• amthat3
  • vandaptusinh
  • thanhanhniem2
  • phattuvandao1
  • ttl3
  • ThayTL
  • benthayhocdao
  • thanhanhniem1
  • lailamtoduong1
  • tranhducphat
  • daytusi
  • vandao2
  • tamthuphattu
  • phattuvandao3
  • khatthuc1
  • chanhungphatgiao
  • quetsan
  • thanhanhniem3
  • huongdantusinh
  • amthat2
  • tinhtoa2
  • amthat1
  • toduongtuyetson
  • lopbatchanhdao
  • tinhtoa1
  • ttl1
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Am thất
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc
JGLOBAL_PRINT

TRẢ LỜI CHO THẦY THIỆN THUẬN

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)


Bài đọc thêm 12:

TRẢ LỜI CHO THẦY THIỆN THUẬN

Thầy Thiện Thuận có hỏi Thầy trong vấn đề tu tập và Thầy thấy nó rất quan trọng cho nên cần nói rõ để các con tu đừng sai lệch. Thầy Thiện Thuận hỏi Thầy như vầy:

Bạch Thầy, cho con xin hỏi thêm về cách phá âm thanh, nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con phải ám thị ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn thở hơi thở 5 giây, hay 10 giây, hoặc 20 giây hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh cho các hành ngưng và hơi thở ngưng. Xin Thầy chỉ thêm.

Đó là điều rất quan trọng.

Hầu hết số người dùng pháp hướng chưa đúng cách ở trên chỗ hơi thở đó. Khi chưa đúng trạng thái mà hướng tâm bảo ngưng hơi thở hoặc là bảo phá âm thanh, hay thế này thế khác. Chúng ta phải biết tâm chúng ta ở trong một định nào đó thì chúng ta mới phá được âm thanh hoặc là phá cái thọ, chứ khi chúng ta chưa ở trong định đó mà vội hướng tâm phá âm thanh thì coi như chúng ta chỉ là một người bình thường như vầy mà bảo đừng nghe âm thanh thì chắc chắn là vẫn nghe chứ không bao giờ hết nghe được.

Ở đây thầy Thiện Thuận hỏi khi ngồi thiền, hơi thở còn ở trong 5 giây, hay 10 giây, hoặc 20 giây, nghĩa là hơi thở bình thường là 5 giây, rồi bây giờ thở chậm trong 10 giây, hay hoặc là 20 giây rồi mới ám thị, hay là cùng một lúc mình ám thị, nghĩa là vừa kéo chân lên là ám thị nó, nhắc nó đừng nghe âm thanh, hoặc là các hành phải ngưng đồng thời một lượt?

Thầy sẽ trả lời, và khi xả ra phải ám thị bằng những câu nào, như thế nào. Đó là những điều rất quan trọng.

Kế thì thầy Thiện Thuận có báo cáo trạng thái đang tu của mình

"Bạch Thầy, con dùng câu pháp hướng phá âm thanh của Thầy chỉ, kết quả qua những lần đau gót chân nay đã không còn đau nữa mà âm thanh vẫn còn nghe, không giảm tí nào và hiện giờ ngồi thiền thì chân nó cứ bung ra hoài. Vừa kéo chân lên xong, con mới ám thị chưa được nửa câu thì chân đã bung ra rồi. Xin thầy chỉ thêm".

Đó là những điều kiện rất là quan trọng khi chúng ta biết dùng pháp hướng. Nếu không biết dùng pháp hướng thì không làm sao làm cho pháp hướng có hiệu quả được. Nó phải đúng trạng thái nào thì mới dùng.

Muốn dùng pháp hướng phá âm thanh thì khi nào xét thấy 6 thức bám chặt và nằm yên trên tụ điểm. Nghĩa là để đừng nghe âm thanh bên ngoài tác động thì chúng ta phải nhận xét sáu thức.

Khi chúng ta kéo chân lên ngồi thì chắc chắn chúng ta phải điều thân cho vững vàng, rồi tới điều tâm, tức là điều sáu thức cho nó nằm yên trên tụ điểm. Khi sáu thức đã bám chặt, đã nằm yên trên tụ điểm rồi thì có một trạng thái yên lặng trong thân và ngoài thân.

Quý thầy lưu ý phần này rất quan trọng. Nếu khi chưa có sự yên lặng, mới kéo chân lên mà vội hướng tâm thì không kết quả đâu. Khi hơi thở còn ở 5 giây tức là còn ở trong dạng của hơi thở bình thường, lúc bấy giờ chúng ta ở trong định nào? Khi đã li dục li ác pháp được, chúng ta biết rằng chúng ta có một cái tâm thanh thản. Tâm thanh thản đó chính là tâm li dục li ác pháp. Lúc đó luôn luôn có tầm tứ nhưng tầm tứ đó đều là thiện pháp chứ không phải ác pháp nữa, bởi chúng ta đã li dục li ác pháp rồi thì đâu còn ác pháp nữa, cho nên tầm tứ đó đều toàn là thiện, nhưng chúng ta phải tiến tới một giai đoạn nữa là thay vì hơi thở 5 giây bình thường của trạng thái thanh thản Sơ thiền, mà chúng ta đã biết chúng ta li dục li ác pháp rồi, tâm thanh thản đó là tâm đang ở trong trạng thái của Sơ thiền, nhưng không có nghĩa là đang ở trong Sơ thiền mà phá âm thanh được. Cho nên khi hơi thở đang ở 3 giây hay 5 giây này, dù tâm ở trạng thái Sơ thiền mà hướng tâm bảo nhĩ thức đừng nghe âm thanh nữa thì chắc chắn không kết quả đâu. Do đó chúng ta phải thở chậm nhẹ nữa để diệt tầm còn tứ. Diệt tầm còn tứ là một cái định, bởi vì Sơ thiền thì có tầm có tứ, chúng ta diệt tầm mà còn tứ, như Minh Tông nói diệt tầm còn tứ thì luôn luôn mình còn pháp hướng nhắc tâm của mình cho tầm hoàn toàn không còn có nữa, chứ không phải hướng phá âm thanh. Hướng là tác ý ra phá tầm.

Bây giờ tầm tứ đã diệt hết rồi, không còn gì nữa mà hơi thở đó khoảng 5 giây hay 10 giây, hoặc là 20 giây, khi chúng ta không còn nhận ra hơi thở nữa vì hơi thở quá nhẹ, nhưng thời gian của hơi thở thì khoảng là 5 giây, hay hoặc là 10 giây, 20 giây, nhưng lúc bấy giờ chúng ta không thấy hơi thở tức là chúng ta không có niệm hởi thở nữa. Do đó chúng ta biết rằng tầm tứ đã diệt tức là chúng ta đã nhập Nhị thiền, nhưng chúng ta đâu có ở trong trạng thái của Nhị thiền, vì còn biết hơi thở ra và hơi thở vô. Chúng ta phải nằm trên hơi thở ra vô đó,nênchúng ta biết rằng đó không phải là Nhị thiền, có cái niệm là để chúng ta ở trạng thái đó để phá các loại tưởng, vì ở trạng thái của Nhị thiền bước qua Tam thiền là có những trạng thái tưởng xẩy ra, như hào quang, ánh sáng, hoặc là thân bay bổng, hoặc thân cảm giác khinh an hỉ lạc, hay trạng thái này, trạng thái kia xãy đến trong thân và tâm của chúng ta. Bởi tầm tứ diệt thì xem như chúng ta là một người đang ngủ, xem như thân chúng ta đang ngủ, vì thế mà giấc chiêm bao nó thực hiện. Nhưng ở đây giấc chiêm bao không phải là như người nằm ngủ mộng chiêm bao mà do chúng ta diệt tầm tứ, làm cho ý thức ngưng nên không có tầm không có tứ. Mà không tầm không tứ thì tưởng thức phải thể hiện. Đoạn đường này chúng ta phải bám hơi thở, nếu không bám hơi thở thì các trạng thái của tưởng sẽ xuất hiện, không bám hơi thở thì như người đang chiêm bao, đang mộng.

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta muốn phá âm thanh thì phải ở chỗ nào? Hiện bây giờ chúng ta chưa phá được âm thanh mà đang phá các loại tưởng. Chúng ta biết rằng phải phá các loại tưởng vì vậy mà tâm chúng ta nằm trên hơi thở diệt tầm tứ này. Tâm ở trong trạng thái không có tầm tứ này thì có một trạng thái yên lặng chứ chưa phải là vắng lặng. Do nằm trên trạng thái yên lặng này thì 6 thức phải bám chặt trên tụ điểm, chúng ta không cho chúng di chuyển khỏi tụ điểm và chúng ta phải thấy hơi thở tại tụ điểm đó. Từ tụ điểm đó hơi thở xuất phát đi ra và từ tụ điểm đó xuất phát hơi thở đi vô chứ không phải thấy hơi thở từ ngoài đi vô mũi và từ trong mũi hơi thở đi ranhư cái biết của chúng ta bám tại nhân trung biết hơi thở đi ra đi vô như vậy. Không phải thấy như vậy. Cái đó là cái thấy sai, cái biết sai. Cái mà quý thầy phải nhận ra là từ tụ điểm đó quý thầy phải thấy nếu hít vô thì hơi thở xuất phát từ tụ điểm đó đi vô trong mũi, nếu thở ra thì quý thầy phải thấy từ tụ điểm đó có hơi thở thở đi ra chứ không phải từ ở trong phổi thở ra. Đó là 6 cái thức của quý thầy bám chặt trên tụ điểm, nằm yên trên tụ điểm nó mới thấy hơi thở ra vô như vậy. Vì vậy nó không xẩy ra cho quý thầy một trạng thái hỉ lạc khinh an hoặc cảm giác ở chỗ này hay chỗ khác của thân, như nhức đầu hay nặng đầu hay có những cái có thế xẩy đến cho quý thầy. Càng đi xa hơn thì có những thần thông đặc biệt hơn trong thời gian kéo dài ra này.

Ở trong trạng thái này, quý thầy luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác hướng tâm ám thị phá các tưởng chớ không phải phá âm thanh. Chừng nào quý thầy thấy sức tỉnh của mình ngủ mà không còn chiêm bao nữa thì lúc đó quý thầy phá âm thanh mới có kết quả, và khi nào muốn nhập được Tam thiền thì phải li hỉ toàn bộ, không còn trạng thái hỉ xẩy ra cho tâm quý thầy vui mừng nữa, lúc đó là lúc quý thầy ở trên trạng thái yên lặng của Tam thiền mới phá âm thanh và phá thọ, cho nên Phật gọi là XẢ LẠC, XẢ KHỔ, XẢ NIỆM THANH TỊNH. Chỗ này là chỗ buông sạch hết tất cả những âm thanh, sắc tướng, tất cả những cái thọ, cái đau đớn, tất cả mọi cái đều buông xuống hết.

Muốn buông xuống hết như vậy thì phải ở trên hơi thở của Tam thiền chứ không phải ở trên hơi thở của Nhị thiền. Và khi đã ở trên hơi thở của Tam thiền thì đầu tiên là quý thầy nhận ra được quý thầy đã li được các hỉ rồi, chiêm bao cũng đã li hết rồi (vì đã li hỉ) cho nên thân quý thầy thì nằm ngủ mà tâm thì tỉnh thức. Vì vậy quý thầy phải cố gắng tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ để cho cái tâm tỉnh, không còn mê mới không còn chiêm bao. Khi không còn chiêm bao, quý thầy mới li các trạng thái hỉ, từ đó hơi thở của quý thầy mới đương nhiên ở trong Tam thiền. Còn hơi thở là còn cái niệm thì còn đường đi để tiến tới Tứ thiền. Do vậy quý thầy phải giữ tâm của quý thầy ở chỗ trạng thái của hơi thở Tam thiền, ở trạng thái yên lặng đó thì quý thầy mới hướng tâm phá âm thanh. Nhờ pháp hướng có hiệu quả làm cho quý thầy không còn nghe âm thanh nữa.

Khi hơi thở của quý thầy đang ở Nhị thiền, chỉ mới diệt tầm tứ, chiêm bao còn mà quý thầy vội phá âm thanh thì phá chưa được đâu, bởi vì các trạng thái tưởng chưa li thì làm sao quý thầy đi tới nữa được, không tiến tới được.

Phải phân biệt được cái yên lặng của Nhị thiền khác với cái yên lặng của Tam thiền. Khi 6 cái thức nằm yên lặng trên trạng thái của Nhị thiền, nghĩa là 6 thức bám chặt tụ điểm, lúc đó quý thầy hướng tâm ám thị để phá HỈ. Do vậy quý thầy phải tập tỉnh thức trong giấc ngủ. Trước khi ngủ quý thầy phải đặt niệm hơi thở trước mặt, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô để giữ tâm tỉnh thức trong 5 hay 10 phút rồi mới ngủ. Sau đó quý thầy tăng dần, tăng dần cho đến khi mặc dù thân nằm ngủ mà tâm hoàn toàn tỉnh thức. Khi đạt được trạng thái này (thân ngủ, tâm vẫn tỉnh) thì quý thầy biết đã vượt qua trạng thái hỉ rồi cho nên thân ngủ mà không mê man, vẫn biết được hơi thở, gọi là BẶT NIỆM HƠI THỞ, tỉnh thức trong giấc ngủ. Quý thầy không mệt nhọc vì mất ngủ mà trái lại rất khỏe, rất tỉnh táo, sức tỉnh thức rất cao. Vì vậy khi ở mức độ yên lặng của Tam thiền thì sức tỉnh thức của Tam thiền hơn sức tỉnh thức của Nhị thiền. Do đó, muốn phá âm thanh thì tâm quý thầy phải đến trạng thái của Tam thiền. Ở trạng thái yên lặng của Tam thiển mới hướng tâm phá âm thanh để phá sạch cả lạc, cả khổ, cả niệm thanh tịnh đó. Khi đã xả hết rồi, không còn nghe âm thanh, thọ không còn tác động trong thân, không còn cảm giác nào, lúc bấy giờ chỉ còn trạng thái vắng lặng của không gian và thời gian, lúc bấy giờ rất là vắng lặng (không còn trạng thái yên lặng nữa). Đó là trạng thái của định Tứ thiền.

Khi quý thầy đến trạng thái đó sẽ biết được trạng thái vắng lặng. Như Minh Tông có nói rằng "con đã nhận ra được cái trạng thái của Tứ thiền" tức là Minh Tông đã nhận ra trạng thái vắng lặng không có âm thanh nào tác động. Nhưng trạng thái đó không kéo dài, còn bị bung ra. Muốn thiện xảo an trú kéo dài trạng thái vắng lặng đó nhưng không được, không kéo dài lâu được. Minh Tông chỉ thấy được bóng dáng của Tứ thiền nhưng chưa ở được trong đó.

Thấy được bóng dáng vắng lặng đó, nhưng vì chưa trọn vẹn nhập Tam thiền, chiêm bao chưa phá sạch, hỉ chưa li hết, cho nên chúng ta chỉ thấy được bóng dáng của Tứ thiền một chút thôi, chứ chưa được nhập vào Tứ thiền. Khi nhập vào Tứ thiền thì cả không gian vũ trụ này không còn một tiếng động nào hết và cả thọ thân của chúng ta, cái mỏi mệt, ngứa ngáy, đau đớn, không còn. Không còn gì tác động được chúng ta. Như vậy mới gọi là trạng thái của Tứ thiền.

Muốn biết được chúng ta dùng pháp hướng có hiệu quả hay không thì phải đúng trạng thái yên lặng của Tứ thiền mà dùng pháp hướng phá âm thanh, phá thọ, phá các loại tưởng. Một người chưa diệt tầm được mà cũng hướng phá âm thanh thì Thầy thấy tầm chưa hết thì làm sao phá âm thanh cho được, vậy phải diệt tầm trước.

Muốn diệt tầm, muốn cho hết tầm tức đừng cho có vọng tưởng, thì phải bắt buộc ý thức bám chặt hơi thở, phải luôn luôn tác ý "Ý thức phải bám chặt hơi thở, không được quên"; cứ một lát thì tác ý "Ý thức phải bám chặt hơi thở, không được quên", nhắc nó vậy rồi chúng ta giữ trạng thái của tâm chúng ta kéo dài ra chừng 1 phút hay 2 phút không có tầm gì hết, chúng ta lại tác ý câu đó nữa. Cứ như vậy chúng ta nhập được một cái định gọi là vô tầm hữu tứ.

Sau đó chúng ta xả hết pháp hướng mà chúng ta vẫn thấy không có tầm khởi ra, tầm không tác động được, lúc đó chúng ta đã diệt được tầm, chỉ còn tứ.

Muốn diệt tứ, chúng ta chỉ hướng tâm nhắc một lần "Tứ không nên tác động ra nữa". Rồi không dùng pháp hướng đó nữa, chúng ta chỉ còn nhắc "Hơi thở phải nhẹ xuống, nhẹ xuống nữa, ý thức không được nhận ra hơi thở nữa" nên hơi thở mất đi, không còn.

Hơi thở không còn làm đối tượng của ý thức nữa mà chúng ta vẫn không tầm không tứ. Lúc đó tầm tứ đã diệt. Đó là lúc chúng ta nhập cái định gọi là định diệt tầm diệt tứ, tức là tương đương với Nhị thiền. Lúc ở trong trạng thái yên lặng đó chúng ta biết nó như thế nào rồi, đã vô đó nên chúng ta biết nó như thế nào, nhưng chúng ta phải ra để biết hơi thở, chứ để mất hơi thở thì ý thức mất đối tượng. Tâm chúng ta ở trong trạng thái định chứ tâm của chúng ta còn niệm (niệm hơi thở), cho nên chúng ta phải ra niệm hơi thở. Nhờ niệm hơi thở ra hơi thở vô, chúng ta mới li các trạng thái hỉ để nhập Tam thiền, chứ nếu không có hơi thở thì chúng ta cứ nằm trong Nhị thiền, dù chúng ta khéo léo nằm trong đó thời gian bao lâu thì cũng vẫn ở trong Nhị thiền, chứ không lên Tam thiền được.

Cho nên quý thầy phải lấy hơi thở. Trong một bài kinh đức Phật nói để nhập Sơ thiền thì chúng ta cũng nương vào hơi thở ra hơi thở vô và khéo tác ý. Để nhập Nhị thiền thì chúng ta cũng nương hơi thở ra hơi thở vô và khéo tác ý, thì chúng ta nhập Nhị thiền. Để nhập Tam thiền cũng vậy. Để nhập Tứ thiền cũng vậy. Cho đến nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì đức Phật cũng bảo chúng ta phải nương vào hơi thở ra hơi thở vô và khéo tác ý để nhập được Diệt Thọ Tưởng Định. Đức Phật dạy cho chúng ta qua bài pháp này rất là tuyệt vời. Lộ trình hơi thở rất là hay để đi quảng đường nhập định này cụ thể và rõ ràng.

Hơi thở phải càng chậm và nhẹ cho đến mức độ nào nó mới ngưng, chứ bây giờ hơi thở đang ở 3 giây hay 5 giây làm sao nó ngưng được? Chúng ta thấy quá cụ thể.

Thầy Thiện Thuận phải nhớ là trạng thái tâm phải nằm yên trên tụ điểm. Vì vậy việc quan trọng trong quá trình tu về 4 thiền định này là phải tạo cho có tụ điểm. Tụ điểm giống như cái cọc chúng ta phải đóng cho chắc, mới cột 6 cái thức của chúng ta. Chúng ta xem 6 cái thức như 6 con vật bị cột chặt vào cái cọctụ điểm đó, chúng không lôi cọc tụ điểm đi được, không làm cho cái cọc tụ điểm theo nó. Khi chúng lôi làm cho cái cọc tụ điểm khi thì văng qua hướng này, khi thì văng qua hướng khác theo các con vật đó thì chúng chẳng nằm yên được. Chúng ta nói là tụ điểm nhưng thật ra nó là cái cọc để cột 6 cái thức nằm ở trên đó. Vì vậy mà phải tập cho có tụ điểm, nếu không có tụ điểm thì như một người có 6 con vật không cột vào cái cọc, mỗi con vật đều muốn đi theo hướng riêng của nó chứ không chịu đi chung một hướng đâu. Vì vậy chúng ta làm sao phải cột chặt chúng vào tụ điểm. Nếu không có tụ điểm thì không làm sao phá âm thanh được, không làm sao phá tưởng được, không làm sao diệt tác ý được. Tụ điểm rất quan trọng trong thiền định, phải làm cho có tụ điểm.

Khi dùng pháp hướng cũng phải thiện xảo, nghĩa là khi đã nằm đúng trên sự yên lặng của nội thân, của ngoại thân, chúng ta biết được trạng thái đó rồi, thì dùng pháp hướng phải thiện xảo, phải khéo léo. Nếu tác ý thô quá thì trạng thái yên lặng bị mất, mà sợ quá không dám hướng tâm cho mạnh thì không đủ sức tinh thần, thì cũng chẳng phá được. Cho nên phải thiện xảo khéo léo, biết mức độ nào mà có thể phá âm thanh được, hướng tâm phải ở mức độ nào mà không bị sốc sự yên lặng của trạng thái chúng ta đang nằm ở đó.

Vì vậy đức Phật nói thiện xảo an trú trong định để nó không bung ra làm cho không phá âm thanh được, và trạng thái yên lặng của thân và tâm không bị mất. Nghĩa là mình hướng tâm nhắc câu đó mà pháp hướng quá thô đã không phá được âm thanh mà trạng thái yên lặng của định bị mất, thì ngay liền đó tụ điểm của 6 thức cũng bung ra. Nghĩa là khi mình hướng tâm quá mạnh, 6 cái thức không còn nằm tại tụ điểm nữa, chúng chạy ra khỏi tụ điểm, khi thì cái thức ở tai, khi ở mắt,... bởi vậy phải thiện xảo khéo léo dùng pháp hướng phá âm thanh mới có kết quả. Và trạch pháp ra câu pháp hướng cũng phải đúng tên đúng họ của nó nữa. Nếu dùng câu trạch pháp sai tên, sai họ thì dù mình gọi nó, nó chẳng biết đâu để vâng lời mình. Cho nên dùng pháp hướng phải đúng cách và dùng pháp hướng phải đúng tên của nó. Mình phải suy nghiệm kinh nghiệm của mình như thế nào để trạch pháp ra cho đúng để làm câu nhắc cho nó trở thành cái lực, như vậy mới có kết quả.

Lưu ý: Khi kéo chân ngồi kiết già thì lưng phải thẳng và đợi cho toàn thân thật yên tĩnh, nghĩa là khi mình mới tréo chân ngồi kiết già đừng vội lo hít thở, đừng vội điều khiển ám thị này kia, là không đúng. Người tu là phải cẩn thận và hết sức ý tứ, chúng ta không phải là người tu vội vàng hay nông nổi, mà khi tréo chân ngồi thì phải ngồi cho vững vàng và nghe trạng thái của toàn bộ thân đã yên lặng, không nghe còn cấn hay khó chịu chỗ này chỗ kia, hay còn cảm giác nóng nực hay lạnh, hay cảm giác tức lói chỗ này chỗ khác, hay cảm giác mõi tay mõi chân mõi khớp, thì đừng vội hướng tâm gì hết mà chờ cho toàn thân của chúng ta ở trong trạng thái của sự yên lặng. Khi thân đã yên lặng, chúng ta mới điều khiển cho 6 cái thức nằm yên vào tụ điểm để tâm được yên lặng theo. Quý thầy phải nhớ như vậy. Chúng ta lần lượt điều khiển phần thân trước rồi kế mới đến phần tâm. Đừng vội vàng làm một lượt cả thân và tâm, rồi lo hít thở để đừng có vọng tưởng. Ở đây thân phải yên lặng tức thân phải định, và tâm cũng phải định chứ không được vội vàng để cho hết vọng tưởng, mà phải làm cho toàn bộ thân và tâm phải yên lặng trong sự yên lặng của nó.

Cho nên lưu ý khi kéo chân lên ngồi kiết già, lưng thẳng và đợi cho toàn bộ thân yên tĩnh, nghĩa là không còn một cảm giác nào khó chịu trong thân thì mới dùng pháp hướng nhắc 6 thức nằm yên và bám chặt vào tụ điểm, rồi hít thở coi cái tâm của mình hay 6 cái thức có nằm trên tụ điểm chưa, có nghĩa là chúng gom tại tụ điểm chưa. Nếu 6 cái thức gom tại đó, nằm chặt tại đó thì chúng ta mới nương hơi thở ra và hơi thở vào tại tụ điểm nhẹ nhàng cho đến khi tất cả 6 cái thức nằm yên lặng, nghĩa là chúng ta thấy từ tụ điểm xuất phát hơi thở ra và hơi thở vô là biết rằng 6 cái thức đang nằm trên tụ điểm và đang theo dõi hơi thở hít vô thở ra ở đó. Lúc bấy giờ toàn thể thân tâm ta hiện ra một trạng thái rất yên lặng rõ ràng, nghĩa là khi chúng ta không còn vận dụng các cơ để hít vô thở ra, chúng ta quan sát thấy hơi thở ra vô tự nhiên từ chỗ tụ điểm đó (từ tụ điểm đó thở đi ra và cũng từ tụ điểm đó hơi thở đi vô), vì vậy chúng ta biết 6 thức đang nằm yên lặng tại tụ điểm, nghĩa là toàn bộ nội tâm và ngoại cảnh đều đặt trên tụ điểm đó, không còn bị động nữa, 6 thức nằm yên tại tụ điểm thì ngoại cảnh không tác động chúng ta được và thân chúng ta cũng đang ở trên sự yên lặng của toàn thân. Lúc đó chúng ta phải tác ý như thế nào để sự yên lặng nội tâm không bị động, và chúng ta phải tác ý như thế nào để sự yên lặng của nội tâm và ngoại cảnh không còn tác động chúng ta nữa. Nếu ở trong đó, chúng ta tác ý thô quá thì coi chừng sự yên lặng đó sẽ bị mất đi vì vậy mà nên có một sự tác ý rất nhẹ nhàng. Như vậy sẽ không mất lực của pháp hướng, mà không mất lực của pháp hướng thì nó làm cho câu pháp hướng đạt được hiệu quả, tức là chúng ta muốn đạt cái gì thì sẽ đạt được cái đó.

Thí dụ chúng ta muốn hướng tâm phá âm thanh thì mỗi lần nhắc hướng tâm "Đừng nghe âm thanh nữa" thì sự nghe âm thanh bên ngoài được giảm bớt, chớ không phải nhắc đến 5, 10 lần mà âm thanh vẫn còn nghe như lúc chưa hướng tâm. Khi chúng ta hướng tâm mà không làm mất trạng thái yên lặng của tâm thì không còn nghe âm thanh nữa, nó vắng liền. Như trong sự yên lặng của tâm, khi nghe một tiếng nói thì chúng ta hướng tâm rất nhẹ, đừng để tác động đến trạng thái đang yên lặng của tâm. Chúng ta vừa thoáng qua cái ý đừng nghe âm thanh (đó là hướng tâm đúng), thì 6 cái thức, nhất là nhĩ thức lại nằm yên hơn nữa, làm như nó lặn sâu xuống nữa, nó không còn nghe bên ngoài nữa. Đó là kết quả mà chúng ta biết được 6 thức đang nằm trên trạng thái yên lặng, mà 6 thức đang nằm trên sự yên lặng thì sự yên lặng lại sâu hơn nữa, đi sâu hơn nữa. Âm thanh đó nghe đang lớn thì dường như chúng ta nghe nó ở đâu xa, chỉ nghe văng vẳng chứ không còn lớn nữa. Và trong thời gian nghe văng vẳng đó chúng ta lại thoáng qua tác ý hướng tâm của mình một lần nữa thì cái âm thanh vắng luôn, không còn nghe nữa. Như vậy chính 6 thức của chúng ta nằm trên tụ điểm mà chúng ta hướng tâm để phá đi âm thanh.

Hoặc khi cái chân đang đau hoặc nhức, muốn tâm chúng ta đừng bị giao động ở chỗ đau nhức đó thì tâm (6 thức) phải nằm chặt trên tụ điểm, mặc dù chúng ta có cảm giác đang đau chân nhưng cảm giác đau đó không lung, bởi vì khi tâm nằm ở tụ điểm thì cảm giác đau rất là thường. Trái lại khi tâm chúng ta chạy xuống nằm ngay chỗ đau thì chúng ta thấy đau chịu không nổi. Khi 6 thức bám chặt tụ điểm thì chúng ta hướng tâm "Thọ hãy đi đi, không được ở đây. Thân thức phải bám cho chặt hơi thở ở tụ điểm". Khi hướng tâm như vậy thì chúng ta nghe dường như toàn thân không nghe cảm giác gì nữa. Lúc đó là pháp hướng của chúng ta rất hiệu quả. Chúng ta chỉ nhắc một hoặc hai lần ở trên trạng thái yên lặng đó là có kết quả ngay liền.

Như bây giờ cái đầu của Thầy nhức thì tâm của Thầy chỉ cần lặn ở trên trạng thái yên lặng đó và nhắc "Cái nhức đầu này không được nhức nữa. Cái thọ hãy đi đi" thì ngay đó Thầy nghe cái đầu hoàn toàn không nhức nữa là tại vì 6 cái thức do tác ý buộc nó nằm ở tụ điểm, lìa cái thọ gây ra sự đau khổ, nó không bám vào cái thọ đau đầu đó nữa, cho nên Thầy không còn thấy đau đầu nữa.

Như vậy khi chúng ta tu tập là phải biết được trạng thái tâm của mình, mình phải giữ gìn nó lúc đó như thế nào, mặc dù tâm chỉ ở yên trong sự yên lặng đó 5 phút hay 10 phút thì nó bung ra, nhưng chúng ta biết dùng thêm pháp hướng thì có thể kéo dài gấp đôi thời gian lên, thành 10 hay 20 phút, như Phật nói: thiện xảo cho tâm an trú trong (sự yên lặng) đó. Nếu chúng ta không khéo thiện xảo an trú thì nó sẽ bị bung ra. Cho nên Phật nói thiện xảo nhập định, thiện xảo an trú trong định, thiện xảo sống trong cảnh giới định, thiện xảo xuất định. Cái thiện xảo là cái chúng ta đừng có làm động sự yên lặng của tâm, bởi làm động thì sao gọi là thiện xảo được. Khi tác ý thô là chúng ta làm động tâm mất rồi. Quý thầy phải nắm chỗ khéo tác ý đó thì quý thầy sẽ đạt được kết quả. Cho nên Thầy dạy thì đúng mà khi quý thầy áp dụng tu thì quá thô nên thời gian qua quý thầy tu không có kết quả.

Phá âm thanh không phải dễ đâu, bởi vì đó là ngoại cảnh. Người ta nói "Đạt thân mà khó đạt cảnh", đạt ở trong thân của mình chứ cảnh bên ngoài khó đạt. Làm cho ngoại cảnh trở nên yên lặng, nếu không thiện xảo thì ngoại cảnh khó yên lặng.

Vậy đừng vội vàng vừa kéo chân lên là hướng tâm liền, làm như vậy là không kết quả, mà hướng tâm liên tục cũng không kết quả, hướng tâm thưa quá cũng không kết quả. Khi hướng tâm rồi thì tâm quý thầy nằm yên trên tụ điểm, trong sự yên lặng đó, nhưng lâu quá không hướng lại thì lại mất cái hiệu lực của câu hướng tâm đi, do vậy nó xen vào những trạng thái khác làm mất trạng thái yên lặng đi, nó bung ra. Khi nó bung ra thì đã mất trạng thái yên lặng rồi, quý thầy có hướng tâm lại thì pháp hướng đâu còn hiệu quả. Cho nên thưa quá cũng không được mà nhặt quá cũng không có kết quả.

Khi dùng pháp hướng thì phải biết tâm đang còn nằm trên trạng thái yên lặng, nhờ đó hướng tâm có kết quả. Nếu khi tâm đã bị bung ra rồi thì phải gom tâm trở lại cho nó nằm yên lặng trên tụ điểm, rồi mới hướng tâm thì nó mới có kết quả. Khi nó đang yên lặng, muốn kéo dài sự yên lặng đó thì phải biết khoảng cách thời gian bao lâu để dùng pháp hướng lại cho sự yên lặng đó kéo dài ra, và phải khéo léo thiện xảo như thế nào để không mất trạng thái yên lặng đó. Do vậy người tu phải hết sức khéo léo, chứ vụng thì mất định ngay liền.

Đừng vội vàng vừa kéo chân lên là hướng tâm liền, như vậy là không kết quả, hướng tâm liên tục cũng không kết quả, hướng tâm thưa quá cũng không kết quả. Thiện xảo như thế nào mà mỗi lần hướng tâm thì rất hiệu quả, nghĩa là âm thanh giảm cho đến không còn nghe nữa, toàn trong thân và ngoại thân vắng lặng, tức là không gian và thời gian cô đọng lại, vắng lặng phủ trùm.

Khi chúng ta hướng mà thấy được sự vắng lặng phủ trùm cả toàn thân của mình và cả vũ trụ là do:

1./ Chọn pháp hướng đúng cách.

2./ Hướng đúng ở trạng thái đang yên lặng.

3./ Khoảng cách thời gian hướng phải đúng, không thưa mà cũng không nhặt, tùy ở trạng thái yên lặng của tâm lúc 6 thức nằm yên tại tụ điểm.

4./ Khi xả ra phải biết cách hướng đúng cách, đúng pháp, đúng thời gian.

- Khi xả thiền ra thì phải biết trạng thái của hơi thở chậm và nhẹ đó đang ở mức độ nào, ở Nhị thiền hay Tam thiền hay Tứ thiền để chúng ta hướng tâm đúng với mức định đó mà xả thiền ra. Khi xả thiền là phải xả sạch, chứ nếu xả ra không sạch thì nằm xuống nghĩ hay ngồi nghỉ mà còn  cảm nhận trạng thái lâng lâng trong tâm hồn, đó là do xả không hết. Phải nhận xét thân tâm xả ra đã trở về trạng thái bình thường chưa. Nếu còn khinh an, còn lâng lâng, còn như say sóng thì đó là do xả chưa sạch, tâm chưa trở lại trạng thái bình thường. Phải xả cho thật đúng sạch chứ không thì sau này sẽ bị rối loạn cơ thể.

Xả ra, thân tâm có mệt hay không, nếu mệt nhọc thì đó là tu sai. Người tu thiền, xả ra cảm thấy an ổn, tỉnh táo, rất khỏe người, không bị mệt nhọc. Khi xả ra phải lưu ý cái thân của chúng ta để tránh những cái sai khi tu. Nếu vẫn cứ mang những cái sai này mà tu thì sau này sẽ trở thành bịnh tật cho thân mà không đạt được thiền định đúng cách đâu.

Khi xả phải xả cho thật sạch, nghĩa là phải trở về trạng thái của hơi thở bình thường. Các con lưu ý: bình thường chúng ta thở chậm hay nhẹ như thế nào thì các con tự biết, khi muốn xả ra nghỉ thì phải thở trở lại hơi thở bình thường đó. Khi trở về trạng thái rất bình thường rồi, chúng ta mới đi kinh hành hoặc là nghỉ, chứ chưa được bình thường mà ngồi nghỉ thì không tốt. Khi đi kinh hành là kinh hành thư giản, không được tập trung ở đâu hết, đi như một người vô sự.

Khi ở trong trạng thái yên lặng mà cảm nhận trạng thái như dồi sóng thì đó là trạng thái của tưởng, đó là trật. Vậy phải phá liền trạng thái tưởng đó, xả ra không được để.

Các con nên lưu ý: về đi kinh hành có nhiều cách đi kinh hành. Nếu đi kinh hành tu chánh niệm tỉnh thức thì khác, đi kinh hành tu tứ vô lượng tâm thì khác, đi kinh hành phá hôn trầm thì khác, đi kinh hành để thư giản thân tâm qua một thời gian công phu tu tập mệt mỏi thì khác. Cho nên đừng nghỉ rằng tất cả đi kinh hành đều giống nhau, như thế là chúng ta hiểu kinh hành chưa rành; người hiểu rành thì đi kinh hành cho mỗi mục đích đều có sự khác biệt nhau.

Nếu sau thời gian mình nhiếp tâm trong hơi thở hoặc tu định vô lậu mà đi kinh hành thì đó là đi kinh hành thư giản. Đi kinh hành thư giản không tập trung tâm vào chỗ nào hết, nghĩa là không tập trung tâm vào bước chân đi, phải đi như người vô sự, đi thanh thản không có gì trong tâm của mình.

Khi thấy thân tâm đã thư giản bình thường mà chúng ta ngồi tu, lại có cảm giác lâng lâng thì đó là do chúng ta xả thiền chưa sạch. Các vị thiền đức có nói có cảm giác lâng lâng hay nhẹ nhàng thì đó là tại vì quý vị đó xả chưa sạch, hoặc không biết cách xả cho nên nó còn mang trong thân của mình.

Muốn xả cho thật sạch thì chúng ta biết chúng ta từ hơi thở bình thường đi vào hơi thở chậm và nhẹ để nhập định nào đó, thì chúng ta cũng phải trở lại hơi thở bình thường này. Xả cho thật sạch, cho thật bình thường thì chúng ta nghe trong toàn thân không có trạng thái gì đặt biệt lạ lùng hết, trở về với dạng thức bình thường của nó, lúc đó chúng ta mới đi kinh hành. Đi kinh hành tức là chúng ta đi để thư giản vì hồi nãy chúng ta ngồi gò bó chân tay lại một chỗ, bây giờ chúng ta đi cho nó rản gân ra, cho nó thư giản ra hết.

Khi ngồi lại mà không nghe có cảm giác gì, như lâng lâng, nhẹ nhàng hay có cái gì khác như dồi sóng thì đó là đúng; mà ngồi lại còn cảm nhận có một trong các trạng thái lâng lâng, nhẹ nhàng hay có cái gì khác thì biết là chúng ta xảthiền chưa sạch. Vậy chúng ta phải xả cho thật sạch, đừng để có trạng thái gì hết.

- Đặt niệm để tu định vô lậu, thí dụ niệm thân, quán xét sự vô thường của cái thân thì nên suy tư tìm hiểu sự vô thường của cái thân, nghĩa là mình đặt niệm thân vô thường. Chữ thân và chữ vô thường là hai danh từ. Mình suy nghĩ cái thân vô thường là thân thay đổi như thế nào để nhận ra được sự thay đổi vô thường đó bằng cái thực sự, bằng hình ảnh để nhìn thấy rõ sự vô thường, chứ không bằng danh từ vô thường. Như quan sát mặt của mình từ lúc còn trẻ nhỏ thì không nhăn, bây giờ già thì nhăn; da lúc còn trẻ thì hồng hào bóng láng, bây giờ già thì nhăn nheo thô xấu, nổi gân xanh... đó là hình ảnh của sự vô thường, nhìn thấy sự thay đổi đó là sự vô thường. Nên quán xét khi tuổi còn trẻ nay về già sự vô thường xẩy ra như thế nào về các phần thân thể, như mắt, da, sức khỏe, sức lực... Còn như mình chỉ nói vô thường mà không xét sự thay đổi xẩy ra ở mỗi phần thân thể qua thời gian, thì tu định vô lậu không đạt sự vô lậu, không nói lên sự vô thường.

Mình nên đặt ra dàn bài rồi suy tư theo dàn bài để thấy sự vô thường của thân mình. Sau khi quán xét rõ sự vô thường thì nên trạch pháp câu pháp hướng tâm như lí tác ý để không chấp thân là ngã của mình, như câu "Quả đúng thật là thân vô thường, nên thân không phải là ta, không phải là bản ngã của ta. Từ nay về sau ta đừng dại dột lầm chấp thân là ngã của ta nữa. Dù ai có mạ nhục chưởi mắng thân này như thế nào thì ta không được giận hờn thù oán họ". Mình trạch pháp câu đó ra tác ý như vậy cho nên từ đó mình mới vô lậu, mình mới không tham, không sân, không si, không lo cho cái thân của mình nữa.

Không chỉ có thân vô thường mà còn có thực phẩm, lòng thương yêu, tất cả các pháp của thế gian đều vô thường hết. Đó chỉ là câu mẫu, sau khi quán xét vô lậu xong, các con tự đặt ra những câu khác để phá tâm tham sân si thất kiết sử của các con. Do đó chúng ta li dục li ác pháp, và được giải thoát.

Bây giờ Thầy trả lời thêm cho thầy Thiện Thuận. Thầy Thiện Thuận thưa hỏi:

Kính bạch Thầy, xin Thầy hoan hỉ hướng dẫn dạy cho chúng con vài câu trạch pháp để hướng tâm xả các loại tưởng".

Thầy đã từng dạy qua bài Tẩu Hỏa Nhập Ma, trong đó Thầy có phân tích cho quý thầy thấy có 16 loại tưởng. Nhưng trên bước đường tu tập, thông thường chúng ta chỉ gặp 6 loại tưởng. Khi người tu nhập được Nhị thiền là đã diệt được tầm tứ rồi, trên bước đường tu tập để nhập được Tam thiền thường hay bị 6 loại tưởng xuất hiện làm cho họ khó nhập được Tam thiền. Do vậy thầy Thiện Thuận xin Thầy cho một câu pháp hướng để loại trừ các loại tưởng đó. Thầy thấy câu hỏi hợp thời giúp cho những người tu thiền sau này nên Thầy ghi lại các câu pháp hướng này:

1.- SẮC TƯỞNG: trong khi ngồi thiền hiện ra các cảnh giới thì gọi là sắc tưởng. Nó chỉ là hình ảnh của ảo giác thể hiện ra, không phải là chánh pháp.

Như: hào quang, hình ảnh Phật, hình ảnh Tổ, hay các cảnh giới núi non rừng rú, hang động, hoặc thấy cảnh Trời Đâu Xuất, cảnh Cực Lạc, thấy đức Phật Di Đà hay thấy hoa sen... Hãy tác ý ngay: "Sắc tưởng hãy đi đi, đừng ở trong ta, đừng ngự trị trong ta trong khi ta đang luyện tập tu thiền". Đó là câu thứ nhất dùng để đuổi Sắc tưởng, trong khi đuổi sắc tưởng đi thì phải hướng tâm tiếp "Sáu thức bám chặt vào tụ điểm, ôm cho chặt hởi thở, không được tách lìa hởi thở, không được theo sắc tướng đó". Phải tác ý như vậy chứ không khéo sáu thức của mình sẽ duyên theo sắc tưởng mà cho là đúng, chừng đó chúng ta sẽ lạc vào sắc tưởng chứ không ở trong đường đạo được. Có những người tu thiền cứ cho đó là cảnh giới cao siêu mà họ đã đạt được, do đó họ rơi vào cảnh giới của ma, chứ họ không thể nhập được Tam thiền.

2.- THANH TƯỞNG là loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra. Nó là một loại ma tưởng, khiến ta mất chánh định, đó là âm thanh do ảo giác sanh ra, không phải là chánh pháp, ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy. Câu ám thị: "Thanh tưởng hãy đi đi, tâm không được chú ý đến nó. Tâm hãy bắt bám chặt tụ điểm và hơi thở".

Có một số sư, như sư Ajahn Cha ở Thái lan đã nghe âm thanh nổ trong đầu của mình. Đó là trạng thái thuộc về thanh tưởng. Và Ajahn Cha cảm nhận trạng thái thân tâm của mình rút vào rồi nhã ra. Đó là trạng thái của thức tưởng mà ngài tưởng đó là chỗ nhập định của ngài. Cho nên cuối cùng thì ngài bị các trạng thái đó dẫn đi sai lạc 4 thiền của Phật. Khi ngài đến đó cho là mình đã đạt đạo, đem ra dạy cho người. Như trong sách "Mặt Hồ Tỉnh Lặng" dạy người tu thiền phải để tâm tự nhiên vào định, trong khi Phật dạy chúng ta phải thiện xảo nhập định, thiện xảo an trú sống trong định, và thiện xảo xuất ra khỏi định chứ không phải để tự nhiên vào định. Theo sách này và cuốn hồi ký tu tập của ngài thì ngài đang ở trong chỗ diệt tầm tứ, chưa tới được Tam thiền, mà ngài cho là ngài đã nhập được Tứ thiền của Phật. Đó là cái sai của các sư không thấy được lộ trình của 4 thiền rõ ràng và cụ thể mà họ cho là họ đã đạt được.

Có nhà sư Mahasi tu hơi thở theo lối phình xọp của hơi thở vào ra ở bụng và nhắc phình xọp của bụng. Thế rồi theo thời gian nhiếp tâm ức chế vọng tưởng bằng cách dùng hơi thở như vậy, rồi ngài sanh ra pháp gọi là Minh Sát Tuệ hướng dẫn người sau tu. Cho nên chẳng ai biết được thiền định của Phật đúng sai thế nào.

Ngay từ lúc đầu tu hành để li dục li ác pháp thì chúng ta đã dùng những pháp quán, đã suy tư thấu triệt, đã dùng những tri kiến và tri kiến giải thoát phá vở ngũ triền cái, thất kiết sử để cho lậu hoặc không còn nữa, do thế chúng ta mới li dục li ác pháp để nhập Sơ thiền, chớ không phải đợi khi có định, rồi từ chỗ hết tầm tứ mới dùng pháp quán. Điều đó là quá sai với đạo Phật.

Ngay từ lúc đầu chúng ta đã thân cận bậc thánh, học pháp các bậc thánh, thân cận các bậc chơn nhơn, học các pháp chơn nhơn, do đó chúng ta có tri kiến hiểu biết pháp các bậc thánh, pháp các bậc chơn nhơn như thế nào, từ đó chúng ta đem các pháp này ra quán về thân thọ tâm pháp của mình, quán về thân ngũ uẩn của mình, quán tất cả các pháp ở trong thế gian này đều vô thường, khổ, vô ngã như thế nào, từ đó chúng ta phát triển thêm tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt được cái lí vô thường, vô ngã của nó, cái lí khổ của nó rất là thật, không còn sai nữa, do đó chúng ta mới phá được tâm lậu hoặc của mình.

Chúng ta thấy rằng việc quán xét không phải đợi cho đến khi chúng ta diệt tầm tứ, ức chế tâm mình hết vọng tưởng rồi mới quán xét. Không phải như thế đâu.

Cho nên một nhà thiền học ở Trung Hoa, như ngài Thiên Thai đẻ ra Lục Diệu Pháp Môn. Ngài cho rằng Sổ Tùy Chỉ Quán Hoàn Tịnh, nghĩa là ngài phải sổ tức (đếm số hơi thở) để ức chế tâm, rồi nương theo hơi thở để Chỉ tầm và tứ, sau khi đã Chỉ tầm tứ xong mới Quán. Do đó ngài cũng đi sai do sự ức chế tâm cho hết tầm và tứ, sau đó mới quán. Sự ức chế tâm đó trở thành pháp tưởng và pháp tưởng quán ra. Ngài tưởng là mình đã tu xong. Không ngờ đức Phật đã dạy vị tu sĩ của đạo Phật ngay từ lúc đầu đi ra đồng mã xem thây ma sình hôi thúi như thế nào, rồi mới trở về đặt niệm thây ma đó đặt trước mặt, tưởng ra thây ma đó để quán, rồi đem sự sình trương đó chiếu với thân và tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy. Có vậy mới làm chúng ta xa lìa cái ngã, không còn chấp cái thân này là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho lậu hoặc của chúng ta bị quét sạch. Nếu Phật dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng, khi Chỉ vọng tưởng xong rồi, Phật mới dạy quán, thì như vậy ngài Mahasi đẻ ra cái Thiền Minh Sát Tuệ này là đúng. Nhưng ngài đẻ ra pháp Thiền Minh Sát Tuệ sau khi Chỉ vọng tưởng xong là chúng ta đã thấy lệch lạc con đường của Phật giáo. Và ngài Thiên Thai, thiền sư Trung Hoa, cũng làm lệch lạc mất con đường của đạo Phật rồi, không đúng.

Ngay từ lúc đầu, Thầy đã dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm trong sự tỉnh thức để quán, cho nên quý thầy quán cái niệm đó trong sự tỉnh thức thì mới sáng suốt, làm cho quý thầy sáng rõ từng mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý thầy. Từ đó quý thầy mới li dục li ác pháp nên tâm quý thầy mới được thanh thản, mới được vô sự, tiến tới thì quý thầy mới tịnh chỉ tầm tứ mới nhập Nhị thiền.

Đằng này chưa có gì thì các sư dạy cứ lo tịnh chỉ tầm tứ để nhập Nhị thiền, trong khi Sơ thiền thì chưa nhập được. Nhìn cuộc sống của quý sư thầy chạy theo dục lạc, ăn uống một ngày hai ba bữa, ngủ nghỉ không đúng giờ giấc, còn ham ăn ham ngủ, còn ham chùa to tháp lớn thì thử hỏi quý sư thầy làm sao li dục li ác pháp được mà gọi là thiền Minh Sát, thiền Minh Sát chỉ ức chế tâm mình mà gọi là giải thoát. Đó là đi ngược lại con đường của đạo Phật, đâu đúng cái hành của đạo Phật. Cho nên nhìn chung Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải thoát thật sự là tại vì họ sống không đúng giới hạnh của đạo Phật, sống không đúng giới đức của đạo Phật, người tu đã bị hướng dẫn sai lệch, vì vậy mà con đường giải thoát của đạo Phật cũng bị chôn vùi.

Do sự thanh tưởng này mà người ta tưởng là mình đã chứng đạo, vì trong lúc ngồi thiền người ta nghe âm thanh, nghe trong đầu có tiếng nổ, cảm thấy cả vũ trụ như tan tành, trong thân có sự thay đổi; như thầy Thiện Thuận có nói trong thân thầy như có tiếng sôi lụp bụp. Tất cả điều đó đều thuộc về thanh tưởng.

Khi chúng ta nghe tiếng động trong thân xãy ra điều này thế kia thì chúng ta biết nó là thanh tưởng. Ngồi thiền khi tâm nhiếp không còn vọng tưởng thì thinh tưởng phát ra nghe tiếng động vo ve trong tai, hoặc nghe tiếng đức Phật Quan Thế Âm dạy pháp tu cho chúng ta về phải phản văn tự tánh như vầy như thế kia, thì đó toàn là loại ma, không phải thật là Quan Âm, hay Tổ, hay ai dạy cho chúng ta. Đó toàn là loại thanh tưởng của tưởng uẩn phát ra âm thanh đó mà thôi. Chúng ta hãy dẹp đi. Có người lại dùng pháp tưởng, họ ngồi yên lặng rồi họ đặt một câu kinh nào đó mà họ không hiểu, họ tự hỏi câu kinh đó nghĩa như thế nào. Rồi họ ngồi yên lặng thì từ trong pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu được lí của câu này, hay một công án nào đó. Do đó họ nói họ đã ngộ và có trí tuệ. Đây là trí tuệ ma, trí tuệ của Pháp Tưởng chứ không phải là trí tuệ của người có trí tuệ thật của đạo Phật.

Gặp trường hợp của thanh tưởng thì quý thầy dùng các câu pháp hướng đã nói trên mà đuổi nó đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó hưởng âm thanh đó, là sai; đừng cho âm thanh đó là đúng, mà đó chỉ là lời ma, chúng ta cần phải vượt qua. Vì vậy mà Phật gọi là li hỉ mà trú xả. Trú xả là trú ở đâu? Tức là trú ở hơi thở, phải bám chặt hơi thở để vượt qua tất cả các trạng thái xãy ra của 6 loại tưởng này. Mỗi trạng thái tưởng xẫy đến làm cho chúng ta có tâm vui mừng với nó, vì có những trạng thái vui mừng đó nên Phật bảo chúng ta phải li hỉ, là li cái hỉ của tâm chúng ta trong các trạng thái tưởng xẫy ra đó. Đức Phật gọi là "li hỉ nhập Tam thiền", chúng ta phải li hết tất cả các trạng thái tưởng này mới nhập Tam thiền. Nếu li chưa hết thì chúng ta chưa nhập Tam thiền. Li chưa hết là khi chúng ta ngủ mà còn chiêm bao. Khi chúng ta ngủ mà không bao giờ có chiêm bao thì lúc đó chúng ta li hết trạng thái hỉ của 6 loại tưởng này, có vậy chúng ta mới trọn vẹn nhập Tam thiền. Người tu sĩ ngủ mà còn chiêm bao thì đừng bao giờ mong rớ tới Tam thiền.

3.- HƯƠNG TƯỞNG là những loại mùi thơm do tưởng uẩn sanh ra, nó không phải là chơn pháp mà là tà pháp. Người tu sĩ cần phải đề cao cảnh giác, dùng pháp hướng để tiêu diệt nó, để dứt trừ loại hương tưởng này. Một người đang ngồi thiền, ở chung quang không có mùi thơm hay bông hoa nào hết mà bổng ngửi thấy mùi thơm gì phảng phất rồi cho là có chư thiên, chư Phật xuống chứng minh nên có mùi thơm này. Chỗ đó là chỗ bị ma gạt chúng ta rồi.

Khi chung quanh không có nước hoa, không có bất kỳ loại hoa gì, không có nguyên nhân gì sinh ra mùi hương đó thì chúng ta biết đó là hương tưởng xẩy ra trong lúc chúng ta đang ngồi thiền. Chúng ta đừng theo mùi hương đó, mà chỉ bám cho chặt hơi thở vô ra ở tụ điểm nhân trung và không lưu ý mùi hương đó để vượt qua hương tưởng này. Nếu duyên theo mùi hương này thì tâm sẽ bị động do vậy chúng ta bị mất chánh định đi mà đi vào định của tưởng. Chúng ta dùng câu trạch pháp này, hương tưởng là mùi thơm của ảo tưởng sanh ra, khiến tâm ta mất chánh định. "Tỷ thức phải nằm yên lặng tại tụ điểm, không được ngửi thấy mùi hương đó nữa. Hương tưởng hãy đi đi. Tâm không được chú ý theo nó, hãy bám chặt vào tụ điểm và hơi thở". Chúng ta phải hướng tâm nhắc và đồng thời kêu gọi tỷ thức của chúng ta nằm yên trên tụ điểm. Hướng tâm mà không ngửi thấy mùi hương nữa tức là chúng ta đã chiến thắng loại ma hương tưởng rồi, đã đuổi được loại ma tưởng này, nếu không đuổi được chúng ta sẽ bị ma hương tưởng dẫn chúng ta đi vào cảnh giới ma.

4.- VỊ TƯỞNG là vị gì cho cảm giác ngon ngọt xuất hiện nơi vị căn của chúng ta. Đây chỉ là loại tà pháp không phải chánh pháp, ta phải xa lìa, không nên lưu ý cảm nhận sự ngon ngọt đó. Có một số người nói trong lúc họ ngồi thiền hay tụng kinh Pháp Hoa, bị ra nước miếng mà khi nuốt vào nghe vị ngọt, họ cho đó có lẻ đó là nước cam lồ của cõi nào khác. Cái cảm giác ngon ngọt đó chỉ là vị tưởng, là của ma tưởng chứ không phải chơn thật, cho nên ta nên dùng câu pháp hướng để trị vị tưởng, vị tưởng là loại ảo giác sanh ra ngon ngọt nơi lưỡi, khiến cho chúng ta thích thú, ưa mến, khiến cho ta mất thiền định vì thế tâm ta không được lưu ý đến nó nữa. "Tâm hãy bám chặt hơi thở vô ra ở tụ điểm của hơi thở, không được lơ lỏng theo vị tưởng. Vị tưởng hãy đi đi". Đó là chúng ta ra lệnh cấm tâm theo vị tưởng ảo giác, 6 thức phải không được theo chỗ đó nữa, mặc dù nước miếng đang tiết ra có vị ngon ngọt như thế nào chúng ta cũng không lưu ý đến nó nữa. Đó là phần chúng ta diệt vị tưởng.

5.- XÚC TƯỞNG là cảm giác của tưởng có tính cách khinh an hỉ lạc khiến ta ưa mến thích thú nên khiến ta mất định. Xúc tưởng là một loại tà pháp gây nên cái thích say đắm cho người tọa thiền. Người gặp trạng thái hỉ lạc, khinh an này của tưởng thường họ hay nhúc nhích thân, họ động thân bằng cách họ ngước ngước lên hay họ cúi cúi xuống, mỗi hành động của thân như vậy khiến họ nghe có trạng thái thích thú.

Khi một người tu thiền li dục sanh hỉ lạc thì không có một trạng thái nào sinh ra cảm giác thích thú trong đó, mới gọi là li dục. Còn khi có trạng thái làm chúng ta thích thú, làm chúng ta thấy nó khoảng khoái êm ả, làm chúng ta rất ham thích, chúng ta nói ngồi thiền như vậy thích thiệt. Như vậy là chúng ta bị dục tưởng trong khi ngồi thiền. Hỉ lạc của những bực thánh, của những bực chơn nhơn đâu phải là hỉ lạc của phàm phu tục tử như vậy. Cái hỉ lạc mà gật gù thân như vậy đâu phải là hỉ lạc của bực thánh.

Có một nhà sư viết trong một bài báo nói một người ngồi thiền cũng như một người hút thuốc phiện, nó cũng là khoảng khoái, cũng thích thú như vậy. Thật ra đó là thứ thiền dục lạc, thiền tà, chứ đâu phải là thiền của Phật. Thiền của Phật phải li tất cả trạng thái làm chúng ta thích thú nó. Thế mà vị thiền sư đó cũng gọi là thiền của Phật. Cả thế giới đăng bài báo đó. Báo Giác Ngộ ở Việt Nam cũng dịch ra và đăng, họ không biết thiền định là gì, cho nên họ nói tức cười như vậy. Đó là cái sai, mà cái sai của người này dẫn đến cái sai của người khác. Họ tưởng cái hỉ lạc của ngồi thiền theo chánh pháp Phật cũng lâng lâng tầm thường như cái hỉ lạc của người hút thuốc phiện. Đó là cái tầm bậy. Đây là cái xúc tưởng hỉ lạc sanh ra những trạng thái điên khùng đó, họ tưởng đây là đúng thiền của Phật, ai ngờ đâu đó chỉ là ức chế tâm cho không vọng tưởng, rồi do vậy xúc tưởng sanh ra những trạng thái điên khùng đó. Họ chạy theo tâm ham muốn phàm phu tục tử chứ đâu phải là thiền của những bực thánh.

Chúng ta nên trạch pháp câu pháp hướng này để chúng ta đuổi xúc tưởng ra khỏi tâm mà tiến tới con đường nhập Tam thiền. Xúc tưởng là một loại hỉ lạc ma. "Tâm phải bám chặt hơi thở ở tụ điểm, đoạn dứt loại hỉ lạc xúc tưởng tức khắc. Xúc tưởng hãy đi đi, ta không chấp nhận ngươi". Dùng câu pháp hướng đó nhắc tâm chúng ta chấm dứt các trạng thái thích thú đó. Hoặc khi có hỉ lạc ma đó, muốn chấm dứt, chúng ta đứng lên đi kinh hành.

6.- PHÁP TƯỞNG là pháp mà thiên hạ vổ ngực xưng tên, tưởng mình đã tiểu ngộ hoặc đại ngộ. Pháp tưởng là một loại tà pháp do tưởng uẩn tạo ra, nên ngộ lần lần những câu kinh tưởng, những câu công án của thiền Đông độ. Người ngu si mê muội cho đó là trí tuệ phát triển. Họ cho sự hiểu biết đó là tiểu ngộ, khi nào họ ngộ hết những công án thì họ cho đó là triệt ngộ, không ngờ họ đã bị pháp tưởng lường gạt, biến họ thành ma hí luận, tranh luận trong đạo Phật, bởi vì họ dùng những công án hỏi tới hỏi lui, họ la hét như Lâm Tế. Họ bị ma hí luận của họ, cho nên Phật nói họ bị hí luận. Họ nói thế này, nói thế kia, làm như họ là trời, là Phật vậy, coi như người ta không hiểu biết cái ý của mình muốn gì hết. Sự thật, đó là hí luận ở trong đạo Phật. Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết điều đó là giả dối, gạt người chứ không phải là chỗ giải thoát.

Chỗ giải thoát là phải thực, phải sáng, đơn giản, cụ thể, thực tế, áp dụng vào là có sự giải thoát ngay nơi thân tâm của người ta, chứ đâu phải lối lí luận trên trời trên mây xanh đó, đâu phải để la, để hét, để đập, bằng những lời ngắn đó. Đâu có gì mà gọi là Phật, là Pháp, là Thánh ở trong đó, đâu có ý gì sâu xa ở trong những lời ngắn đó. Đó chỉ là những hí luận của kẻ lí luận chơi, chứ không phải là chỗ giải thoát. Thuyết giảng thì mơ hồ, đời sống thì phá phạm hạnh, phá giới luật. Họ nói họ triệt ngộ, họ nói công án này, công án kia, thầy trò đối đáp nhau coi như là không cần dùng trí suy nghĩ, hỏi đông thì đáp tây, không ăn nhập gì hết, thế mà họ  nói đó là ngộ đạo. Bảo họ đi lấy cái thùng thì họ đi lấy cái rỗ, họ gọi đó là vô phân biệt. Họ làm trò cười cho thiên hạ. Nhìn đời sống của họ thì họ phạm giới luật đủ hết: ngày thì ăn phi thời, tối ngủ ngáy khò khò, chẳng lo gì giải thoát, sống thì sống trên nhung lụa, sang cả như những nhà giàu có. Nhìn cuộc sống của họ và lối lí luận của họ thì chúng ta biết họ thuộc loại không giải thoát. Ăn uống, ngủ nghỉ, danh, lợi, sắc, 5 thứ dục lạc của thế gian, họ không bỏ một thứ nào hết.

Dùng câu pháp hướng này để diệt pháp tưởng. Pháp tưởng là một tà pháp, không phải trí tuệ chơn thật của người tu sĩ chơn chánh, ta phải xa lìa nó, không chấp nhận nó. "Pháp tưởng hãy đi đi. Ta không tin ngươi là trí tuệ của đạo Phật. Ngươi hãy đi đi".

Pháp tưởng là pháp tà, là ác độc hại, đã lường gạt người mà còn lường gạt chính bản thân của người ngộ pháp tưởng. Người ngộ pháp tưởng cứ tưởng mình là thánh rồi, tưởng mình là Phật rồi, tưởng mình thấy Phật Tánh được rồi, tưởng mình kiến Tánh thành Phật được rồi, nhưng mà cuối cùng thật sự họ chẳng làm chủ được sự sống chết chút nào.

Cho nên đến giờ phút chết ngài Thường Chiếu cũng đã nói "Ta chết như người thường". Ngài Pháp Loa trước khi chết, rên hừ hừ, ngài Huyền Quang mới hỏi "Sao Hòa Thượng lại rên vậy" thì ngài Pháp Loa nói "Gió thổi qua khe trúc" nghĩa là gió thổi làm các cây trúc phát ra tiếng chứ không phải ngài Pháp Loa rên đau. Ông nói tiếng rên như gió thổi qua bụi trúc làm hai cây trúc cọ nhau phát ra tiếng, thì tiếng rên cũng như vậy thôi. Không đau thì làm sao lại rên, không thọ khổ thì rên được sao. Đó chẳng qua "lấy vải thưa che mắt thánh". Nếu không bị thọ hành thì làm sao rên. Thì đó là ông che mắt người ta chứ không có thực, không gạt người trí được. Cho nên làm chủ được thì nói làm chủ, không làm chủ được thì nói không làm chủ, đừng gạt người, đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Đó là những hình ảnh mà các tổ sư gọi là người ngộ đạo mà cuối cùng cuộc đời của các người này rất là đau khổ.

Người đã ngộ lí thiền Đông độ, đã thấy Phật Tánh mỗi khi gặp nhau thì rống họng lên cải với nhau, tranh hơn thua nhau. Họ thấy người giữ giới luật thì họ nói đó là người cố chấp, họ chê bai những người giữ giới nhưng họ không sống giữ giới được như vậy. Họ chưa ăn một bữa được mà họ chê người ăn một bữa là chấp giới. Hay họ nghe có người nhập được định làm chủ sự sống chết thì họ chê đó là người tu có sở đắc, họ cho sở đắc đó có ra gì, còn họ tu không sở đắc. Đó là những cái khi bỉ. Như ngài Hoàng Bá đi với vị tu sĩ nọ, khi vị tu sĩ đó đi trên mặt nước để qua sông rồi quay lại nói với Hoàng Bá hãy qua bên nay với tôi. Hoàng Bá nói phải như biết ông đi như vậy thì hồi nãy tôi chặt chân ông rồi. Vị tu sĩ đó cười mũi mà khen Hoàng Bá thật là pháp khí Đại thừa.

Hôm nay Thầy nói như vậy để quý thầy biết pháp tưởng nguy hiểm lắm, người nào lọt trong pháp tưởng này rồi thì rống cái họng mà tranh hơn thua với nhau dữ lắm chứ không phải thường đâu. Chúng ta là những người tu theo Phật hãy tránh các lí luận này, ai nói hơn nói thua gì thì chắp tay nói tôi thua chứ tôi không có hơn đâu, tôi ráng giải thoát cho tâm tôi còn không được, chứ không có hơn ai hết. Cho nên có lần về tu viện Thường Chiếu, có thầy bảo Thầy thị hiện thần thông, Thầy bảo tôi tu hơi thở còn chưa xong, chứ có thần thông gì. Tôi thua mấy ông hết, tôi chỉ có hơn mấy ông về hơi thở thôi.

Đó là con đường tu tập, quý thầy phải sáng suốt để lìa xa 6 loại tưởng này. Đến đây dứt phần trả lời cho thầy Thiện Thuận.