họ cũng là người điều khiển, chứ không muốn Hòa Thượng giao sự điều khiển đó cho người khác. Vì thấy được điểm đó, cho nên Thầy thấy không thể nào sống trong các Chiếu để giúp Hòa Thượng được.

Hòa Thượng giao một khu đất ở Phước Hải được một người đệ tử cúng dường và Hòa Thượng cho Thầy ra đó để xây dựng một tu viện mới được đặt tên là Chơn Lạc. Ra đó Thầy cất các thất nho nhỏ như ở đây, và mỗi người sẽ được sống trong một thất. Vì Chơn Lạc ở trong khu rừng núi thuộc vùng biển cho nên khí hậu rất tốt, ai cũng thích, nhất là các thầy có cơ thể bị bịnh tật thì ở vùng đó cơ thể sẽ được khỏe mạnh. Cho nên các thầy ở Thường Chiếu đều đăng ký đi hết vì vậy mà Thường Chiếu gặp sự trống trơn, sự đó không hay. Từ đó coi như Hòa Thượng không chú ý đến tu viện Chơn Lạc nữa.

Lúc đó Hòa Thượng Huệ Hưng cũng yêu cầu Thầy về giúp, mà Hòa Thượng Huệ Hưng là một người chỉ nghe biết Thầy, chứ không phải là thầy của Thầy thì làm sao mà giúp cho Hòa Thượng Huệ Hưng được. Nhưng Hòa Thượng Huệ Hưng có sự đối đải với người tu hành rất tốt, rất lịch sự. Hòa Thượng không thấy cái ngã của mình là một vị lãnh đạo tăng trong cả nước. Trong Giáo Hội, Hòa Thượng là Trưởng Ban Tăng Sự toàn quốc, thế mà Hòa Thượng hạ mình đến đây mời Thầy. Hòa Thượng nghĩ rằng người có công phu tu hành như Thầy mới giúp Hòa Thượng làm Phật Giáo sống lại được, và đồng thời Hòa Thượng cũng có ý muốn xây dựng tu viện chuyên tu ở Càng Long, nơi khu đất của Hòa Thượng Thiện Hòa để lại, nhưng Thầy thấy các thầy ở Càng Long cũng như các thầy ở Ấn Quang chẳng có tâm tha thiết cho sự giải thoát, họ chỉ nhắm vào phần sống danh lợi hơn. Nhưng Thầy không nhắm giúp Hòa Thượng Huệ Hưng mà chỉ nhắm giúp Hòa Thượng Thanh Từ xây dựng lại Thiền Tông. Thầy cho rằng dù một ngày Thầy là đệ tử của Hòa Thượng Thanh Từ thì lúc nào Hòa Thượng cũng vẫn là thầy của mình, Thầy muốn làm sao cho con đường Thiền tông của thầy mình sống mãi, đó là mình đền đáp ơn thầy của mình. Nếu không nhận là thầy của mình thì thôi chứ khi đã nhận rồi thì phải làm sao cho mình xứng đáng là một người đệ tử.

Như quý thầy đã nghe lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào tình thầy trò của Thầy và Hòa Thượng Thanh Từ không bao giờ có ai ngăn cản được. Ai làm gì thì làm, tâm của Thầy lúc nào cũng xem Hòa Thượng là một bực thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng Hòa Thượng, không bao giờ Thầy coi Hòa Thượng dạy thiền như thế nào; Hòa Thượng muốn dạy như thế nào thì Hòa Thượng có quyền dạy như vậy. Nếu Thầy có những kinh nghiệm tu hành mà giúp được cho Hòa Thượng là giúp, chứ không bao giờ chê trách Hòa Thượng dạy thế này thế khác.

Nhưng có nhiều người lấy những lời của Thầy dạy đúng đắn cho người khác (trong băng Phật Môn Bảo Huấn) mà họ lại nói rằng Thầy bài bác Hòa Thượng. Thầy cũng chẳng hiểu họ hiểu những điều Thầy nói ra đó như thế nào. Như quý thầy thấy Thầy đem Thiền Đông Độ so sánh với 4 thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hòa Thượng nhận xét được cái nào thực hiện được, cái nào thực hiện không được, để giúp Hòa Thượng có những sáng kiến, từ đó Hòa Thượng đi dần dần vào con đường của Phật.

Cũng như trong bức thư của Thượng Tọa Nhất Hạnh gởi cho Hòa Thượng Thanh Từ có nhắc Hòa Thượng như thế này "Chúng ta hãy trở về với con đường Nguyên thủy", Thượng Tọa Nhất Hạnh nhắc Hòa Thượng như vậy. Thật ra những điều Thầy nêu ra trong bài văn đó là muốn cho Hòa Thượng trở về với Phật giáo chơn chính của nó để giúp cho một số người đang theo Hòa Thượng tu hành đạt được kết quả. Sự thật kết quả sự tu hành của các đệ tử của Hòa Thượng vẫn là sự thật, không thể nào chối cải được. 

Lần thứ nhất là thiền viện Chơn Lạc không kết quả. Lần thứ hai, khi hai cuộn băng Phật Môn Bảo Huấn ra đời nhằm mục đích âm thầm giúp cho thiền viện Trúc Lâm. Lần thứ ba khi trở về Thầy đưa dự thảo của phương án Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc xin Hòa Thượng đứng tên ở trong đó để giúp đở cho Thầy làm công việc này. Hòa Thượng nói Hòa Thượng chỉ lo việc tu học thôi, không làm công việc xã hội. Thật ra phải nhìn cái Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc về hình thức nó là công việc từ thiện xã hội, nhưng bên trong nó lại lồng vào đạo đức đạo Phật, có lợi ích rất lớn cho con người. Nó không chỉ nhắm vào một số thiền sinh tu thiền để giải thoát sanh tử đâu, mà nó còn nhắm giúp cho mọi người có mặt trên hành tinh này thông suốt đạo đức nhân quả để đem lại xã hội an ninh, không bao giờ có ai làm tội ác nào hết. Đó là mục đích mà Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc ra đời. Nhưng lại một lần nữa không được Hòa Thượng chấp nhận.

Như quý thầy đã biết, đứng trong vấn đề làm việc lớn này, nếu nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì Thầy còn làm cái gì hơn, nên khu đất ở Phước Hải để cho cây cỏ mọc chứ làm gì hơn.

Gần đây Thầy có ý nghĩ muốn di chúc lại cho những mầm non sau này của tổ quốc dự thảo phương án Khu An Dưỡng Chơn Lạc này, để sau này có những đứa bé rất thông minh, rất giỏi, được cha mẹ cho sang ngoại quốc học và khi trở về phục vụ cho dân tộc, cho đất nước, chúng nó sẽ làm công việc này, sẽ thực hiện Khu An Dưỡng Chơn Lạc. Chúng nó sẽ là mầm non tương lai của dân tộc, của đất nước, sẽ đem lại đạo đức cho dân tộc. Còn Thầy thì già rồi và không đủ duyên làm.

Ba giai đoạn để Thầy giúp đạo, giúp đời đều không đạt. Thầy muốn đem đạo đức nhân quả để dạy con người qua dự án Khu An Dưỡng Chơn Lạc thì cũng chẳng thành. Vậy bây giờ Thầy nên làm cái gì? Bây giờ Thầy chỉ còn ẩn bóng để chờ những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi.

Nếu hiện nay không có những đệ tử đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn Thầy đã nhập diệt, chứ mang thân này mệt mõi. Mỗi lần ho, mỗi lần bịnh là một lần thọ nghiệp khổ. Bỏ thân đi cho khỏe, có gì tiếc nó đâu. Ăn thì ngày một bữa, có gì mà ngon, có gì mà béo bổ nữa mà ham. Cho nên đối với Thầy chẳng có gì ham nữa, nhưng đáng thương cho các con đang theo Thầy tu học lở dở, không lẻ Thầy bỏ các con, cho nên Thầy ẩn bóng để theo dỏi sự tu tập của các con cho đến khi nào các con thành tựu thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vỉnh viển.

Đó là nguyện vọng hiện nay của Thầy chứ giờ này Thầy đâu còn mong núp sau lưng Hòa Thượng Thanh Từ để giúp Hòa Thượng nữa. Hết rồi. Đã ba lần, mà ba lần là quá sức rồi.

Các con chưa từng hiểu, thầy Chơn Tịnh muốn đưa Thầy ra Thường Chiếu thì chiều phải về thành phố ngủ lại, 7 giờ thì ở Thường Chiếu đã sám hối rồi nên mình phải ra cho kịp giờ nên cả thầy trò 4 giờ sáng phải lo đi. Sám hối rồi lại trở về chứ không ở lại. Cực khổ và khó khăn lắm chứ không phải dễ. Thế mà mỗi tháng đều về sám hối như vậy. Cho nên có lần Hòa Thượng nói Thông Lạc cứ về hằng tháng như vậy thì rất là vất vả, thầy trò hiểu nhau rồi thì thôi, ở tại chỗ, đừng có về nữa. Hòa Thượng nói với Thầy như vậy cho nên Thầy không có về sám hối nữa để làm cho tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa thầy. Nhưng thời gian đó rất ngắn, bởi vì họ không biết Thầy là người như thế nào mà luôn luôn hạ mình đến mức độ không có tưởng tượng được. Thầy Chơn Tịnh đi theo Thầy có lần đã nói với Thầy: Thầy tu hành như vậy mà hạ mình như vậy, không chịu nổi lối hạ mình của Thầy. Đối với huynh đệ cũng vậy, với Hòa Thượng Viện chủ cũng vậy.

Như thế này: khi đến xin sám hối mà Hòa Thượng ở bên Linh Chiếu thì Thầy phải qua bên Linh Chiếu. Qua đó gặp Hòa Thượng thì Hòa Thượng không thèm nói một lời nào với Thầy mà bỏ về. Thế mà Thầy vẫn đi theo sau Hòa Thượng để chứng tỏ cái tình người đệ tử rất hạ mình, biết tôn trọng thầy mình, chứ không phải như quý thầy hiện giờ đâu, nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền. Khi Hòa Thượng ở Linh Chiếu, Thầy gặp Hòa Thượng rồi thì Hòa Thượng không nói một lời nào mà ngoe ngẩy chống cây gậy đi về. Hất hủi một cách rất là hất hủi. Thầy Chơn Tịnh đi theo sau Thầy nói Thầy chịu đựng nổi chứ con không thể chịu đựng nổi. Thầy nói đã là Thầy của mình, là ông cha của mình mà tại sao mình lại chịu không nổi.

Đó là những hành động. Có những khi Hòa Thượng tìm mọi cách tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bĩ ngồi chờ đợi. Có những khi mưa dầm tầm tả, Thầy ngồi chờ đợi để gặp Hòa Thượng xin một lời sám hối rồi trở về. Có thể 5 giờ hay 7 giờ tối Thầy vẫn còn ở Thường Chiếu, sau khi gặp Hòa Thượng được rồi mới về trong đêm vắng, không ở lại Thường Chiếu bởi vì mình biết ở lại Thường Chiếu thì chẳng có một đối xử nào tình cảm đối với mình cả. Nhưng Thầy vẫn giữ tính cách của người đệ tử là rất biết trọng ơn thầy mình.

Thầy nhìn hết các người đệ tử của Thầy hiện giờ khó tìm được người như Thầy đã đối xử với Hòa Thượng. Hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng người có tình nghĩa thầy trò như Thầy thì hiếm lắm.  Cái bản ngã của Thầy đã diệt mòn đi với sự tu tập thiền định của Thầy cho nên Thầy thấy mình chẳng ra gì hết, mình là một con số không ở trong thế gian này, không có gì hết. Bởi vì sự giải thoát là giải thoát không có nghĩa giải thoát là bản ngã. Đối với Thầy thì mình làm chủ được sanh tử không có nghĩa là mình hơn ai hết, Thầy thấy mình không hơn ai hết, cho nên Thầy vẫn thấy Hòa Thượng là một bực thầy khả kính của Thầy, Thầy không thấy mình hơn Hòa Thượng chút nào hết. Thầy chỉ thấy rằng mình là người đệ tử phải làm sao giúp thầy đền đáp ơn thầy là đủ rồi. Thầy hình như là không có gì khác.

Hôm nay quý thầy đã được nghe lời thỉnh nguyện của Thầy cách đây 7 năm được ghi lại trong băng. Thầy Chơn Thông (bây giờ đã đi ngoại quốc tu học Nguyên thủy) xin vào để ghi băng mà các thầy ở đó không cho, may sao chú Thao có cái máy nhỏ, chú bảo Thầy mang ở cổ khi Thầy nói sẽ thâu vô chứ biết đâu chừng Chơn Thông xin không được thì làm sao. Như vậy các con biết là họ (người ở Thường Chiếu lúc đó) không bao giờ muốn lưu lại lời nói của Thầy ở đâu hết. Cho nên trước khi ra quỳ trước chúng để thỉnh nguyện Thầy đã bấm nút thu rồi. Hồi đó Thầy viết ra một bài rồi đọc lên thỉnh nguyện của mình.

Bây giờ Thầy nói giáo án này ra mục đích làm sáng tỏ lại Phật pháp, làm lại những cái gì mà người ta không hiểu Phật pháp, không phải trách các thầy hiện giờ phạm giới, phá giới đâu mà do không hiểu mà thôi, chứ Thầy nghĩ rằng một khi các thầy hiểu giới luật rồi thì chắc không đến nổi nào.