
PHẬT GIÁO VIỆT NAM, NGƯỜI TRONG CUỘC NÓI GÌ?
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
Cư sĩ Thích Tịnh Đức
Phần I: Thư ngỏ
Kính thưa quý vị!
Được đạo hữu gửi cho một số tài liệu gồm:
- Cuốn sách "Những chiếc lá trong tay", những bài giảng của Hòa Thượng Thích Từ Thông – Hiệu Trưởng trường Cao Trung Phật học TP. HCM.
- Các bài giảng của Tiến sỹ Phật học – Thượng Tọa Thích Nhật Từ, Phó viện trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP.HCM, Phó Ban Phật Giáo Quốc Tế Trung Ương GHPGVN.
Viết và nói về tình trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay. Qua xem xét chúng tôi thấy:
Hai vị Tăng này nêu rất nhiều vấn đề nhưng đều hướng tới một mục đích: Phật giáo Việt Nam là bản sao của Phật giáo Trung Quốc, mang nặng mê tín dị đoan, không đúng với pháp môn của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đã đến lúc phải quay lại đạo Phật Nguyên Chất (Nguyên Thủy).
Những nội dung trên không có gì mới và không có gì đặc biệt, nhưng đây là tín hiệu tốt, thể hiện sự chuyển biến trong lòng Phật giáo Việt Nam.
Chúng tôi không có ý định tuyên truyền, quảng cáo về hai vị tăng này, nhưng qua đây chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng: cách đây hơn 30 năm vị Thầy kính yêu của chúng ta, đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã đề cập đến vấn đề này và dõng dạc tuyên bố: “Kinh sách Đại Thừa, Thiền tông không phải của Phật thuyết, mà do các tổ Trung Quốc kiến giải, chế ra”.
Sự kiện này đã làm rung chuyển trong giới Phật giáo Việt Nam từ đó cho đến tận bây giờ.
Kinh sách Đại Thừa và Thiền tông không dạy người ta pháp môn tu tập để làm chủ Sinh – Già – Bệnh – Chết. Mà lại dạy người ta cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, cầu tha lực, sặc mùi mê tín. Biến ông Phật thành ông thần, ông thánh, là đấng siêu nhân…
Trong khi đức Phật dạy: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là người dẫn lối”.
Pháp môn của đức Phật vô cùng sâu rộng, nhưng xuyên suốt trong tất cả các pháp môn đó đều tựu trung lại là: Giới – Định – Tuệ.
Giới luật đứng vị trí quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của người tu hành, bởi Giới sinh Định, Định sinh Tuệ.
Không những thế, Giới luật còn quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của đạo Phật.
Trưởng lão dạy “Giới luật còn thì đạo Phật còn, Giới luật mất thì đạo Phật mất”
Chính vì vậy, sau khi tu hành đắc đạo Trưởng lão đã tiến hành ngay việc dựng lại chánh pháp, triển khai ngay lớp giáo dục, đào tạo giới luật đức hạnh và thiền định để chấn hưng lại Phật giáo.
Ngài đã thuyết giảng hàng trăm bài pháp cho các tăng, ni, tu sinh phật tử đến từ mọi miền của tổ quốc. Viết trên ba mươi đầu sách các loại, có loại một tập như: BA MƯƠI BẢY PHẨM TTRỢ ĐẠO, MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO, có loại hai tập như: ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI, VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, có loại bốn tập như: NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY, có loại mười tập như: ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT…
Ngài viết hàng trăm bức thư, kiến nghị, trả lời cho giới chức chính quyền, báo chí, linh mục ngoại đạo, tăng ni, tu sinh, phật tử… về lợi ích của việc tu học theo đạo Phật và những vấn đề có liên quan đến thiên nhiên, đời sống của con người và văn hóa xã hội…
Đúc Trưởng Lão dạy chúng ta: “Trên đời này không có sự việc nào tự nó sinh ra, mà nó đến đều có nguyên nhân cả, gieo nhân nào thì gặt quả ấy, không gieo nhân thì không có quả. Các con đừng nhìn sự việc bằng đôi mắt đúng sai phải trái, mà nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác”.
Từ cư sĩ đến tăng, ni đều phải giữ gìn nghiêm túc giới luật, sống thực hiện ba đức: NHẪN NHỤC, TÙY THUẬN, BẰNG LÒNG, và ba hạnh: ĂN, NGỦ, ĐỘC CƯ.
Để đạt được sự giải thoát, làm chủ Sinh – Già – Bệnh – Chết phải qua đào tạo từ tám bậc học, từ thấp đến cao, gọi là Bát Chánh Đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm kiên trì, nhẫn nại, bền gan, vững chí tu tập thì sẽ có kết quả ngay liền, như lời dạy của đức Phật: “Pháp ta thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy”
Đã có lần chúng tôi mạn phép hỏi Trưởng lão: “Thưa Thầy, đến khi nào thì Phật giáo Việt Nam mới quay lại con đường của Phật giáo Nguyên thủy”.
Trưởng lão trả lời: “200 năm nữa, chính họ phải làm một cuộc cách mạng thì mới có được”.
Quả đúng như vậy, hai vị tăng có chức vụ cao trong Đại Thừa: Hòa Thượng Thích Từ Thông và Thượng Tọa Thích Nhật Từ chính là những người trong cuộc đã bắt đầu cất lên tiếng nói về sự lầm đường lạc lối của Phật giáo Việt Nam. Nói một cách khác, hai vị tăng này đã nổ phát súng đầu tiên báo hiệu cho một cuộc cách mạng về Phật giáo đã bắt đầu.
Tiếng nói của hai vị tăng này càng tôn vinh thêm giá trị về những lời tuyên bố của đức Trưởng lão: “Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không phải là của Phật thuyết”.
Đây chính là mục đích của chúng tôi, chứ không phải là sự tán thán về hai vị tăng này của Đại Thừa, mong quý vị hiểu cho.
Về sách, bài giảng của Hòa thượng Thích Từ Thông và Thượng tọa Thích Nhật Từ chúng tôi không dám có một lời bình luận nào cả, bởi tầm nhìn hạn hẹp của mình, mặt khác để đảm bảo tính khách quan và sự toàn vẹn của tài liệu, chúng tôi xin trích nguyên văn những đoạn nói đến Phật giáo Đại Thừa để quý vị cùng suy ngẫm (phần này do nhóm phật tử thanh niên biên tập).
Tháng 10 năm 2014
Cư sĩ Thích Tịnh Đức.
PHẦN HAI: CÁC VỊ TÔN TÚC ĐẠI THỪA NÓI GÌ
(Trích các bài viết, bài giảng của Hòa thượng Thích Từ Thông và Thượng tọa Thích Nhật Từ).
I.- Hòa thượng Thích Từ Thông:
1.- Trich lược từ sách “Những chiếc lá trong tay”.
2.- Bài giảng tại Tịnh xá Ngọc Phương, ngày 12 tháng 6 năm…
3.- Lễ Vu lan: Những điều cần biết.
4.- Trực diện cái TA.
5.- Vấn đề phóng sanh.
II.- Thượng tọa Thích Nhật Từ:
1.- Đạo Phật Pháp môn và đạo Phật Nguyên chất.
2.- Vấn đáp: Trở về đạo Phật Nguyên chất để phục vụ nhân sinh.
I.- HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ THÔNG
1.- TRÍCH LƯỢC TỪ SÁCH “NHỮNG CHIẾC LÁ TRONG TAY”
THIỀN ĐỊNH
Đối tượng thiền cũng đưa đẩy cho thiền giả vào đường sai lầm đen tối: hoang đường, huyển hoặc và có thể đi đến loạn trí cuồng tâm. Do vậy phải dựa vào Phật mà học thiền, phải dựa vào kinh giáo Phật chánh thống mà tu thiền, phải chọn minh sư có thật tu thật học mới thọ giáo học thiền và tu thiền. Thọ học đúng minh sư, đối tượng thiền không rời lời Phật ý kinh thì không bao giờ có cái gọi là lạc thiền.
Vậy mà, ở vào khoảng thế kỷ thứ mười hai, đời Nam Tống Trung Quốc, vua Tống Cao Tông, niêm hiệu Thiệu Hưng thứ bảy, có một vị được gọi là cao tăng thiền sư, húy Diệu Hỷ, tự Đàm Hối. Ông tự đặt mình là người đứng ra phục hưng và phục hưng thiền phái Dương Kỳ và cực lực đề xướng pháp thiền “khán công án”, “khán thoại đầu”… pháp thiền mới mẻ này cũng thu hút người đông đảo một thời, nhưng kết quả đem lại cho những người ồ ạt chạy theo và tưởng mình là đệ tử Phật thành công gì và thất bại bao nhiêu đố ai mà biết…! Đương nhiên, đề mục tu thiền, đối tượng tu thiền và phương pháp tu thiền hoàn toàn không có trong tam thừa, ngũ giáo của đạo Phật. Vậy xin hỏi cao tăng Đàm Hối Diệu Hỷ ông có bằng lòng, ông là đệ tử của Phật Thích Ca chăng?
Phật Thích Ca, đạo lý của Phật Thích Ca và giáo điển của Phật Thích Ca so với tông phái thiền Dương Kỳ, ông thấy thế nào? Lời Phật, ý kinh chánh thống trong tam tạng giáo điển không đủ sức đáp ứng làm đối tượng thiền ư? Xin Diệu Hỷ Đàm Hối suy nghĩ lại xem. (Ngày 24-10-2011)
TU TỊNH SAI
Người có tâm trạng sầu muộn, ưu tư tràn đầy dục vọng vô minh mà trông mong ước ao, mà… cầu nguyện cho mình ở nơi tận đâu không bao giờ có.
Những tà sư không phải minh sư người ta có thể hướng dẫn dạy rằng: tu Tịnh Độ để nhờ, để cho sau khi chết được vãng sanh Cực lạc. Người ta dạy rằng: Niệm, kêu danh hiệu Phật 10, 15, 20 tiếng đồng hồ thây chết có thể chuyển từ lạnh sang nóng, từ cứng đổi thành mềm… lúc bấy giờ gọi đó là vãng sanh.
Người ta dạy rằng: kêu danh hiệu Phật nhiều, kêu liên tục gọi đó là nhất tâm bất loạn.
Người ta dạy rằng: người trọng bệnh sắp chết, khó chết, hội họp đông người cùng kêu danh hiệu Phật, người bệnh khó chết được chết và được vãng sanh.
Người ta dạy rằng: khi có người chết, hội họp đông đảo lại, cùng nhau kêu tên Phật càng nhiều ngày vong linh người chết chắc chắn vãng sanh. Người ta dạy rằng: nếu thân nhân ai đó qua đời, bổn phận người sống phải thỉnh mời hội họp lại đông đảo, cùng nhau tụng kinh A Di Đà, kêu danh hiệu Phật A Di Đà, cầu nguyện Phật A Di Đà… tiếp dẫn vong linh vãng sanh Tịnh Độ…
Lối hướng dẫn, cách thức tổ chức tu hành như thế, ngoài đường lối VĂN, TƯ, TU của minh sư, chắc chắn không đem lại kết quả thực tiển nào. Những lối tu hành đó tự trình diễn, tự tố cáo sự sai lạc của tổ chức mình trước bàn dân thiên hạ, trước nhẫn quang của người trí. (Ngày 31-10-2011)
GÌ LÀ MÊ TÍN
Mê tín là tin từ ý nghĩ mê muội sai lầm không hợp lẻ thật, nói hay làm theo đức tin sai lầm mê muội ấy không đem lại cho ai chút kết quả tốt lành nào theo ý muốn! Bởi đức tin không phù hợp lẻ thật, không có chân lý.
Tuy nhiên, cũng khó mà nói ra một tiêu chuẩn chung cho tất cả mọi người trong thiên hạ. Tập quán dân tộc chủng tánh khác nhau, căn cơ trình độ nhận thức khác nhau từng mỗi con người. Cho nên vấn đề chánh tín, mê tín chỉ có thể nói trong tôn giáo đạo đức của mình tin tưởng tôn trọng mà thôi.
Thí dụ, về mặt nghi lễ cầu nguyện thế giới hòa bình. Cầu an cho gia chủ hay gia đình gia chủ tai qua nạn khỏi. Cầu siêu cho những vong linh tội lổi sớm được siêu sanh miền Cực lạc. Mai táng người chết lúc không giờ. Linh đình giỗ chạp cúng thất cúng tuần, đốt vàng mã giấy tiền hỗ trợ kinh tế cho vong linh… cúng sao giải hạn để được bình an đầu năm đến cuối năm. Có bệnh không cần uống thuốc chỉ cần khấn nguyện thần linh cứu giúp. Cúng các đảng cô hồn cầu mong mua may bán đắt. Van xin ông bà khuất mặt khuất mày phù hộ đi đứng tàu xe lui tới bình an… đại loại những hình thức và nghi lễ cúng kính, cầu nguyện van xin, khấn vái… như vậy, với nhãn quang của người đệ tử Phật, của những bậc minh sư chân chánh, xem đó thuộc về việc làm mê tín và nếu ai tin tưởng những việc làm ấy đều gọi la thành phần mê tín.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xưa kia, từ lúc ở vương cung, đến khi xuất gia tầm đạo, rồi đắc đạo, rồi giáo hóa độ người, rầy đó mai đây trên dưới 50 năm, trong kinh điển giáo lý của đức Phật để lại không hề có nghe đức Phật thiết lễ lập đàn “cúng kính lễ bái, cầu an cầu siêu, khai quang điểm nhãn, đề phan khai xá, an vị thánh tượng”, v. v… và v.v…, còn nhiều và nhiều lắm không tiện nói hết.
Đệ tử Phật nên nhớ, đức Phật là con người, ý nghĩ, việc làm lời nói của đức Phật nhằm phục vụ cho con người một cách thiết thực, ý nghĩ lời nói việc làm nào không đem lại kết quả giúp ích cho con người trong cuộc sống, đức Phật không hề làm, do vậy NÓI để chỉ bày, để hướng dẫn cho người đệ tử NGHE (văn) rồi SUY NGHĨ (tư) nhận thức, sau khi suy nghĩ nhận thức biết rõ ràng lời dạy của Phật qua suy nghĩ của mình là lẽ thật, người đệ tử Phật khi xác định lẽ thật rồi mới ứng dụng ra VIỆC LÀM HÀNH ĐỘNG (tu).
Theo đạo Phật, lời dạy của bất cứ ai tin, nghe, làm theo mà không đem lại kết quả an vui hạnh phúc cho con người, gọi là mê tín…
Lấy đất sét làm bánh hy vọng có bánh ngon để ăn, lấy cát nấu hy vọng thành cơm thơm dẻo… là những điều không bao giờ có. Người học đạo mà mê tín hoang đường, kết quả cũng y như vậy, cuối cùng chỉ là “tân khổ đáo đầu hoàn tân khổ, bôn ba nhất kiếp uổng bôn ba”…! (ngày 01-11-2011)
“THAN VÀNG VÓ RẮC, TRO TIỀN GIẤY BAY”
“Than vàng vó rắc, tro tiền giấy bay” hai câu thơ ấy của đại thi hào Nguyễn Du trong truyện Thúy Kiều dường như có ý báo cáo rộng rãi với tất cả những ai có đức tin về sự thờ cúng “đạo Ông Bà”, “đạo Khổng”, “đạo Lão” và kể cả những người đệ tử Phật rằng: mê tín dị đoan lý lịch trích ngang của nó, thì nó đã có ngót 500 năm trước đây, từ năm Gia Tỉnh triều Minh ở Trung Quốc. Hồi đó Thúy Kiều đi chơi xuân đã từng thấy và gặp cảnh:
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Than vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.”…
Đọc câu thơ có ý tố cáo đó của đại thi hào Nguyễn Du rằng: tệ hại mê tín dị đoan đã có suýt soát 300 năm trước sau gì đó không ai biết chắc, mà còn năm ba ngàn năm trước kia nữa cũng nên, mà cũng không ai biết chắc. Nói điều này tôi muốn nhắc với phật tử gần xa, với tăng ni trẻ gần xa, với chư thiện hữu tri thức của tôi gần xa trong cuộc học đạo hành đạo tu Phật của mình lỡ mà mình bị rơi vào thành phần người thích cúng kính, lạy lục, khấn cầu mà phải bị đốt giấy tiền vàng bạc, vàng bó, vàng thoi, đầu phướn xá hạc, áo quần, giày dép, nhà cửa, kho lầu, xe cộ,… cũng đừng vội tự ái tự ti. Bởi vì, lỗi không phải ở chúng ta đâu! Truy nguyên ra ai cũng thấy rõ do người Trung Quốc đào tạo. Cứ theo lý lịch trích ngang như trên đã nói thì kể từ năm Gia Tỉnh triều Minh đã có và đại thi hào Nguyễn Du đã chứng kiến qua thi phẩm bất hủ của mình.
Tà kiến, mê tín là thứ virus trong xã hội loài người. Riêng trong đạo Phật của chúng ta, những người đệ tử Phật chân chính tại gia cũng như xuất gia phải học tập nhiều, phát huy văn tư tu tam tuệ học một cách tích cực để đối phó, để điều chỉnh tư tưởng sai lầm ấy và bồi dưỡng phát huy trí tuệ đạt đến đỉnh cao mới hóa giải tiêu trừ được chúng. Tôi xin nói nhỏ với các đồng nghiệp của tôi: Các bạn ơi! Nhiệm vụ vai trò “chấn hưng Phật pháp”, “tục diệm truyền đăng” của hàng tu sĩ chúng ta còn nặng nề lắm các bạn ạ. Bởi vì, như chúng ta đã biết hễ chánh có thì tà có, tốt có thì xấu có, trí có thì ngu có, tối có thì sáng có, ngày có thì đêm có, cho đến khi nào hễ chánh tín còn thì mê tín còn. Thế cho nên, nhân dân Việt Nam vốn không ham gì chiến tranh, vậy mà đến lúc đến thời toàn dân phải trường kỳ kháng chiến mới đánh đuổi thực dân xâm lược đấy bạn.
TỈNH MÊ là chuyện muôn đời…! (ngày 01-11-2011)
HÃY CHỌN… ĐI
Vấn đề CHÁNH TÍN, MÊ TÍN; vấn đề TÀ… CHÁNH… nói chung, nó còn tồn tại và hiện hữu song song như âm dương, nhật nguyệt của hành tinh chúng ta đang sống. Gợi thêm hay gợi lại vấn đề “chánh, mê”, “tà, chánh” dường như đó chỉ là “nói dai, nói dài, nói dở và biết đâu đó chẳng là nói dại dột cũng nên”. Nếu ai đó nghĩ như thế tôi cho rằng cũng có đúng, tôi đành cam nhận hết! Tuy nhiên, tôi muốn nhắn gởi đến các bạn lời nhắc nhở chân tình: HÃY CHỌN… ĐI.
Người xưa nói: “Sĩ, nông, công, thương… tinh chuyên nhất nghệ thành gia” và “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Những lời cổ vũ động viên ấy, thế kỷ thứ hai mươi mốt này, cũng chưa có ai cho là lạc hậu mà những nhà văn minh khoa học thời đại dường như ngầm khai thác và khuyến khích động viên loài người cách làm ăn theo phương thức “phân công lao động”. Khách quan mà nhận xét nguồn kinh tế Việt Nam ta đang ở trong xu thế chuyển biến lên một tầm cao… Đó là kết quả và chỉ mới chập chững thay đổi cách làm theo đường hướng phân công lao động thôi, mà đã được vậy.
Mình đã có chủng tử Phật, tin Phật thì nên học tu theo kinh điển Phật, theo con đường Bát Chánh của Phật, đừng đi con đường nào khác. Đó là tinh thần tinh chuyên “nhất nghệ thành gia” và cũng là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” đó. Hàng ngũ tăng ni trưởng tử Phật, thiện nam, tín nữ là tín đồ, là phật tử chúng ta thử áp dụng cách tu hành theo tinh thần phân công lao động ấy, vừa là phù hợp với chân tinh thần của đạo Phật, vừa là phù hợp với tầm cở văn minh khoa học hiện đại của loài người. Hàng ngũ tăng ni phật tử chúng ta thành thật soi rọi tâm mình khách quan mà nhận thức, chúng ta lỡ lệch lối đi quá xa… quá nhiều… Chúng ta đã trà trộn trong ngành nghề van lạy, cúng bái, khấn nguyện, cầu xin… Chúng ta đã lăn lốc trong ma chay: nhập mạch, tẩn liệm, ngày tốt, ngày xấu, giờ kiết, giờ hung, cúng vong, cúng linh, phát hành, an táng, cho tới mở cửa mả, giải đậu, kéo gà… rồi còn có những pháp lữ sáng tác một ý tứ kỳ lạ: để tránh tai ương… chết chóc cho những người tuổi tý, thầy ra lệnh thí chủ chôn cất thân nhân vào lúc “không giờ” (0h), rõ là sự hiểu biết cổ kim mới xuất hiện.
Chúng ta đã say sưa phát huy năng lực linh thiêng mầu nhiệm của mình, chúng ta đã chú nguyện ít thành nhiều, nhiều thành ít, nhỏ thành lớn, lớn thành nhỏ, giả thành thiệt, thiệt thành giả, cao thành thấp, thấp thành cao,… qua những nghi lễ khai đầu phướn, xá hạt, khai quang điểm nhãn thần thánh, và kể cả điểm nhãn khai quang Phật. Chúng ta đốt vàng mả, đốt hình nhân thế mạng… Làm những việc ấy rõ là chúng ta quên chúng ta là ai, chúng ta học tu theo ai, theo đạo gì? Dường như chúng ta quên hết ráo, mà dường chúng ta “QUAY VỀ NƯƠNG TỰA” quá chí thành Thọ Mai gia lễ của tác giả Hồ Sĩ Tân hiệu Thọ Mai Chu Công gia lễ thời xưa của Trung Quốc. (ngày 02-11-2011)
CHA MẸ CHƯA SANH, TA LÀ AI?
CHA MẸ CHƯA SANH, TA LÀ AI, đặt ra một câu hỏi thật là ngây ngô và vô lý. Người có trí không ai nêu ra câu hỏi như thế. Vậy mà hơn 1000 năm trước vậy mà có người đã đặt ra và đã sủ dụng cái chót lưỡi dễ cong, cái vành môi dễ uốn dụ dỗ mê hoặc người nhẹ dạ dễ tin, họ tạo cho mình một hào quang tôn giáo, cũng xây dưng cho mình một cơ ngơi sự nghiệp với danh nghĩa là người đệ tử Phật, họ thay thế Phật tự đặt cho mình một vai trò giáo đạo quần sanh với một danh xưng truyền thống trong đạo Phật được nhiều người tôn trọng: Thiến sư. Bằng quý hiệu Thiền sư ấy, họ tự đặt mình xiển dương thiền đạo cho một giáo phái cũng được gọi là thiền, một loại thiền không VĂN không TƯ và đương nhiên không dựa vào chánh kiến để TU tập.
Để ra một ít tư duy, người trí ai cũng thấy rõ sự ngây ngô của câu hỏi “cha mẹ chưa sanh, ta là ai?”! Cha mẹ chưa sanh thì làm gì có TA? Ta đã chưa có, không có TA thì có cái từ AI để hỏi cái gì? Rõ ràng là ngây ngô vô lý, vậy mà mệnh danh với tôn hiệu Thiền sư người ta đã bắt buộc, đã dạy dỗ cho những số người nhẹ dạ dễ tin gọi là “ngồi thiền” để tưởng để tìm nghĩa trong câu hỏi không bao giờ có nghĩa. Rồi người ta đặt cho thiền phái ấy là thiền “KHÁN CÔNG ÁN” “THOẠI ĐẦU”! Phái thiền này tự cho mình là phát huy để khôi phục dòng thiền cũng không tương quan với đường lối tu học Văn Tư Tu của đạo Phật là phái thiền Dương Kỳ, một phái thiền truyền thừa bằng cách: Đập, đánh, kéo, lôi, thoi, thụi, tát, hét, mắng, nhéo mũi, nhéo tai…
Là một thiền sư đệ tử Phật chánh thống ai cũng học thiền quán, có thể nói như bài học vỡ lòng cho các thầy Tỳ kheo về những đối tượng thiền như Tứ Niệm Xứ… Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ đề phần… những pháp thiền ấy đều dựa theo sự hướng dẫn chỉ giáo của lời Phật ý kinh và của minh sư truyền trao dạy bảo.
Ngồi trân, ngồi sửng để TƯỜNG để TÌM ý nghĩa của một câu hỏi không hề có nghĩa… Ai là đệ tử Phật khách quan vận dụng văn, tư, nhận thức phân biệt, rồi xét lại thử xem… ?
Có thơ rằng:
Thiền ngồi tim tưởng những gì đây?
Mòn lẳn xương khu mông đít chai!
Thiền bởi óc tim, không ở đít!
Hành hạ bàn tọa, nghĩ thương ai…!
LÀM SAO BIẾT THẾ NÀO LÀ ĐẠO PHẬT GIẢ
Đạo Phật không thật – nói cách khác là đạo Phật lai căng, có nhưng biểu hiện tha lực chủ yếu và phổ biến như:
- Cầu nguyện thế giới hòa bình
- Cầu nguyện quốc thái dân an
- Cầu nguyện bá tánh an cư lạc nghiệp, hạnh phúc, giàu sang
- Cầu mưa thuận gió hòa
- Cầu vongg hồn siêu sanh Cực Lạc
- Thậm chí cầu Diêm Vương, quỷ sứ nới tay…
- Và tất những quà cáp cúng kính để làm điều kiện cầu xin.
Những điều như vậy là biểu hiện của đạo Phật không thật. Bởi vì, đức Phật xưa kia không hề làm, vì có làm cũng chắc chắn không hề đem lại kết quả gì…! (Ngày 07-11-2011)
LÀM SAO BIẾT THẾ NÀO LÀ NGOẠI ĐẠO?
Câu hỏi: Làm sao biết thế nào là ngoại đạo?
Đáp câu hỏi này, cũng như người nghe đáp cần có một tâm trạng lóng lặng nhẹ nhàng và một ý thức bình tỉnh khách quan mới có thể nhận thức vấn đề và lẽ thật qua lý trí trong sáng của mình.
Thí dụ:
- Tu Mật tông, TRÌ CHÚ để cầu đảo mưa thuận gió hòa, cầu đảo tật bệnh tiêu trừ, cầu đảo kinh doanh phát đạt, gia đạo bình an… thư bùa… yếm đối…
- Tụng kinh Phổ Môn, lạy Dược Sư sám pháp, Lương Hoàng sám pháp, Từ Bi Thủy sám pháp… rồi nguyện đem công đức ấy cầu an cho thí chủ bệnh tật tiêu trừ, tội diệt phước sanh…
- Tụng kinh A Di Đà cầu siêu sanh Tịnh Độ… tụng kinh Địa Tạng cầu siêu sanh Tịnh Độ giá trị cao hơn…
- Cúng sao giải hạn, cúng tam tai, coi giờ chôn cất…
- Vớt vong dưới nước, rước hồn phách trên bờ, thiết lập trai đàn đưa hồn về Tây Phương Cực Lạc…
Đó là kể đại lược những điều, những việc làm của Tăng, Ni, phật tử đến chùa tổ chức cúng bái cầu nguyện, khấn khứa.
Những việc làm đó, thành phần đó, đạo Phật xem họ là ngoại đạo vì sự tu hành cũng như học tập và hiểu biết của họ hướng ngoại và mong cầu. (Ngày 08-11-2011)
KINH
Biết Phật, hiểu Phật, tin Phật đúng cách, đúng người, đúng lý đã là khó. Biết pháp, biết nguồn gốc kinh pháp, biết học kinh pháp, biết nhận thức kinh pháp, biết chỗ chuyển giao, biết đường du nhập, biết người dịch thuật, biết kinh nào chánh giáo, kinh nào tà giáo, kinh nào là lời Phật, kinh nào là ngụy tạo của ngoại đạo tà sư là điều khó khăn, hết sức khó khăn không đơn giản chút nào.
Kinh Phật đương nhiên từ Ấn Độ truyền sang và chúng ta biết kinh điển có mặt ở Trung Quốc sau Phật nhập diệt trên dưới 10 thế kỷ. Thời gian đăng đẳng ấy, cây Phật giáo đố ai biết nó nảy nở sanh bao nhiêu nhánh lá, chồi, tược… Do vậy, kinh điển giáo lý Phật giáo trong thời gian dài gần ngàn năm ở Ấn Độ, ai dám tự hào rằng kinh mình tin, của mình chọn là chánh thống lời Phật nói ra, của ai là không chánh thống, của tà giáo, của ngoại đạo?
Xin mượn ít dòng lý lịch trích ngang nhắc lại về Trung Quốc, cứ phỏng theo lịch sử thì kinh Phật từ Ấn Độ và các sư tăng Ấn Độ có mặt tại Trung Quốc vào thời điểm niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, tức năm 67 Tây lịch, đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, rồi lịch sử theo dòng trôi từ đời Hậu Hán, Tam Quốc, Tây Tấn, Đông Tấn… chảy dài đến đời nhà Minh thì kể đã mười lăm thế kỷ có dư.
Phật giáo Việt Nam gắn bó chặt chẽ với Phật giáo Trung Quốc cho đến ngày nay tính ra đã trên dưới hai mươi thế kỷ, kinh điển của Phật giáo Trung Quốc cũng như kinh điển của Phật giáo Việt Nam dựa vào đâu để căn cứ, để đảm bảo kinh điển nào là chánh thống?
ĐẠO PHẬT CHÁNH THỐNG KHÔNG CÓ MẬT GIÁO
Trên dưới năm mươi năm đức Phật truyền đạo hướng dẫn cho mọi người cũng thành tựu được đạo quả tự lợi lợi tha, tự giác giác tha như mình. Những năm tháng dài ấy người ta gọi là đức Phật truyền bá chánh pháp.
Truyền bá chánh pháp, Phật chỉ nói những điều, những phương pháp mà ai nghe cũng hiểu được, cũng làm được. Những gì người ta nghe không hiểu được, vượt ra ngoài khả năng thực hiện của con người, những điều ấy không có trong đạo Phật.
Ngôn ngữ văn tự gọi là thần chú của Mật tông hay Mật tông là những thứ ngôn ngữ văn tự con người không nghe được, không hiểu được, không ứng dụng thực hành gì được mà còn biểu hiện hành động có tính chất siêu hình. Miệng tụng chú lâm râm như hiệu triệu thần linh, tay múa may ấn quyết như sai khiến quỷ ma, kêu gọi âm binh… đạo Phật chánh thống không chấp nhận những lối gọi là tu hành như vậy.
Căn cứ theo lịch sử truyền thừa, truy nguyên nguồn gốc Mật giáo: từ Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc, dịch thuật và truyền bá Mật tông do nhóm Khai Nguyên tam đại sĩ, được người Trung Quốc tôn xưng: Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí, Bất Không; vào thế kỷ thứ VIII đời vua Đường Huyền Tông niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (năm 719 tây lịch), sau Phật những 13 thế kỷ. Tông này chuyên cầu đảo mưa gió và nguyện cầu quốc thái dân an…
Sự cầu đảo và cầu nguyện này không lừa bịp được sự thật. Vua Đường Huyền Tông và Khai Nguyên tam đại sĩ bị An Lộc Sơn tạo phản đánh đuổi chạy tơi bời mà không cầu nguyện cho mình và chế độ bình an được.
Tôi có thể xác định thẳng thắn rằng đạo Phật chính thống không có Mật giáo hay Mật tông. Tôi nói như thế không có nghĩa tôi chống báng hay kỳ thị Mật giáo hay Mật tông; miễn là đừng có nói những kinh những chú của Mật tông là Phật dạy. Tự do tín ngưỡng là việc của mọi người trong xã hội, không ai có quyền ngăn cản cấm đoán chỉ xin đừng gán ghép những điều Phật không nói mà bảo là của Phật. (Liễu Liễu Đường, ngày 24-11-2011)
2.- BÀI GIẢNG TẠI TỊNH XÁ NGỌC PHƯƠNG NGÀY 12-6-2011
Câu hỏi: Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12, trang 338 có nói thân gái có năm điều chướng: một là chẳng đặng làm Phạm Thiên Vương, hai là chẳng đặng làm Đế Thích, ba là chẳng đặng làm Ma Vương, bốn là chẳng đặng làm Chuyển Luân Thánh Vương, năm là chẳng đặng làm Phật. Nhưng khi Long Nữ cúng hạt châu báu, Phật liền họp chúng cho thành Phật.
Con không hiểu ý đó là sao, mong Thầy giải đáp.
Trả lời: Cái này là vọng ngữ. Thân nữ mà không được làm Phạm Thiên Vương. Phạm Thiên Vương này là ai? Là người như thế nào? Cho đến bây giờ, tôi xin thưa với toàn thể các vị, chúng ta phải suy gẫm. Chớ chúng ta cứ nghĩ rằng Phạm Thiên là cái người ở trên mây, thiệt là cao xa, coi chừng chúng ta lạc vào hoang đường, huyễn tưởng.
Nghĩ rằng Phạm Thiên Vương là phải ở trên xa, trên cao chỗ nào, là hoang đường, là huyển tưởng rồi!
Mà tôi nghiên cứu một số kinh điển, chữ Thiên là trời. Phạm Thiên hay Đại Phạm Thiên là người xưa, thời đức Phật tại thế, những giai cấp quý tộc người ta tự coi là những người trời. Do vậy mà những người đó họ nắm quyền bá chủ một nước, một vùng gọi là con trời.
Nhân đây tôi cũng nhắc, qua mấy mươi năm nghiên cứu tôi phủ định tất cả các cõi trời: Sắc, vô sắc… do vậy tôi làm bài thơ:
Trong khói bình minh, ngỡ sập trời
Khói mây, mây khói giống in nhau
Mây cao, khói thấp, trời vô xứ
Thập thiện nơi nao, ở đấy trời
Tôi nói người nào tu thập thiện, người ấy trời. Cõi nào tu thập thiện, cảnh giới nào tu thập thiện cảnh ấy trời.
Do vậy chữ Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương nào đó các vị đừng có tin.
Chỗ nào có người tu thập thiện chỗ đó có người trời, cũng như chỗ nào có người giác ngộ chỗ đó có Phật. Chớ quý vị lạy Phật Đồng, Phật Ngọc, Phật Vàng, Phật gì đó lớn bao nhiêu, cao bao nhiêu… nọ kia, không có Phật ở trong đó đâu.
Còn cái tượng Phật bằng ngọc, giống như Việt Nam mình cũng mướn Phật ngọc về để lạy đó, ở đây Việt Nam mình mướn mấy chỗ để cho bá tánh lạy đó, đó. Làm như vậy là uổng công, làm gì trong Phật ngọc có Phật, hay là Phật đồng, Phật xi măng, Phật đá hoa cương… không có cái nào có Phật hết.
Còn nói là hoàng hậu Maya sau khi sanh đức Phật bảy ngày thì mất, lên cõi trời Đao Lợi. Phật đắc đạo rồi lên cung trời Đao Lợi mà thuyết pháp cho hoàng hậu Maya nghe. Huyễn hoặc, hoang đường, người ta đặt ra, đừng có nghe cái đó.
Phật đi hồi nào, đi với ai. Rồi trong sách nói vua nhớ Phật quá mới sai 32 người thợ lên đó để tạc tượng Phật đem về cho vua đỡ nhớ. Đi bằng gì, Phật thì có phép, còn 32 người thợ là thợ hồ, thợ chạm, thợ điêu khắc thì đi bằng gì?
Cho nên những cái đó, bây giờ với cái đầu của tôi hơn sáu mươi năm học đạo, hành đạo và nghiên cứu, ba cái đồ đó tôi bỏ sạch, nói láo.
Phật không là người huyễn hoặc hoang đường vậy. Phật là người giác ngộ chân lý, thế gian vô thường, vô ngã, sanh diệt.
Các vị không có lựa được cái nào là lời Phật nói, cái nào là của tà giáo ngoại đạo nói. Do vậy cho nên nhiều phật tử ngày nay, kể cả hàng tăng ni cũng nhiều người không lựa được, không có khả năng lựa.
Các vị nên nhớ, kinh điển Đại Thừa là sau Phật hai trăm năm, lần kết tập đó là sáu chục ngàn tu sĩ mà vua lựa ra còn một ngàn người mà thôi. Mà người nghe trực tiếp đức Phật thì không còn đó nữa rồi. Do vậy kinh kết tập, có Đại Thừa và Tiểu Thừa đó là cách Phật 200 năm mới có.
Do vậy chữ Đại Thừa mà quý vị quý trọng, tôi cũng là người học trong Tạng Đại Thừa đây, nhưng mà không phải cái gì trong kinh Đại Thừa cũng đúng.
Nói rằng người nữ chẳng đặng làm Phạm Thiên Vương, chẳng đặng làm Đế Thích, chẳng đặng làm Chuyển Luân Thánh Vương… là cái đám này nó đặt ra. Trọng nam, khinh nữ đặt ra. Cho nên kinh Pháp Hoa tôi cũng bỏ luôn.
Nữ mà giác ngộ cũng thành Phật, bởi nữ cũng là con người, mà con người là có khả năng giác ngộ thành Phật.
3.- LỄ VU LAN – NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT – MỤC KIỀN LIÊN BÁO HIẾU
Học Phật là phải học kỹ chứ học Phật lơ mơ rồi trùm áo, cạo đầu rồi đi tụng kinh đám, cầu an, cầu siêu để lấy tiền; cái đó không phải là đạo Phật.
Trở về với cái bài Mục Kiền Liên nhớ mẹ. Cái bài này hổng biết cách nào mà viết vô trong sách Phật. Tôi có nhãn quan của tôi, tôi có đầu óc, trí óc của tôi. Cho nên là anh viết trật là tôi hổng chịu. Bất cứ là ông đó viết cách đây bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm!
Dựa vào đâu tôi dám nói ngang tàng như vậy, có trúng cái gì không?
Bởi vì Phật hồi tại thế, Phật dạy là văn tư tu, gọi là tam huệ học. Bất cứ ai viết cái gì, ai nói cái gì, ai dạy cái gì, mình có quyền nghe rồi học mà trong cái học với cái nghe đó có sự lựa chọn. Nếu người ta nói có cái gì sai thì mình lựa ra rồi mình bỏ hà. Cái gì hay là mình phải học. Mà học thì đừng bao giờ ngán, học, học nữa, học mãi. Chúng ta không bao giờ ngán việc học, nhưng không phải ai viết cái gì cũng học, ai nói cái gì cũng học. Cho nên kinh điển gọi là tam tạng nhưng tôi có quyền nhận thức bằng cái nhãn quang, tuệ quang, bằng cái trí nhận thức của tôi. Cho nên tôi có quyền là không nghe, phủ định những cái gì đó. Mà tôi bỏ chùa tôi đi cũng là tại vấn đề Mục Kiền Liên cứu mẹ.
Năm nào cũng cúng đại hiếu Mục Kiền Liên, năm nào cũng cầu siêu. Năm ngoái thí chủ vô gửi bốn cái tên ông bà, năm nay đem đến cúng nữa cũng gửi bốn cái tên nữa, rồi năm tới nữa cũng gởi bốn cái tên đó rồi thỉnh thoảng có thêm ông bà, cha mẹ gì đó quá cố thì thêm vô một cái tên. Thế thì tôi mới thấy ủa sao kỳ zậy, năm nào cũng lãnh vải, năm nào cũng lãnh tiền, năm nào cũng lãnh đồ ăn ngon lành. Mà cái kinh Vu Lan nghe lôi thôi lắm nha. Đòi ăn nghe mắc cở lắm nha. Đòi giường, đòi chõng, đòi quần, đòi áo, đòi đồ ăn ngon cho bằng tận thế để mà đem cúng dường. Sao mà năm nào cũng ăn vậy, cũng nhận quà vậy, cũng tụng vậy, cũng đại hiếu Mục Kiền Liên vậy mà mấy cái vong của người ta sao đây. Năm ngoái cũng chú nguyện cho 7 cái vong đó, năm nay cũng chú nguyện cho 7 cái vong đó. Họa hoằn lắm có người nào đó thêm một cái vong thôi, vậy thì bao năm rồi mình nhận mình làm cái gì cho người ta? Nếu mà vãng sanh Cực Lạc thì đã phải vãng sanh rồi. Còn không vãng sanh thì mình đặt vấn đề cầu siêu làm chi. Cho nên tôi thấm thía tôi nghiệm ra cái nay không được. Tôi bỏ chùa tôi đi. Bỏ chùa đi kể từ đó là không làm đám nữa cho tới bây giờ.
CẦU CÚNG
Bởi vì cái vụ cầu an, sao người ta cúng vải dữ vậy nè, rồi cúng tiền, cúng đồ ăn mà mình cầu, năm ngoái mình cầu rồi. Năm nay lại cầu nữa à. Có nghĩa là mình cầu không được chứ gì. Mà cầu không được cớ sao lại đòi đồ ăn?
Kinh Vu Lan Bồn là đòi đồ ăn, đòi đồ mặc, đòi đồ cần dùng dữ lắm. Tôi nghe cái đó hổng được. Mà kinh Vu Lan Bồn năm nào cũng vậy. Mùa Vu Lan báo hiếu, cái chữ đó đối với tôi là không ổn. Hổng có mùa báo hiếu gì hết. Báo hiếu không đợi mùa. Thực sự người báo hiếu không đợi mùa.
Tôi biết nói cái này đụng chạm dữ lắm. Phật tử cúng dường phải đợi lễ Vu Lan mới được. Và cái lễ Vu Lan không gọi là mùa báo hiếu. Nhưng đó là cái tập quán lâu đời người ta bày ra, mỗi năm người ta bày ra thêm một cái sai lầm. Và người ta bày ra cả ngàn năm rồi, chồng chất lên cả ngàn, cả ngàn vấn đề trong đó. Cái mùa báo hiếu rồi mua vàng mã về đốt. Ôi ông già tôi hồi xưa cũng vậy, tháng 7 cứ đi mua giấy tiền, vàng mả rồi mua cái khuôn gọi là tiền vãng sanh. Tiền đó có cái chú vãng sanh: Nam mô a di da bà dà tát bà ha đó. Đốt tiền vãng sanh, rồi đốt quần áo. Ông già tôi năm nào cũng đốt. Kiếm vải đen, vải đỏ, rồi viết tên từng người rồi đốt. Bởi vì trong sách Tàu gọi ngày rằm tháng 7 là ngày Địa quan xá tội. Tức là diêm vương, quỷ sứ ở dưới âm phủ xá tội cho nên là mua giấy tiền, giấy áo, giấy mũ. Có người mướn ông thầy cắt quần, cắt áo rồi đốt. Rồi giấy tiền vàng bạc đốt, giấy tiền vãng sanh đốt. Rồi làm nhà kho, nhà lầu đốt cho vong nhân.
Tôi nói đừng có tin, đừng có tin ngày lễ Vu Lan địa quan xá tội gì đó, ai mà tin cái đó hổng phải đệ tử Phật thiệt đâu. Hổng có địa quan nào lại diêm vương quỷ sứ gì hết. Hổng có xá tội. Quyền gì mà anh xá tội người ta. Còn thằng nào mắc tội, ghi sổ mà đem báo cáo với anh, bắt anh nhốt người ta, rồi ngày này anh xá tội là lý do làm sao. Cho nên cái đó hổng có trúng. Phật tử đừng có sợ.
Mà ăn chay, tại sao phải ngày rằm mới ăn chay, thế những nước người ta theo dương lịch thì sao. Mà nếu lỡ không ăn chay ngày rằm phạm lỗi nhiều hơn ngày thường là sao? Cho nên mấy cái đó dạy trật lất. Cái đó không phải là dạy kinh đâu. Dạy cái đó là dạy tập quán, mê muội của người bình thường, người ta tưởng tượng ra, người ta đặt ra, người ta sợ hãi.
Cho nên cái vụ Mục Kiền Liên này nói nhiều lắm, tương quan nhiều lắm. Ngày lễ gọi là Vu Lan báo hiếu này nói ra đụng chạm dữ lắm. Mà nó đụng chạm nhiều kinh sách lắm. Thành ra giờ cũng không muốn nói nữa. Nói ra bản thân mình thiệt thòi. Bạn đạo thì hổng mấy người hoan nghênh, tăng ni nghe thì phát ghét. Chỉ vì cái lý tưởng giải thoát, giác ngộ, công lao của đức Phật vất vả quá, tu hành truyền bá 80 năm, vừa tu, vừa hành, vừa làm đạo 80 năm mà bây giờ mình biết hổng nói thì là bất nhân. Cho nên nói để hi vọng rằng có ai nghe người ta có thể điều chỉnh lại cái nào sai lạc người ta bỏ đi. Để cho cái việc làm nó không phí công phí sức, phí tâm hồn tốt. Tất nhiên là khó nghe.
DUYÊN HỢP
“Ngũ uẩn duyên sanh tính tự không. Mẹ ơi thân mẹ uẩn nào sanh, chứ thân ngạ quỷ duyên gì hợp”.
Ngũ uẩn duyên sanh tính tự không, Sắc uẩn từ động vật, thực vật, khoáng vật, phi vật đều là cáitính duyên sanh hết. Không có thứ nào mà tính tự sanh hết. Thực vật cũng duyên sanh, khoáng vật cũng duyên sanh, động vật cũng duyên sanh, phi vật cũng duyên sanh. Mà duyên sanh nghĩa là vô ngã, tự nó không có gì hết. Là duyên đó mà. Thí dụ cây đàn cò phải có cái ống là cây trắc, thêm cái duyên nữa là miếng da tranh, rồi chất keo. 3 duyên rồi đó. Rồi muốn cho nó thành cái ống đàn phải bao nhiêu cái đục cái bào, cái cưa cái lọng. 5, 7 cái duyên rồi đó. Rồi còn cái cây cần đờn cao cả thước cũng bằng cây trắc, cây lim, cây gỗ gì đó. Là 8, 9 duyên rồi đó. Rồi còn 2 cái trục đờn phải tiện, rồi cây cung đờn bằng cái cây mây, rồi phải uốn éo phải nhờ lửa hơ cho nó cong cong để thành như cây cung vậy. Rồi cần phải có cái dùi để khoan nữa. Rồi mới cuối cùng đưa ra những cái lông đuôi ngựa để làm cái cung đờn ghép vô cho có cái gọi là con ngựa để giữa mặt đàn và hai sợi dây. Chưa hết còn có nhựa thông gọi là thông đờn. Chưa hết còn nhiều nữa, nói không hết đâu. Đại để là 20 cái điều kiện trở lên gọi là cái duyên sanh hợp lại thành cây đàn cò. Tự cây đàn cò nó không là cái gì hết. Ở trong hư không nó không bao giờ có cây đàn cò, ở trong cái đục, cái cưa, cái bào cũng không có cây đàn cò, ở trong cái anh thợ cũng không hề có cây đàn cò. Vậy mà nhân duyên tác động, tác động tương quan qua đi, qua lại nó thành cái cây đàn cò.
Đó là nói về cái cây đàn cò, còn nói về cái thân ngũ uẩn của mình cũng vậy đây nè. Nói không bao giờ hết. Cái thân ngũ uẩn là duyên sanh, tự nó là không có cái gì hết. Cái tánh của chiếc xe hơi, vệ tinh… cũng tự nó không có cái gì hết. Là do người ta làm ra từ nhiều thứ không biết bao nhiêu tên. Vậy thì cái thân ngũ uẩn là tính tự không, vậy thì thân mẹ Mục Kiền Liên này uẩn nào sanh?Đấy người ta đồn mẹ Mục Kiền Liên chết thành ngạ quỷ. Đây là chỗ sai lầm ghê gớm lắm đó. Đạo Phật đâu có chấp nhận chết rồi có cái gì đó để thành ra cái con ngạ quỷ, thành mẹ Mục Liên ư? Hổng có đâu, hiểu cái đó là tưởng tượng sai lầm rồi. Sắc uẩn trả về cho vật chất, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trả về cho tinh thần. Hay nói đúng cách: sắc uẩn trả về cho phần thân, thọ tưởng hành thức trả về cho phần tâm, phần vật chất phần tinh thần, phần hữu sắc phần vô sắc, thế thì đâu trả về đó hết rồi. Vậy thì cái thân quỷ đói, cái thân ngạ quỷ là cái gì sanh? Cái gì sanh ra thân mẹ Mục Kiền Liên. Đó thiền định đi các tăng, ni trẻ, thiền định thử coi rồi phật tử nếu mà chịu học thì thiền định thử coi, coi cái thân ngạ quỷ là cái gì sanh.
Cho nên không có cái thân ngạ quỷ vậy được. Mà ngạ quỷ như tôi đã nói, chính cái thân của mình đây nè, có lúc nó là cái thân địa ngục, có lúc nó là cái thân ngạ quỷ. Cái thân ngũ uẩn của mình đây nè. Cái lúc mà mình thèm thuồng mình dục vọng, mình tham muốn cùng cực, mình khổ đau mà nó không đáp ứng được yêu cầu đó rồi tâm sầu thì cái đó là cái khổ ngạ quỷ đó. Là ngay con người mình còn đây, chứ không phải là đợi chết rồi có một cái gì thành ra con ngạ quỷ nói như trong kinh Vu Lan.
Cái kinh đó là tôi cho rằng người ta viết ra sau này, lúc nào đó thì tôi hổng biết. Nhưng mà tôi không chấp nhận kinh đó. Cho nên tôi bỏ chùa tôi đi là vậy đó. Bởi vì nói đòi ăn đồ ngon rồi chú nguyện cho người ta. Đâu có được. Đạo Phật không có chú nguyện gì hết. Ai ăn nấy no. Đích thân người đó ăn, anh đói thì người ta cho đồ ăn anh phải ăn, anh bệnh người ta cho thuốc anh phải uống này, anh mua sách nữ công anh phải đọc, học thuộc, anh phải nấu này. Anh là con của nhà bác học nhưng mà anh phải học. Nhà bác học đó làm lấy tiền để cho anh vô trường ăn học rồi anh mới thành nhà bác học. Anh có thể bằng nhà bác học như cha anh và thậm chí anh có thể hơn. Nhưng anh phải học chứ không thể cha anh cho anh được. Thế thì đạo Phật làm gì mà có cái vụ chú nguyện cho cái thân ngạ quỷ tan đi, hết liền cái rồi sanh lên cõi trời. À nói như vậy mà nghe được là sao. Mà cõi trời là cõi nào chứ. Theo ý của các vị, các vị tưởng tượng trời là cái gì. Riêng tôi tôi đã làm cái bài thơ về cõi trời rồi:
Trong buổi binh minh ngỡ sập trời
Khói mây, mây khói ngỡ in nhau
Mây cao khói thấp trời vô xứ
Thập thiện nơi nao, ở đấy trời.
Ở chỗ nào mà có người tu thập thiện, mà có con người cải tạo thân tâm khẩu ý là hưởng phước báu an lạc của người trời và chỗ ở của người đó là trời đó. Chứ trời đâu phải ở trên mây. Trên mây đó là bầu khí quyển. Trời không phải ở trên cao, trên xa mà ở cái tâm tu thập thiện của con người đó. Đấy kinh điển người ta nói vậy mà mình nghĩ trời là cái ông gì ở đâu, đâu có được. Còn cái ông pháp sư nói trời với ngạ quỷ do hóa sanh ra, ông đấy nói bậy đó. Ông giảng tầm bậy để bảo vệ cái lý lẽ sai lầm của ổng. Cho nên cái đó hổng được.
Mẹ ơi, thân mẹ uẩn nào sanh? Câu đó tự trả lời, nghĩa là không có uẩn nào sanh ra ngạ quỷ. Nghĩa là mẹ Mục Liên không thể thành ngạ quỷ bằng cái hồn gì đó được hết. Kinh Phật không chấp nhận lý thuyết có một linh hồn đi thọ vui hay đi chịu khổ như mẹ Mục Liên được. Giáo lý chưa học thuộc mà giảng kinh Phật, viết sách Phật sai trật lất hết. Phật tử tại gia, tăng ni trẻ lưu ý bởi vì dù gọi là kinh nhưng mà người ta ngụy tạo thì cũng khó mà biết được nếu không học kỹ. Cho nên gọi là kinh điển nhưng người ta ngụy tạo lâu đời lắm rồi. Thậm chí không phải do cố ý ngụy tạo mà do hiểu biết không đúng rồi người ta soạn, người ta dịch, ngươi ta phóng tác sai lầm thì điều đó người phật tử muốn đi con đường đạo Phật thì phải nghiên cứu, phải nhờ minh sư người ta hướng dẫn thì mình tu mới có kết quả. Còn không thì nhất manh dẫn quần manh, một người đui dẫn ngàn người đui là nguy hiểm lắm đó. Thôi thì tạm dừng ở đây, coi như đã nhắc nhở cái gì cần nhắc nhở, còn ai chịu nghe thì nghe, hổng chịu thì thôi. Đừng có buồn, có giận gì hết. Xin chúc an lạc và khách quan mà suy gẫm. Mô Phật.
MÙA VU LAN
Hiện giờ cái mùa này là cái mùa Vu Lan báo hiếu trong ba tháng an cư kiết hạ của tăng ni, trong ba tháng cúng dường của phật tử, siêng năng tinh tấn, cầu nguyện, lạy lục, cúng dường rất dữ. Cái mùa này phát triển về mặt đó. Do vậy cái đầu đề hôm nay tôi muốn nói là các phật tử tại gia hãy để ý cái mùa này. Cái mùa Vu Lan nó phát triển hoang đường, nó phát triển hoang tưởng, nó phát triển mê tín dị đoan rất dữ ở trong cái mùa này. Tôi biết là nói cái điều này khó nghe. Phát triển rất dữ, mà tôi nói ra một câu thôi là nội đây có nhiều người rất không bằng lòng. Nghe là không thích, cái mùa này là cái mùa cúng cô hồn rất dữ. Cúng Phật cũng nhiều, cúng tăng cũng nhiều, nhưng cúng cô hồn là nhiều hơn hết. Sĩ, nông, thương ai cũng cúng cô hồn hết.
Nhưng tôi chỉ hỏi một câu thôi là các vị sẽ bất bình với tôi liền. Hôm nay ai là người có thể trả lời được. Cô hồn là con ai? Tía của cô hồn là ai? Má của cô hồn là ai? Sanh tại bệnh viện nào? Nội đây không có vị nào trả lời được. Nếu nó không có tía, không có má, không có ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì nó từ đâu sanh mà có mà có cái loại cô hồn. Câu đó thôi mà trả lời không được. Vậy mà nội đây gần như có cúng hết. Vậy thì cái cúng đó không phải là cúng hoang tưởng thì là gì. Lạy lục, van xin cái thứ mà không bao giờ gặp. Từ vô tiền khoáng hậu, ông bà cha mẹ, tổ tiên ta cũng không ai gặp cô hồn. Cũng không ai gặp tía, má cô hồn. Vậy mà ai cũng cúng cô hồn, cầu nguyện van xin người ta giúp đở là sao. Nếu nó có khả năng giúp đở cho người khác sao nó không giúp đở nó để nó ăn xin, nhờ ông thầy này bà sư kia lại cúng nó nó mới có cái ăn, bằng không là nó chết đói. Vậy thì nó hay cái chỗ nào mà nó giúp đở cho mọi người mà mọi người phải cúng nó để cho nó phát triển trong cái mùa Vu Lan tháng 7 này. Cho nên chỉ đơn giản như vậy mà phật tử không đặt câu hỏi và không trả lời được. Mà các vị tự thấy là an tâm khấn nguyện, lạy lục cô hồn là sao? Đấy ai trả lời đi.
Học đạo phải suy nghĩ. Đệ tử Phật Thích Ca phải theo Phật Thich Ca chứ.
Các vị không nên tin rằng ở dưới đất này, ở trong lòng đất là địa ngục của Diêm vương. 10 cái tên Diêm Vương, quỷ sứ gì đó đều là ngoại đạo tà giáo đặt ra để họ hù các vị đó. Nhất điện: Tần Quảng Vương, Nhị điện: Sở Giang Vương, Tam điện: Tống Đế Vương, Tứ điện: Ngũ Quang Vương, Ngũ điện: Diêm La Thiên Tử, Lục điện: Biện Thanh Vương, Thất điện: Thái Sơn Vương, Bát điện: Đô Thị Vương, Cửu điện: Bình Đẳng Vương, Thập điện: Chuyển Luân Vương. Đó là cái loại đặt để hù dọa, để móc túi bá tánh bổn đạo những người nhẹ dạ cả tin. Chứ không có thập điện diêm vương nào hết. Cũng như trên đó không có tầng trời nào. Không phải kinh sách của đạo Phật nói vậy, nhưng mà cái đó phải học kỹ. Cho nên đây chúng ta tin huyễn hoặc nhiều lắm, hoang đường nhiều lắm. Hổng có người hướng dẫn rồi quý vị tự nghe, tự đặt, tự tin bằng cái tin của mình, không dựa vào lời dạy của Phật thì tin hổng có trúng.
Tự người ta đặt ra có cô hồn, rồi người ta bày ra nghi lễ cúng cô hồn để người ta lấy tiền. Thực tế là dăm trăm triệu đó, cúng cô hồn. Đó là Phật giáo kinh tế. Người ta lấy đạo Phật làm kinh tế. Chứ Phật hồi xưa đâu có cúng cô hồn. Các vị mà học Phật thiệt coi, hổng có cúng cô hồn. Cô hồn nó có từ hồi ông pháp sư gọi là Bất động pháp sư (hay còn gọi là Cam Lồ pháp sư) đời nhà Tống. Ông đó là một thầy phù thủy, ổng mê tín dị đoan, rồi ổng tự thấy có bóng ma, có bóng quỷ đói rồi ổng đặt ra cái nghi thức, rồi các câu thần chú để cúng ngạ quỷ. Rồi những người mê tín dị đoan mới thừa kế làm hoài ra vậy, làm riết ra rồi người ta quen. Người trước bày người nay làm, riết rồi thành ra cái truyền thống.
Hổng có ông Phật nào có miếng đất như ông Phật A Di Đà mà được gọi là Phật bao giờ. Đã là Phật thì không có cái ngã và không có cái ngã sở hữu. Nếu Phật A Di Đà mà còn thấy mình có một cõi nước Cực Lạc, đó là đức Phật Di Đà đã có cái ngã tướng:
- Một, Ta là Phật Di Đà.
- Hai, là ngã sở hữu: đất nước Cực Lạc của Ta ở về phía tây.
- Ba, Ta thấy có đứa nào mà niệm danh hiệu Ta từ 1 đến 10 niệm mà nó còn sống thì Ta độ nó hổng được, nhưng mà nó chết, Ta lại bắt hồn nó đem về nước Ta để cho ở. Mà nước Ta thì sung sướng vô cùng, vô tận. Mà về cái nước Cực Lạc là không cần phải chết, vô lượng thọ. Ăn khỏi ỉa, khỏi cần tắm rửa gì hết. Tự sướng vậy đó. Mà một cái nước như vậy thì sướng gì. Ăn uống xong nằm dài cà lăn, cà lăn như vậy xong. Gọi là sướng gọi là vui là tại vì người ta có cực. Có cực người ta mới biết sướng, có khổ người ta mới biết vui. Có đói người ta ăn mới biết ngon. Thế cái nước gì mà no hoài hoài hổng có đói. Ăn rồi khỏi có đi ỉa, đi đái gì. Phật Di Đà làm hết ráo. Như vậy làm sao gọi là Phật được. Vậy mà xưa nói bây giờ chúng ta tin.
Cái chuông và tiếng chuông không bao giờ lấy ra được. Cái chuông hư thì tiếng chuông hư, cái chuông còn thì tiếng chuông còn. Bây giờ tôi yêu cầu các vị lấy tiếng chuông ra giùm tôi, không được. Các vị không lấy ra được. Các vị lập luận rằng bây giờ lấy ra hổng được, nhưng cái chuông này hư là các vị lấy tiếng chuông ra được các vị đem về cái nước nào đó được. Có phải nói láo không? Có phải nói phi lý không?
Vậy tu làm sao?
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Các điều ác không làm, chỉ làm các việc lành thì cái chỗ mình ở là Cực Lạc, là Tịnh Độ chứ đâu. Chứ còn cái tâm mình còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi, phẩn hận phiền não đệ nhất mà chờ chết rồi nhờ cái ông Di Đà xách lấy cái hồn bỏ vô cái lon hay cái bình đem về nước Cực Lạc cho hưởng sung sướng.
Nói như vậy mà nghe được là nghe làm sao. Vậy mà chúng ta vẫn nghe đó. Cho nên là hổng có tranh cải nhiều, tranh cải là mích lòng lắm. Phải dựa vào văn, tư tuệ. Nghe phải lấy cái tuệ mà nghe, suy nghĩ phải lấy cái tuệ mà suy nghĩ. Sau đó mới làm, chứ hổng phải người trước lâu năm, sống nhiều tuổi là nói trúng đâu. Hổng phải sách viết dầy dầy thế nay là trúng đâu. Sách viết dầy dầy như thế này chưa chắc xài được đâu. Bởi cái người mù, mù từ trong bụng mẹ. Biểu nó nói một con voi không bao giờ nó nói được. Còn cái người mù, cái người mà đui trong bụng mẹ biểu vẽ con rắn không bao giờ vẽ được. Vẽ hết bao nhiêu giấy cũng không vẽ được, vẽ rắn thêm chân. Bởi vì nó đâu có biết con rắn thiệt đâu, nó không hề thấy rắn. Nó nhớ con mèo, nó nhớ con chó, nó nhớ con gà, vậy đó rồi nó vẽ con rắn thêm chân. Do vậy, viết sách là viết bậy, dầy dầy, cuốn thiệt dầy mà trật lất hết. Chứ không phải dầy mà hay đâu.
Phật Di Đà bản ngã lớn như vậy, nặng như vậy sao là Phật được. Chúng sanh niệm mười tiếng nghe là khoái. Rồi chúng sanh chết ở đâu là thầy trò kéo nhau rước về nước mình. Mà một cái đất nước toàn là vàng bạc, lưu ly, pha lê châu báu, kim cương, xa cừ, mã nảo, châu ngọc các thứ báu vậy thì còn gì nữa gọi là đẹp.
Ai là người quy y Phật rồi, mà tam quy y Phật vĩnh viển bất quy y thiên thần, địa vật. Nghĩa là con đã quy y Phật, kể từ nay con không quy y thiên (là trời). Không vô biên xứ thiên. Thức vô biên xứ thiên, phi sở hữu xứ thiên… không có mấy tầng trời đó đâu. Người ta dạy bậy. Thần là vua phong, mà vua cũng như mọi người, chẳng qua là dùng cái quyền hành trong một giai đoạn nào đó rồi phong cho người ta vậy thôi. Thắng thì vua, thua thì giặc. Còn chữ Thánh là thành phần tôn giáo phong, do vậy mà trong tôn giáo, cái người nào ở trong đạo người ta quý người ta phong làm thánh để động viên người khác hãy làm theo những gương đẹp như vậy. Chứ thật sự thì thần cũng hổng có, thánh cũng hổng có. Đều do hoang đường, ảo tưởng do nghe người ta nói rồi mình làm theo vậy. Lạy cực xương sống, lạy nổi gai đầu gối đi không được.
Các vị mà đi chùa 5 năm 10 năm quý vị có gởi cái giấy cầu an cầu siêu vô chùa từ 5 lần, 10 lần cho tới 20 lần rồi. Năm nào cũng viết 10 cái tên ông bà đưa vô cầu siêu. Mà 10 năm rồi, vậy 10 năm trước nhờ cầu siêu có siêu hay không. Có siêu không. Mà đã siêu rồi, Di Đà rước rồi tại sao bây giờ lại còn đi cúng nữa. Vậy mà nội đây đều có làm hết. Thật sự cầu an có an hay không, hay rồi cũng bịnh hoạn, ốm đau cũng đi bác sĩ. Còn nếu như cầu siêu, siêu rồi 10 năm trước thì tại sao bây giờ vẫn nạp tên nữa là sao? Mình có điên không? Mình có ngu đần, dại dột không? Đã mướn người ta làm rồi, lại đưa tiền thêm mỗi năm là sao. Vậy mà chúng ta vẫn làm. Đó chẳng phải là chúng ta vẫn nghe người trước nói, xưa bày nay làm. Chúng ta không có văn tuệ, không có tư tuệ. Nếu thân nhân mình chết mời 20 ông thầy lại tụng kinh có siêu không, mà nếu siêu rồi, sao 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng lại mời đám đó tụng nữa.
Vậy mà đệ tử Phật chúng ta không hề nghe, không hề thấy, không hề biết mà bằng lòng như vậy. Khác cái đó là phản đối, là cự nự là nghĩa làm sao? Cho nên tôi nói thiệt, phản đối tôi khó lắm, cự nự với tôi khó lắm! Nhưng mà cái vấn đề là phải dựa vào đâu để làm cơ sở mà lý luận. Chứ còn nói tay ngang để mà uýnh lộn chơi thì ai cũng uýnh lộn hết. Nói thì phải dựa vào giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Tu theo đạo Phật phải dựa vào hai cơ sở, một là giải thoát tức là Niết bàn, hai là giải thoát tri kiến tức là phải có sự giác ngộ. Mà nếu chúng ta tu chúng ta lạy lục van xin khấn khứa gì đó, chúng ta bỏ trăm triệu, ngàn tỉ mà không có an lạc, cầu nguyện suông thì đó là tu sai.Tu không an lạc là sai rồi. Tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình làm hòn đảo cho mình nương tựa. Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo. Mà ác là như thế nào. Thiện là sao. Cái gì thiện, cái gì ác?
Hương linh, hương hồn, thần hồn đều là các từ của ngoại đạo. Người đệ tử Phật không dùng chữ hồn. Đạo Phật không có chữ hồn. Cái thân này sắc uẩn là thuộc về vật chất; thọ tưởng hành thức thuộc về tinh thần. Cái thân này tan rã thì phần tinh thần cũng tan đi chứ Phật Di Đà hổng có cầm đi để rước được, hổng có đem cái lon hay cái hũ để mà bắt đem đi giống như bắt dế được. Phật Di Đà không có làm chuyện đó được. Mà nếu có làm thì sao chơi với Phật Thích Ca được. Đất nước của tôi tôi dạy học trò của tôi, ông bắt phần hồn đi rồi ông để lại xác thúi là sao.
CÔ HỐN LÀ AI?
Nhắc tới mùa Vu Lan báo hiếu các phật tử nên nhớ tới một điều mà tôi nghĩ là mọi người nên nghĩ mới phải. Nhưng mà dường như tất cả mọi người đệ tử Phật không có ai nghĩ. Chúng ta học Phật là phải giữ giới và cái giới đó phải sinh trí tuệ, cái trí tuệ đó phải phục vụ cho giải thoát thì mới là của Phật. Thành quả của giới định tuệ là phải giải thoát.
Tôi nghĩ trong xã hội này tại sao có thành phần chỉ đói bụng vào tháng 7 thôi, còn các tháng khác không có đói bụng. Đó là cô hồn. Tôi nghe về động vật học, ở Bắc cực có loài gấu nó nằm một chỗ không hề đói bụng, không hề ăn uống suốt mùa đông, nó ở trong hang, trong hốc. Thì trong đạo Phật có một thành phần mà các phật tử tin rằng chỉ có đói bụng trong mùa tháng 7, đó là cái loại cô hồn. Vì cái mùa tháng 7 này, cúng cô hồn dữ lắm, các cơ quan cũng cúng cô hồn, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề làm ăn cũng cúng cô hồn. Mà các cái tháng khác hổng có. Như vậy thì cô hồn chỉ có đói bụng vào tháng 7 thôi sao.Còn các tháng khác, cô hồn ăn bằng cái gì, hay không có gì ăn. Đó là một vấn đề tu tập mà người đệ tử Phật phải để ý nêu ra câu hỏi đó. Cho nên mùa này tu sĩ trẻ tuổi đắc dụng lắm, đi cúng cô hồn rất nhiều. Lại được quà cáp cúng dường khá hơn các cái mùa khác.
Từ cái chỗ tư duy như vậy, tôi nói thế này các phật tử để ý này. Có phải thật sự cô hồn chỉ ăn vào tháng 7 thôi, còn các mùa khác không đói không ăn? Và cô hồn là gì, cô hồn là ai, sao gọi là cô hồn? Đó là cái chỗ mà chúng ta không tư duy tu tập không giải quyết được đâu. Người ta tưởng tượng rằng cô hồn là cái hồn mà mồ côi cô đơn, là những cái hồn mà chết oan, chết ức, chết tự vẫn, chết xe đụng, chết té sông, chết lửa cháy… Rồi cái hồn đó là cô hồn. Những cái hồn đó là hồn mồ côi, không ai cúng quảy, không ai thờ phượng. Vì vậy mình là đệ tử Phật góp nhau cúng cô hồn. Để tỏ ra mình là đại từ đại bi, cứu khổ chúng sinh. Đó là một ý tưởng chung của những người đệ tử Phật, gần như là không ai dám cãi.
Tôi thì tôi đọc trong kinh Phật chùa nào cũng có cái bàn cúng: “Tứ sơn lục vị thập loại cô hồn”. Ở trước mỗi cổng chùa, mỗi buổi công phu chiều, các vị tụng kinh ra đó, ra trước cái bàn thập loại cô hồn đó, đánh keng, keng, keng, keng rồi tụng cái bài Mẫu sơn đó. Đại để là cúng cô hồn qua hình thức bài tụng như vậy. Nhưng mà tôi nghiên cứu đi sâu vào giáo lý, không có cái hồn nào mà hồn mồ côi tồn tại cái kiểu là cô đơn mà không có người thờ tự như vậy. Bởi vì chúng ta nghiên cứu đạo Phật, chúng ta biết tất cả mọi người có cái thân này đều là thân ngũ uẩn giống y nhau. Sắc uẩn giống y nhau. Cái thực tính của vạn pháp là vô ngã, vì nó vô ngã nên nó vô thường. Mà vô thường thì chết đụng xe hay chết cháy nhà hay chết trôi hay chết kiểu gì đó thì nó cũng chịu theo quy luật vô ngã, vô thường tan biến giống y nhau. Chớ hổng có cái hồn nào mồ côi mà cái hồn nào không mồ côi. Đây là vấn đề thân kiến. Khó nghe. Nhưng tôi vẫn nói, không nói chẳng lẽ là giống như tôi chẳng biết giống như mọi người hay sao. Tôi là tu sĩ Phật giáo, tôi học Phật mấy mươi năm mà chẳng lẽ tôi hổng biết giống như mọi người. Đâu phải vậy được. Tôi phải biết hơn chứ. Nhưng cái biết của tôi, tôi biết tôi nói ra tôi nguy hiểm. Bởi vì giải thoát tri kiến không phải dễ nói. Người ta chấp ngã, người ta chấp pháp.
Cho nên cái vấn đề ngũ uẩn vô ngã, vì vô ngã cho nên vô thường, sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh vô cùng vô tận là một cái tất nhiên của mọi con người. Do vậy cho nên hổng có cái hồn mồ côi để vất vưởng ngoài đường. Mà nếu thật sự có cái hồn mồ côi đó thì phải cho nó ăn mỗi tháng, mỗi ngày chứ không có lý do gì mà nó như con gấu Bắc cực, hễ mùa đông thì nó phải nằm một chỗ không ăn, rồi tháng 7 cô hồn mới ào ra đi kiếm ăn, đi xin ăn vầy. Còn ai không cho nó ăn thì nó thấy xe hơi, nó vô xe hơi cho lật, cái giới mua bán thì nó cấm không cho người ta mua, cái giới nhà xưởng thì nó vô quấy phá cho máy móc hư. Không có cái thứ hồn mồ côi đi làm cái chuyện như vậy nếu người ta không cho nó ăn. Tư duy đi, thử đi.
Do vậy khi các vị nghiên cứu Nguyễn Du, thập loại cô hồn ở trong nhà chùa, không ai nghiên cứu đâu. Ta cứ nói thập loại cô hồn vậy là ta cúng keng, keng, keng, keng mỗi buổi tụng chứ có ít ông thầy nào nghiên cứu thập loại cô hồn chi li lắm. Nhưng mà các vị mà để ý mà đọc Nguyễn Du, cái văn tế thập loại cô hồn của Nguyễn Du các vị sẽ thấy, bởi vì tu sĩ của mình thường nói tổng quát mà hổng đi tư duy. Mà những cái nhà văn, nhà thi hào như Nguyễn Du, ông nói về thập loại cô hồn trong bài văn tế, tất cả chúng ta đều là thập loại cô hồn hết. Ghê gớm vậy đó, sĩ, nông, công, thương, binh đều là cô hôn hết, đến vua, thế tử, đại thần, bình dân, trí thức nghệ sĩ đều là cô hồn hết. Đọc cái văn tế của Nguyễn Du sẽ thấy. Ai cũng có một tâm hồn cô đơn, đó là cô hồn.
Do cái tập quán mà nó lẫn lộn cái mê tín, cái huyễn hoặc hoang đường mà nhiều dân tộc trên thế giới có ý niệm đó. Người ta nghĩ rằng người còn sống vậy đó, thì người chết vẫn còn, có khi người ta ra cái mả rót rượu nói với người chết như với người sống vậy đó, cái tập quán đó lâu đời lắm, từ Trung Quốc tới Việt Nam. Cho nên cái ngày lễ thanh minh đó, con cháu ra mộ, rồi rót rượu, cúng gà, cúng vịt rồi nói với ông bà cha mẹ y như là còn sống. Cái đó là tập quán, phong tục. Chứ đạo Phật thì không theo cái tập quán, phong tục đó. Cái người học Phật có ý chí xung thiên, tự mình mở một con đường đi chứ không bước theo cái bước chân của người đi trước, họ bước chỗ nào thì bây giờ mình phải bước y cái dấu chân đó. Có những người đi trước họ bước cũng không khéo lắm đâu, họ bước chỗ gai chông. Bây giờ nếu mình cũng theo dấu chân của họ mình cũng có thể bị cái gai chông đó, nó châm cho mình nữa đó. Do vậy, tu học phải văn như tư, tư như tu. Các vị phải thường quán chiếu chứ không có cái hồn nào mà lang thang nhịn đói cả 9 tháng mà chỉ có tháng 7 mới được cúng cho ăn.
Ý niệm đó mới có, cả mấy trăm năm, mấy ngàn năm hổng có ai nói điều đó cho quý vị. Tôi thì tôi nói, và tôi nói hoàn toàn đúng với kinh điển của đạo Phật, vô ngã. Tại sao vô ngã lại còn cái hồn là sao? Khó nghe, mà người trí tư duy đi.
CÚNG CÔ HỒN
Tại sao người ta đi chùa nhiều vào cái mùa Vu Lan rằm tháng 7, nó có cái vấn đề gì ghê gớm lớn lao trong đạo Phật hay không mà cái mùa Vu Lan rằm tháng 7 người ta ăn chay cũng nhiều và cúng nhiều và lớn. Đó là một cái duyên cớ gì?
Và trên TV có hỏi mấy câu: mùa Vu Lan để báo hiếu cho ông bà cha mẹ đúng không? Mùa Vu Lan là mùa bông hồng cài áo đúng không? Cái tháng 7 là tháng cúng cô hồn đúng không. Người ta đặt ra câu hỏi đó, ai trả lời trúng, được thưởng. Và theo ý các vị là đệ tử Phật, các vị trả lời như thế nào.
Tôi xin giải thích. Cái ngày bông hồng cài áo là hổng đúng rồi. Trước đây 40 năm cái tục bông hồng cài áo đó không có. Mà cái tục bông hồng cài áo xuất phát từ ông thiền sư Nhất Hạnh. Ông đi bên Nhật, ông thấy tập quán bên Nhật cái ngày mà chúc mừng mẹ, người ta có làm nghi thức bông hồng cài áo. Người nào mà mẹ còn là bông hồng đỏ, người nào mà mẹ mất rồi thì bông hồng trắng. Là tục của Nhật.
Nhưng mà cho tới bây giờ, trên thế giới người ta truy ra tục đó không phải của Nhật, mà của người Mỹ. Trong cái họ đạo của một bà sơ và một số đệ tử nggười ta không cài bằng bông hồng mà bắng bông cẩm chướng. Người ta cài bằng bông cẩm chướng. Rồi Nhật Bản sáng tạo, dùng bông hồng. Thiền sư Nhất Hạnh trong thời gian đó ở bên Nhật thấy tục đó đẹp rồi mới viết ra truyện ngắn bông hồng cài áo rồi các kịch nghệ cải lương người ta thấy từ đó đẹp người ta mới sáng tác ra tuồng bông hồng cài áo. Rồi truyền tụng ra dân, dân thấy tập quán này cũng đẹp, từ đó về sau ở Việt Nam mình mới phấn khởi với nghi thức đó. Nhưng cái bông hồng cài áo không phải là nghi lễ của đạo Phật từ xưa.
Rồi nói rằng ngày rằm tháng 7 là ngày địa phủ xá tội vong nhân, cho nên cúng cầu nguyện Phật, Tam Bảo gia hộ rồi đánh điện thoại di động xuống cho Diêm Vương xá tội vong nhân. Vì ngày đó là ngày đệ tử Phật cúng dường Như Lai, Thế Tôn, cúng mười phương chư tăng. Cho nên bây giờ chư tăng đã thọ dụng rồi nên Diêm Vương, quỷ sứ vị tình Như Lai, Thế Tôn, xá tội vong nhân đi.
Vậy ai cho quyền Diêm Vương bắt vong nhân, bắt lúc nào và nhốt ở đâu, ngục nào, khám nào. Mỗi năm anh xá bao nhiêu, nhốt bao nhiêu. Theo giáo lý thì không có quyền bắt nhốt người ta lâu năm như thế. Bảy đời cha mẹ mà còn nhốt là sao. Cho nên gọi là ngày Địa quan xá tội là không đúng. Theo giáo lý nhân quả không ai có thể vì tình mà xá tội cho ai được hết. Nhân quả là nhân nào, quả nấy. Không có người có quyền bắt tội, không có quyền xá tội hay vì tình Như Lai, chư tăng thọ thực, chú nguyện rồi buộc lòng là Diêm Vương, quỷ sứ ngưu đầu xá tội.
Nói là ngày cúng cô hồn cũng hổng đúng. Không có lý do gì mà một cái loại chúng sinh chỉ đói bụng tháng 7 thôi, còn 11 tháng rưỡi kia không đói bụng, không cần ăn, Chỉ có từ rằm tháng 7 tới 30 tháng 7 cô hồn mới được ăn.
Cho nên nói ngày rằm tháng 7 là ngày cúng cô hồn hay xá tội vong nhân đều là không đúng hết. Vậy thì tại sao phật tử đi chùa tấp nập là lý do gì. Tôi xin nói một câu mà các vị đừng có giật mình. Đem cái sự cúng dường, nôm na là đút lót, để xây dựng cảm tình nhờ ô dù Phật che chở thì cái đó hổng đúng đạo Phật.Trong kinh Vu Lan viết là: đồ ăn trăm món. Trái cây năm màu, thiếu cái đó hổng ăn. Lại phải sắm giường nằm, đệm lót. Phật hồi xưa đi tu thành đạo đâu có giường. Rồi còn nệm nữa, nệm Kim Đan mới chịu. Giường nằm, đệm lót cùng thau bồn đèn đuốc nhang dầu. Đòi dữ vậy. Thành ra cái đòi trong này là đòi quá đáng.Cho nên cái này nói đơn giản là dạy người con hiếu nghĩa với cha mẹ theo tinh thần của dân gian, chứ không phải tinh thần của đạo Phật.
4. TRỰC DIỆN CÁI TA
Hôm nay chúng ta tiếp tục chương trình nhắc nhở tu học từ xa. Hôm nay chúng ta nghiên cứu về đối tượng tham thiền, có nhan đề “Trực diện cái ta”, kỳ 198. Cái đề tài này tôi xin nhắc nhở với tăng, ni trẻ gần xa.Trên bước đường tu học, học đạo, hành đạo để có sự chứng ngộ giải thoát gọi là chứng đạo thì vấn đề cái ta có một vai trò rất lớn trên bước đường học đạo, hành đạo để chứng đạo.
Đối với phật tử tại gia cũng vậy… Người phật tử tại gia mình nhắc nhở họ tam quy, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Tuy nhiên nội cái quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng cũng khó lắm. Mình nhắc họ nhiều khi cũng trật lất đó. Tăng, ni làm lễ quy y cho người ta mà còn không biết cái đó thì nói cái gì. Tam quy là quy y Phật thì vỉnh viển bất quy y thiên thần quỷ vật. Nghĩa là người đệ tử tại gia quy y Phật, quy y Tam Bảo là bước đầu tiên thì không thờ Ngọc Hoàng, Thượng Đế, những vị gọi là ông, là đấng, hoặc là bà, hoặc là chú, bác, cô, dì, thần thánh, cậu, mợ.
Bởi vì, người phật tử tại gia nếu không dạy, họ thờ cậu, thờ bà, rồi thờ quỷ thần, rồi cả cô hồn. Cho nên mình tu học rồi mình dạy người ta, cúng cô hồn này, rồi cúng thổ địa, thần tài cái gì đó, trên nữa thì bà này, cậu nọ, đấng kia Ngọc Hoàng, Thượng Đế, cái đó là mình dạy người ta không đúng rồi đó.
Để cho đệ tử mình mà cúng, mà tin như vậy thì mình là cái ông thầy không đúng với vai trò ông thầy người đệ tử Phật. Cho nên quy y Phật là vĩnh bất quy y thiên thần, quỷ vật, trời, thần, yêu ma, đều không cúng, không lạy, không sợ, không hi vọng nhờ vả họ. Cái câu đó coi vậy mà không phải dễ đâu. Nên tôi nghe rần, rần, rần, rần.
Đi chùa là hàng trăm ngàn, cả chục ngàn trong cái lễ hội đó, phật tử thiệt đó không có bao nhiêu đâu. Mà cái người dạy đạo thiệt đó cũng không có bao nhiêu đâu. Nếu mà những ông thầy, những chư vị ni sư mà dạy đệ tử, dạy cho người ta cái câu quy y: vĩnh bất quy y thiên thần quỷ vật. Không nhắc được cho người ta: vĩnh bất quy y thiên thần quỷ vật. Nghĩa là chỉ lợi dụng nhau để mà kiếm ăn, để mà sống, hổng phải đạo Phật thiệt. Nếu mà nói câu này, những vị người ta nghe được, người ta nói tui không thông cảm, theo kiểu ăn nói hổng ngán ai. Rồi có đứa nó chửi tôi, nó thù tôi. Nhưng mà tôi nói đạo Phật thiệt chứ tôi có nói gì đâu.
Quy y Phật mà còn cúng đủ thứ quỷ thần, sợ sệt đủ thứ quỷ thần là hổng phải đạo Phật. Bởi vì đạo Phật hổng phải là tôn giáo, mà cũng hổng phải là đa thần giáo, hổng có sợ cô hồn, các đảng, ma quỷ gì ráo. Tăng, ni mà đi học tiến sĩ về mà hợp tác với cái cô Bích Hằng để mà đi tìm hồn tìm vía. Trật quá rồi đó chứ. Đạo Phật hổng có chủ trương có cái hồn. Chứ nếu đạo Phật mà có cái hồn, có cái thân trung ấm gì đó, có nghĩa là mình bị rơi vào cái thân kiến, cái tà kiến rồi đó. Trong kiến hoặc (sai lầm về hiểu biết, sai lầm về nhận thức) nó có cái thân kiến là chấp cái bản ngã của tự thân và cái bản ngã của cái hồn. Mang cái bệnh chấp thân kiến, vừa là chấp cái bản ngã của cái hồn nữa đó. Biên kiến là cái thứ hai, cho rằng chết rồi là mất hẳn cũng không đúng với đạo Phật. Mà nói rằng chết rồi còn, còn cái linh hồn để Phật A Di Đà rước về là trật rồi đó. Đó là biên kiến.
Tôi niệm Phật A Di Đà không có sao hết. Tôi vẫn niệm nhưng mà ai đó niệm Phật A Di Đà là tôi nhắc nhở đó, coi chừng hoang đường, ảo tưởng. Niệm Phật A Di Đà không bận quần áo mà vẫn đi đường đó. Có đó, có rồi.
Tượng một cái cảnh mà không bao giờ có. Gọi là cái cảnh giới Cực Lạc mà thực sự không bao giờ có ở đâu hết. Niệm riết rồi cái óc nó hư. Cái đầu nó hư. Rồi thì ngồi nói lảm nhảm với Quan Âm, với Thế Chí, với Bồ tát ở đâu. Ở cõi Cực Lạc? Mà kỳ thật ở dưới này, ở cõi trần gian này thì đối với gia đình mình, mình không có bận quần áo, mà không lấy làm ngại ngùng gì hết. Tại vì tưởng tượng riết rồi quên cái cõi đời này. Cái óc nó hư rồi, loạn óc rồi. Cái đó có thật.
Cho nên ai niệm Phật A Di Đà là tôi nhắc nhở vậy đó. Các vị hổng chịu thì thôi. Còn tôi cũng niệm A Di Đà, nhưng là niệm vô lương quang, vô lượng thọ. Đó là cái tên của Phật A Di Đà đó. Là cái trí vô lượng. Trong đạo Phật gọi là thức. Chứ không có ông Phật A Di Đà nào mà đem Quan Âm lại, đem Thế Chí lại, mà đem rước cái hồn của mọi người. Cái hồn mà không biết tu hành gì hết, cái hồn dơ dáy, dục vọng, tà kiến, vui mừng, buồn giận, thương ghét, phải quấy nặng trịch như vậy. Mà Phật A Di Đà rước về coi chừng Phật Thích Ca uýnh đó. Nếu mà suy theo bụng của phàm phu là uýnh đó. Anh là cái người muốn thôn tính đất nước ta bà của tôi, là cái người giành dân, dụ dân, lấn đất của tôi, phải không?
Cõi ta bà này, Phật Thích Ca cho biết, mọi người đều có thể tu, đều có thể Niết bàn. Phật Thích Ca đã nói khi thành Phật: “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật được hết”. Tức là học trò tôi đều có thể thành Phật an lành, nó cũng có sung sướng y như Cực Lạc vậy. Anh lại lấy cái Cực Lạc anh dụ người ta kêu tên anh, khỏi tu gì hết. Rồi anh đem đồng đảng của anh lại, anh rước hồn đi à, anh giành dân, lấn đất của tôi à. Nói vậy sao còn là kinh điển được. Cho nên vấn đề niệm Phật coi chừng nguy hiểm đấy.
Cái từ Đại Thừa Phật giáo của chúng ta phải sửa lại thôi. Đai thừa là xe lớn chứ gì? Cái nguồn giáo lý Tứ Đế của đạo Phật anh cho là Tiểu Thừa, là xe nhỏ; anh là cái thành phần miệt tổ, khinh sư; cho nên bắt đầu từ chỗ này là tôi nhắc nhở, phải xét lại. Xe lớn là lớn cở nào, lớn cở xe lửa chứ gì, chở một lần 20 toa. Vấn đề là chở cái gì trong xe đó. Chứ đâu phải xe lớn là ngon. Cũng là chiếc xe ô tô, người ta chở 15, 20 thậm chí là 50 người tối đa. Nhưng chở toàn là giáo sư, bác học, kỹ sư, thạc sĩ toàn là người trí thức không à. Còn anh 20 toa mà anh chở toàn là xe bò, trâu, chó, hươu, nai trong đó thì giá trị sao bằng cái xe nhỏ mà người ta chở thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ. Cho nên Đại Thừa hãy coi chừng. Đại Thừa là xe lớn chứ gì, mà anh nói anh là Đại thừa, anh là xe lớn. Mà giáo lý kinh Tạp A Hàm của Phật Thích Ca là Tiểu Thừa, anh coi chừng miệt tổ khinh sư. Anh coi chừng hổng biết gì hết trơn. Mà anh như vậy làm sao có trí được.
Cho nên từ đây tôi nhắc nhở dài dài mà nhất là tăng, ni trẻ. Tăng, ni trẻ phải phát huy cái đầu óc của thời đại. Có những chuyện huyễn hoặc, hoang đường đi dạy cho bá tánh, dạy cái gì, huyễn hoặc hoang đường, mê tín dị đoan không. Kể cả những người mà gọi là người xưa. Xưa là xưa nào, người đó là ai? Chứ không phải những bậc tiền bối, cách chúng ta một, hai ngàn năm là nói cái gì cũng trúng. Chỗ đó là cái chỗ phải tư duy mới thấy.
Cho nên tôi rất thích cái câu mà tôi hổng biết ông nào đã nói. Cái câu là, làm thầy thuốc mà sai lầm thì có thể chết một người, hai người, ba người gì đó. Còn có sai lầm mà nó giết chết hàng triệu triệu người, hàng tỉ tỉ người trên hành tinh này là làm văn hóa. Cho nên người làm văn hóa quan trọng lắm. Thành ra, nếu tăng, ni trẻ mà hổng để ý mà cứ xưa bày nay làm, mà bày cái kiểu là không có đúng với cái đường lối trí tuệ của đạo Phật thì tội nghiệp bá tánh lắm. Bá tánh cứ cúng lạy, cúng lạy, cầu khẩn, cầu khẩn không có được cái gì hết. Cầu nguyện mà được thì chiến tranh người ta hổng cần chiến tranh. Người ta cầu nguyện cho cái nước bên kia tự chết, ông vua bên kia tự chết. Nhưng mà thực tế có ai làm như vậy không. Mà cầu chết hổng được thì cầu sống làm sao được.
Cái đặt để, cái tôn giáo mà bày đặt ra cầu cúng là hổng có đúng. Có biết bao nhiêu người không ưa tui mà cầu nguyện cho tui chết mà hổng chết đây nè. Chứ tui nói cả đời tui ít ai ưa tui lắm. Trong giới tu sĩ cũng ít ai ưa, huống chi là phật tử tại gia. Ít ưa lắm. Nhưng mà cầu nguyện cho tui chết không được. Mà thật sự là tui cũng hổng muốn sống làm gì. Mệt mỏi lắm rồi. Nhưng mà nhờ cầu nguyện cho chết mà không ai cầu nguyện được, thậm chí hứa cúng tiền mà cũng không ai lãnh cơ mà. Tất cả những gì mà tôi có, ai cầu nguyện cho tôi chết là tôi cúng ngay tức khắc. Mà không ai lãnh đây nè.
Cầu cho người ta chết không được thì làm sao mà cầu an, cầu làm giàu cho người ta được. Vậy mà hổng hiểu cái đó. Cái đó trong đạo Phật gọi là kiến hoặc, sai lầm trong nhận thức, ngu dốt về hiểu biết. Cho nên cái vấn đề bản ngã nó quan trọng vô cùng. Con người trong đời này ai cũng mê cái bản ngã của mình, ai cũng quý trọng cái bản ngã của mình dữ lắm. Mà đạo Phật thì không mê cái ngã.
Nói nãy giờ chỉ là nhắc nhở không à. Bởi vì cái đạo Phật ngày nay sai dữ tợn lắm, đụng đâu cũng có cái sai. Thờ cúng cũng sai lầm, lạy lục cũng sai lầm. Tất cả những cái tụng niệm đều có sai lầm ở trong đó hết. Bây giờ mà nếu kéo ra, moi ra, lôi ra để mà nhắc nhở thì sai lầm quá đỗi luôn. Mà sai lầm thì không có đem kết quả cho cái việc của mình. Rốt cuộc rồi mình tu hành mà không đem lại kết quả gì hết. Tới chừng chết vẫn cứ đau khổ triền miên. Ví dụ có những người tu thiền đấy, nhưng tới ngày mà sắp chết vẫn hổng có được kết quả chút xíu nào hết. Cho nên phải xét lại đó. Cho nên tôi có làm bài thơ gần đây. Ra đi không khổ mới gọi là viên tịch.
Niết là không, Bàn là si mê, không si mê là Niết Bàn.
Niết là không, Bàn là thương, không có thương ai hết là Niết Bàn.
Niết là không, Bàn là ghét, không có ghét ai hết là Niết Bàn.
Niết là không, Bàn là sợ, không có sợ ai hết là Niết Bàn.
Nghĩa là tất cả những gì của phàm phu có, Phật không có. Phật là người nói không với vạn pháp. Sống trong cõi đời, sự vật, hiện tượng này Phật là người cưỡi ngựa xem hoa, y như người cưỡi ngựa xem hoa. Một cái cánh đồng hoa, hàng vạn vạn thứ hoa mà đức Phật ví như người cưỡi ngựa xem hoa vậy. Cưỡi đi xem hết mà không cần bẻ hoa nào hết. Cao hơn mức nữa gọi là nói không với tất cả. Không thèm xem luôn.
Cho nên tôi phát hiện hai câu đó để nói với phật tử gần xa là hai câu đó thiền định dữ lắm đó. Chớ không cần nói cái gì cao xa. Các vị hãy tập, đời sống giống như cái người cưỡi ngựa xem hoa vậy. Tiền tài, sắc dục, danh vọng, địa vị, tất cả các sự việc của các vị trong cõi đời này, các vị phải tập xem như là hoa, mà mình là người cưỡi ngựa xem hoa. Đó là bước thứ nhất trên đường tu. Nghĩa là các vị có thể là người có tiền tài, danh vọng, địa vị, gia đình có sự nghiệp nhưng mà các vị đừng có mê nó lắm. Có như vậy thì thọ dụng như vậy, có như vậy thì hưởng như vậy mà đừng có đam mê, lưu luyến nó lắm. Thí dụ như mình làm tổng thống đi nữa, mà tổng thống mãn hai nhiệm kỳ thì nghỉ. Chứ mà không chịu nghỉ, đòi làm nữa, đòi lên chức khác nghe khó đó. Làm lên thủ tướng rồi mà không chịu thôi, làm tổng thống rồi mà chưa chịu thôi đòi ứng cử nữa, làm như vậy đối với đạo Phật, đạo Phật hổng khen cái đó đâu. Nguy hiểm lắm đó, hổng có được gì!
Cho nên cái người phật tử tại gia người ta học như vậy đó. Tập cưỡi ngựa xem hoa. Tập được với cái đó rồi là tới một mức cao hơn là nói không với hiện tượng vạn pháp. Nghĩa là vẫn sống trong hiện tượng vạn pháp, vẫn sống trong núi sông, đất trời, cỏ cây, hoa lá y như mọi người mà mình không có dính mắc. Giống như Trần Nhân Tông nói bài thơ “Cư trần lạc đạo”. Đói thì ăn, mệt ngủ liền. Giải thoát trong ta đừng kiếm nữa, giải thoát trong con người ta có rồi, đừng kiếm nữa. Đừng có lạy lục ông nào, bà nào, thằng nào, con nào, đấng nào, đức nào.
Gần đây sáng tác ra cái từ nói không với tất cả hay quá, nói không với ma túy, nếu muốn bảo vệ gia đình, vợ con hạnh phúc.
Cái bước thứ nhất, tập như cưỡi ngựa xem hoa. Đối với sự vật, hiện tượng trong cõi đời này, cuộc sống của chúng ta sống trong đó nhưng mà chúng ta không lưu luyến, không cưu mang. Cõi đời này vô ngã, tất cả chỉ do duyên sanh, duyên diệt mà thôi, chỉ còn lại cái xác thân hôi thúi mà mình gọi là con người. Chứ kỳ thực nó là tổ hợp của phong, thủy, hỏa. thổ.
Ví dụ người ta bỏ ra một, hai ngàn tỉ người ta làm tượng Phật bằng ngọc bề cao sáu thước, tám thước, bề dài bốn chín thước. Rồi tôi bảo Phật ngọc hổng có thật, sao người ta thương tôi được. Tôi bảo Phật thật phải có ngũ tạng lục phủ, phải có tâm, can, tỳ, phế, bì, cơ, tủy, não, mô, trường, vị… mới cấu tạo thành con người. Chứ bằng đá làm sao cấu tạo thành con người. Mà Phật vậy thì lạy là lạy cái gì ở trong đó. Phật thật phải là một con người, một con người có trí tuệ, có giác ngộ, đạt tới đỉnh cao vô thượng gọi là Phật. Còn bây giờ, mình mua đá về, mình dụ khị cho người ta lạy, cho rục xương người ta, cho chai xương sống, chai đầu gối mà người ta hổng được cái gì hết. Vậy mình bỏ ra mấy ngàn tỉ để làm gì?
Nếu phật tử tu mà không thấy thân mình là huyễn hữu là các vị tu chưa có ra gì đâu nha. Các vị khổ dài dài thôi. Các vị phải thấy thân này là vô ngã, thân này là huyễn hữu thì các vị bắt đầu có nhẹ nhàng đấy.
Rồi do cái lão Đạo An đời Đông Tấn bên Trung Quốc nó bày ra, phàm là thầy chùa nên lấy cái tên là có chữ Thích. Dạy tầm bậy mà mình tưởng là ghê gớm, chứ chẳng có gì hết trơn. Thêm chữ Thích vô để làm gì. Phật Thích Ca hồi đó chẳng lẽ ngu hơn Đạo An sao?
Phật Thích Ca dạy Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề, A Nan, Ca Diếp… gì đó. Ông nào quy y theo Phật học thì cứ đi khất thực mà ăn. Mạnh ai nấy khất thực mà ăn, mạnh ai nấy tu. Chứ ông đâu có lấy Thích Ca Diếp, Thích A Nan, Thích Tu Bồ Đề, Thích Mục Kiền Liên. Mà không biết lấy chữ Thích như vậy chẳng lẽ đức Phật ngu hơn Đạo An hay sao. Mà thêm một chữ Thích như vậy để gây hận thù, chiến tranh, phe đảng để làm gì. Vậy mà cũng gọi là tổ. Vì vậy mới đây tôi đã ly khai cái chữ Thích rồi.
Có ông Đạo Xước bên Trung Quốc còn dạy lần chuổi niệm Phật A Di Đà. Phật gì mà kỳ cục vậy. Dục người kêu tên mình nhiều rồi ghi vào sổ để báo cáo ông ấy là sao? Văn như tư, tư như tu. Nghe rồi phải suy nghĩ chứ, nghe mà không suy nghĩ mà gọi là tu là tu cái gì. Đạo Xước còn dạy ai nhà nghèo không có tiền mua chuổi thì mang cái lon hay cái bầu, rồi niệm một niệm thì bỏ một hột đậu. Trời Phật ơi đi đâu mang cây dù rồi bỏ hột đậu thì còn gì nữa, tu gì cực dữ vậy. Rồi đi tới đâu thì mang lỉnh túi đậu rồi cái lon. Không có cái hồn nào cho Phật Di Đà rước đâu, cũng không có cái hồn nào để mà đi đâu hết trơn. Không bao giờ có đấng nào, ông nào, bà nào, đức nào, cô nào, cậu nào cho các vị cái gì đâu. Các vị phải tự tu, tự giác ngộ.
5.- VẤN ĐỀ PHÓNG SANH
Câu hỏi: Kính thưa thầy, nhân dịp đầu năm mới người ta thường hay phóng sanh. Kính mong thầy cho con hiểu rõ ý nghĩa và việc làm của phóng sanh? Con có nên phóng sanh không và phải phóng sanh như thế nào cho có lợi ích thực tế?
Trả lời: Các vị phóng sanh để làm cái gì? Vì sao phải làm cái việc phóng sanh?
Ở nhà có hoàn toàn ăn chay chưa? Nếu như ở nhà mà hoàn toàn ăn chay, không hề giết một con vật nào, mà lại dư giả tiền bạc nữa thì cái việc phóng sanh đó hỗ trợ cho mình môt phần đạo hạnh. Đó là biểu hiệu tấm lòng từ bi, tiền ít thì phóng sanh 1 triệu, tiền nhiều 10 triệu, nhiều nữa thì trăm triệu cũng vẫn phóng. Cho tới phóng sanh không còn tiền để phóng để nó hoàn thành hạnh nguyện từ bi của mình. Phóng sanh thật tâm như vậy đó là đại từ bi, là rất tốt.
Còn thí dụ như ở nhà mỗi ngày làm mấy con gà, làm mấy con vịt, mấy con heo. Rồi bồ câu ra ràng thì mỗi lần làm hai chục con. Thế mà bây giờ đi chùa gặp bán chim ở cửa chùa, mua phóng sanh lấy phước. Thế thì cái phóng sanh đó không có được gì!
Phóng sanh phải có mục đích, cái việc làm của mình hướng về mục đích gì đó mới có kết quả. Hướng về lòng từ bi trọn vẹn thì ở nhà phải ăn chay hoàn toàn thì phóng sanh mới tốt. Còn ở nhà mình sát sanh nhiều quá mà mình thả một vài ba trăm con chim rồi nhờ lời khấn vái của chư tăng ni ở đó. Thì nói cái này chư tăng ni có giận thì chịu thôi hà, hổng có khấn vái con khỉ khô gì được hết á.
Nếu các vị muốn thả thì cứ thả chứ các vị khấn chữ nho, tôi nghe chữ nho còn không nổi nữa nghĩa là con chim thì biết gì?
Rồi còn ý này nữa nếu ở nhà có người bị bệnh rồi mua chim thả để cầu bình an mạnh giỏi, cái đó đừng có làm, không có được đâu. Ở nhà có người bệnh là phải đi thầy thuốc thôi, thầy thuốc giỏi thì uống nó hết bệnh. Mà có bệnh uống thuốc không hết bởi vì thuốc chỉ trị bệnh sống, chứ bệnh chết là thầy thuốc trị cũng không được. Mà thả chim thì lại càng không ăn thua.
Thả chim để hồi hướng tuổi thọ cho cha mẹ con cái khỏi bệnh hoạn, cái đó là không có phải chánh pháp, cái đó đừng có làm.
Nếu mà tôi nói: Thả có phước lắm. Phước ở đâu có, ở nhà ăn một tháng bao nhiêu vịt, nhiêu gà. Mỗi con mấy ký, còn thả chim này một trăm con chưa được nửa ký, làm sao mà đổi lại với vụ kia được. Cho nên nó không có kết quả đâu.
Lòng từ bi là phải thực sự mình ăn chay rồi, không còn động đến một con vật nào hết, chớ mà ở đây mình thả một trăm con chim có con mèo nó ngoao ngoao, nó từ đâu lại nó nhẹ tha miếng thịt thì mình vả cho nó cán dao chết ngắt. Thế thì con mèo nó đau khổ còn nhiều hơn con chim này nữa. Cho nên thả chim rồi thì con mèo đó về nhà cũng đừng có đập.
Do đó, thả chim là mình thương con vật nhỏ thì con vật lớn mình phải thương. Rồi con chó, con heo, con trâu, con bò phải thương hơn. Mạng người càng phải quý trọng hơn nữa vì việc phóng sanh là biểu lộ lòng từ bi chứ không phải cái gì hơn nữa.
Còn đem nó đổi mạng cho người sống để cầu bình an, đừng có làm cái đó, không trúng.
II.- Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
1.- Đạo Phật Pháp môn và đạo Phật Nguyên chất (giảng tại chùa Xá Lợi. ngày 15-12-2013)
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính thưa quý vị thiện hữu tri thức!
Chủ đề chúng tôi gửi đến quý vị hôm nay là: ĐẠO PHẬT PHÁP MÔN VA ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT.
Chủ đề gồm có hai nội dung:
Phần một: Đánh giá về đạo Phật Pháp môn.
Phần hai: Gợi mở về nội hàm của đạo Phật Nguyên chất.
PHẦN MỘT: ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠO PHẬT PHÁP MÔN.
Đạo Phật pháp môn còn được gọi là đạo Phật Tổ sư, do chính các vị tổ sư tập hợp, lựa chọn, biên tập giới thiệu lăng kính đạo Phật qua kinh nghiệm tu học của bản thân mình.
Đạo Phật Tổ sư nhấn mạnh đến vai trò của người hướng dẫn, tức là vai trò của Tăng bảo và do vậy hình ảnh và giáo pháp chính của đức Phật bị mờ nhạt.
Trong đạo Phật Tổ sư thì vị khai sáng trở thành tâm điểm của người thực tập. Giáo pháp của Phật giáo có thể được giới thiệu một cách gián tiếp hoặc là không giới thiệu gì.
Đạo Phật Tổ sư chịu ẩn hưởng của nền văn hóa thờ phượng tổ tiên của Trung Quốc.
Sở dĩ gọi Tổ sư là đạo Phật pháp môn vì các vị tổ sư, đặc biệt theo trường phái Đại Thừa tại Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Bắc Triều Tiên, Việt Nam nhấn mạnh đến một con đường thực tập nhất định mà vị khai sáng đó tâm đắc nhất.
Đạo Phật Tổ sư dựa vào một vài bài kinh căn bản xây dựng toàn bộ học thuyết của mình trên các bài kinh đó. Ngoài các bài kinh đó ra, tín đồ nhiều thế hệ không phải nghiên cứu, học tập trải nghiệm những bài kinh còn lại của đức Phật.
Do giới thiệu một cách quá giới hạn, đạo Phật Tổ sư đã không trình bày một đạo Phật mang tính hệ thống và toàn diện. Do đó người tu học theo đạo Phật Tổ sư nếu không có bối cảnh hành trì nghiên cứu một cách có hệ thống đạo Phật Nguyên chất có lẽ sẽ trở nên phiến diện hoặc sẽ rơi vào trạng thái cực đoan.
Phiến diện theo nghĩa cho đạo Phật Tổ sư là số 1, cực đoan theo nghĩa ai hành trì khác với pháp môn của mình thì không đồng tình, thậm chí còn có thể phản đối và tấn công.
Thái độ nhiệt tình đã làm cho họ có những ứng xử vừa nêu.
Đạo Phật Tổ sư chỉ tồn tại ở những nước theo Đại Thừa thôi. Phật giáo tại Tích Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia… nói chung là Phật giáo Nam Truyền, tức là truyền bá về miền nam của nước Ấn không quan trọng hóa người truyền bá học thuyết mà quan trọng là quay trở về với đạo Phật nguyên chất thôi. Các vị tu sĩ trở thành một công cụ, một phương tiện giới thiệu giáo pháp chân chính của đức Phật để các thế hệ hành giả theo đó mà hành trì.
Trong đạo Phật Tổ sư thì vị khai sáng là quan trọng nhất, thậm chí là quan trọng hơn cả Phật. Vị Tổ sư đó giới thiệu bài kinh gì thì các tín đồ sẽ thọ trì và truyền bá bài kinh đó. Kết quả là đạo Phật Tổ sư đã không giúp cho người hành trì có được kiến thức nền tảng và hệ thống về toàn bộ nền minh triết của đức Phật. Vốn là một đóng góp rất lớn của đức Phật cho lịch sử tư tưởng của nhân loại trên nhiều phương diện triết học, tôn giáo và xã hội.
Trong đạo Phật Tổ sư người hành trì sẽ không biết đến nhận thức luận, đạo đức học, chính trị học, xã hội học, giải thoát học mà đức Phật đã dạy trong rất nhiều các bài kinh. Vì người ta chỉ được hương dẫn một bài kinh hoặc tối đa là ba bài kinh quan trọng nhất trong hệ thống pháp môn.
Người theo đạo Phật Tổ sư sẽ có một niềm đam mê ở chỗ Phật Pháp được trình bày một cách rất đơn giản, thậm chí là đơn điệu. Tạo một cảm giác là dễ thực tập, đơn giản, sơ sài cũng có kêt quả an vui, hạnh phúc, giác ngộ thậm chí la giải thoát.
Những hứa hẹn như thế đã làm cho đạo Phật Tổ sư nhanh chóng có một chỗ đứng trong lịch sử truyền bá học thuyết của đạo Phật.
Thực tế điều đó có đạt được hay không lệ thuộc hoàn toàn vào nhân quả tu tập và phương pháp tu tập chứ không phải lệ thuộc vào lời hứa hẹn của người truyền bá pháp môn.
Vào thời đức Phật còn sống, đức Phật không hề truyền bá đạo Phật pháp môn đơn điệu, mà chúng ta cần luôn nhớ các Tổ sư thường nói rằng pháp môn đó là do đức Phật dạy, do đức Phật truyền bá. Thực tế thì không.
Nếu lạm dụng khái niệm pháp môn để chỉ cho lời dạy của đức Phật thì pháp môn duy nhất mà đức Phật truyền bá chính là Tứ diệu đế. Dạy chúng ta nghệ thuật giải quyết vấn nạn khổ đau qua bốn bước:
Bước 1: Thừa nhận bế tắc khổ đau là một hiện thực.
Bước 2: Truy tìm nguyên nhân: tham ái, sân hận, si mê chấp thủ.
Bước 3: Thừa nhận trải nghiệm Niết Bàn – đỉnh cao nhất của hạnh phúc.
Bước 4: thực tập Bát chánh đạo, chia làm 3 nhóm:
1.- Nhóm đạo đức học, gồm có: Chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp.
2.- Nhóm thiền định, gồm có: Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
3.- Nhóm nhận thức luận, gồm có: Chánh kiến và chánh tư duy.
Do đó nội dung của đạo Phật pháp môn là quá đơn giản, mà theo chúng tôi, không thể đủ sức giúp đỡ cho hành giả giải quyết các vấn nạn khổ đau.
Đạo Phật Tổ sư tại Trung Quốc gồm có 10 pháp môn, còn được gọi là 10 trường phái. Nổi tiếng nhất là Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông, Pháp Hoa tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Tam Luận tông…
Khi các nhà Phật hoc Nhật Bản sang du học tại Trung Quốc và nhập cảng Phật học Tổ sư đó về đất nước Nhật Bản thì từ 10 pháp môn hay là 10 trường phái của đạo Phật pháp môn Nhật Bản được nâng lên thành 14 pháp môn, trong đó có mấy pháp môn liên hệ đến Tịnh Độ tông.
Tịnh Độ tông lấy ba kinh làm nền tảng: Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ làm trọng tâm thực tập hành trì, truyền bá và làm Phật sự.
Thiền tông của Trung Quốc lấy các bài kinh sau đây làm nền tảng: Kinh Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật gọi tắc là kinh Kim Cương – lấy nội dung phá chấp, kinh Viên Giác nhấn mạnh về thiền chỉ và thiền quán, và một phần của kinh Thủ Lăng Nghiêm – dạy về các cảnh giới tâm linh từ Alahan lên Bồ Tát, Duyên Giác và Phật. Và kinh đơn giản nhất, phổ thông nhất là Bát Nhã Ba La Mật – kinh quán chiếu tổ hợp tâm vật lý, thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư nhận thức là vô ngã. Nhờ đó nâng cao vai trò trí tuệ vượt qua tất cả nổi khổ niềm đau do rũ bỏ được sự chấp trước.
Cốt lõi ngắn gọn nhất của Thiền tông Trung Quốc là Chánh niệm tỉnh thức được giới thiệu bằng khái niệm mới là vô tâm. Tức là không dính mắc tâm thức mình theo nghĩa chấp trtước vào các hiện tượng giác quan mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý hình dung.
Mật tông dựa vào một số bài kinh căn bản về mật chú. Các thần chú phổ thông nhất là Đại Bi, Ngũ Bộ chú, Thập chú và phổ biến nhất là chú Um Ma Ni Bát Di Hồng.
Pháp Hoa tông lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng, kinh dạy về bốn giai đoạn chỉ bày, hướng dẫn và trải nghiệm Phật tính vốn là một tiềm năng ở mọi chúng sinh, dầu chư phàm, dầu lúc làm thánh Phật tính đó không tăng không giảm. Nhờ đó con người rũ bỏ được mặc cảm phàm phu, sống với đời sông thánh thiện. Hướng phàm phu trở thành chân nhân, từ chân nhân trở thành thánh nhân, từ thánh nhân hướng đến Phật quả, đạt được giác ngộ, giải thoát. Quy ba thừa trở về nhất thừa, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát trở về Phật quả duy nhất thôi.
Đây là một bài kinh triết lý của nó quá cao siêu, chỉ hợp với tầng lớp trí thức thôi. Ở các trường Phật học trên toàn cầu kinh Pháp Hoa thường được giảng ở năm thứ 2 của chương trình thạc sĩ Phật học, còn số khác ở năm thứ nhất của chương trình tiến sĩ Phật học.
Tại Việt Nam kinh Pháp Hoa được giảng dạy ở chương trình cử nhân Phật học. Tại vì nếu không có các kiến thức nền tảng thì người học sẽ không hiểu dược triết lý cao siêu chứa đựng trong từng phẩm kinh, trong từng đoạn kinh, trong từng trang kinh và trong từng câu kinh.
Tương tự Hoa Nghiêm tông, lấy kinh Hoa Nghiêm triết lý duyên khởi trùng trùng vô tận làm nền tảng.
Luật tông, lấy đạo đức giới luật tức là phương diện đạo đức học Phật dạy làm nền tảng.
Tam Luận tông, lấy 3 bản luận căn bản của Phật giáo Đại Thừa làm nền tảng.
Do vì dựa vào một số bài kinh làm nền tảng truyền thống của Đạo Phật Tổ sư đã không quan tâm đến phần lớn bài kinh của Phật dạy cho mọi thành phần và đối tượng trong xã hội.
Lúc đầu Hồng Danh Sám pháp gồm có 8, 9 lạy và một bài kinh sám nguyện về sau này được phát triển thêm Nguyên Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Mục Liên Sám pháp, hoặc Ngũ Bách Danh rồi vạn Phật.
Ngôn ngữ các Sám văn quá thống thiết phân tích về nổi khổ của nhân khổ một cách quá chi chít đến đọ ai đọc quá nhiều về các nghi thức Sám pháp sẽ rất khó có thể mạnh dạn làm việc gì đó vì đụng cái gì cũng sợ tội, làm cái gì cũng sợ tội. Đó là điều mà đức Phật không có khuynh hướng giảng dạy như thế.
Triết lý Phật dạy đó là nhận diện nguyên nhân khổ, kết thúc nó bằng Bát Chánh Đạo chứ không quá đào sâu về nổi khổ niềm đau vì có thể dẫn đến tình trạng bội thực do chánh nản, tuyệt vọng, yếm thế, bi quan, v.v…
Các bài kinh đức Phật dạy về nghệ thuật tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, xã hội, giáo dục, văn hóa, đạo đức và nhiều phương diện khác bao gồm các kỹ năng chuyển hóa nổi khổ niềm đau hầu như không được các đạo Phật Tổ sư qua các pháp môn giới thiệu.
Hơn thế nữa do việc truyền bá khuynh hướng này, nhiều vị tổ sư truyền bá đạo Phật pháp môn đã nhồi sọ đệ tử, tín đồ rằng những bài kinh về Nhân thừa tức là Nhân bản, những bài kinh về xã hội,kinh tế, văn hóa, giáo dục, gia đình và chuyển hóa nổi khổ niềm đau là kinh tiểu thừa, tức là chỉ phục vụ cho những hàng căn cơ thấp kém, tâm lý hạ liệt. Từ đó, nếu không có điều kiện nghiên cứu rộng hơn, sự nhồi sọ qua giáo dục đó đã làm cho rất nhiều thế hệ tăng ni không bận tâm đọc những bài kinh do chính đức Phật dạy. Kết quả là rất nhiều thế hệ tăng ni trải qua 20 thế kỷ tại Trung Quốc và Việt Nam chỉ biết vỏn vẹn chưa được 10 bài kinh. Đó là một tổn thất lớn cho việc hành trì và tu học.
Cực đoan hơn, một số trường phái Tịnh Độ tông đã cho rằng ai đọc tụng các bản kinh ngoài kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ, niệm các danh hiệu Phật ngoài danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là tạp tu.
Họ đề cao vấn đề chuyên tu, tức là các bài kinh đó thôi, pháp môn niệm Phật thôi.
Sự cực đoan này là rất nguy hiểm vì điều đó dẫn đến mù chữ Phật Pháp. Tức là biến những người tu học Phật hoàn toàn không có kiến thức về Phật Pháp ngoài kiến thức về ba bài kinh căn bản vừa nêu.
Như vậy kiến thức Phật của chúng ta bị lệ thuộc vào người hướng dẫn, trong khi đức Phật không khích lệ thế.
Trong nhiều bài kinh đức Phật khẳng định nhiều lần rằng: Tôi chỉ là người chỉ đường thôi! Chỉ đường là người chỉ phương pháp, chỉ cần câu. Có phương pháp, có cần câu chúng ta có vô số các con cá mới, thậm chí lớn hơn rất nhiều lần với các con cá.
Do tình thương cha mẹ, người thân có thể cho chúng ta kế thừa hoặc theo luật pháp chúng ta được quyền kế thừa.
Chỉ đường, chỉ phương pháp nhờ đó người có phương pháp giỏi có thể khám phá, phát minh,, sáng kiến, sáng tạo những phương pháp mới có giá trị tương đương, những công thức mới có già trị cao hơn.
Vế bản chất đạo Phật pháp môn và đạo Phật Tổ sư hứa hẹn rất nhiều. Khuyên chúng ta chỉ dựa vào bài kinh A, bài kinh B, bài kinh C là có thể đạt được giác ngộ, an lạc, giải thoát.
Hứa hẹn là một chuyện, nhưng kết quả không phụ thuộc vào hứa hẹn mà phụ thuộc vào nhân quả thực tập và phương pháp luận thực tập.
Trong y khoa không có bài thuốc nào trị bá bệnh, trong tâm linh cũng không có bài kinh nào trị bách bệnh của chúng sinh và đây là lý do căn bản suốt 45 năm sau khi giác ngộ, đức Phật đã thuyết giảng trên dưới ba chục ngàn bài kinh. Nếu một bài kinh mà có thể giải quyết hết, hai ba bài kinh có thể thâu tóm hết triết lý của Ngài thì Ngài chẳng phải nhọc công đi giảng nhiều làm gì cho mệt.
Truyền bá pháp môn rất đơn giản, chỉ cần năm ba bữa là nói hết nội dung rồi. Người thông minh chỉ cần vài ba tiếng là nắm bắt được cốt lõi của pháp môn rồi. Và đạo Phật pháp môn là đạo Phật rất đơn giản, rất dễ hiểu, rất bình dân.
Cái gì quá đơn giản, quá dễ hiểu, quá bình dân thì không thể nào đáp ứng cho các nhu cầu phức tạp mà vốn cuộc đời là thế.
Nói như vậy để chúng ta thấy trong đạo Phật Tổ sư và Pháp môn những giới hạn là điều không thể tránh khỏi. Vì Việt Nam ảnh hưởng từ Trung Quốc nên đạo Phật Tổ sư và Pháp môn có chỗ đứng rất mạnh. Mạnh đến độ người ta nghĩ rằng đạo Phật Tổ sư và đạo Phật Pháp môn do từ chính đức Phật dạy.
Đức Phật không làm thế. Không có lý do gì đức Phật giảng hơn ba chục ngàn bài kinh rồi đức Phật khẳng định bài kinh này quan trọng, các bài linh còn lại không quan trọng, không có chuyện đó. Bài kinh nào cũng quan trọng, cho đối tượng nào, giải quyết vấn nạn gì, trong tình huống nào nên ứng dụng nó, đức Phật nói rất rõ.
Trong ba pháp môn phổ biến: Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông thì Thiền tông của Trung Quốc và Nhật Bản là dài dòng văn tự nhất đối với 10 pháp môn còn lại. Nhưng bao giờ các vị thiền sư cũng nói rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”
Các vị đó nói ngôn ngữ thiền nhiều hơn các pháp môn còn lại, thậm chí đến vài chục lần là khác.
Trong Đại Tạng kinh của Trung Quốc và Đại Tạng kinh do hai giáo sư Nhật làm tổng biên tập vào thập niên 191x đến 192x thì văn học Thiền dài gấp vài trăm lần so với các văn học còn lại, và nhiều nhiều lần so với văn học của Tịnh Độ tông. Nghĩa là văn tự không được bỏ đi, văn tự vẫn được sử dụng như một công cụ.
Gọi là “giáo ngoại biệt truyền” nghĩa là kêu người ta không nên tin vào kinh điển, không còn lệ thuộc vào kinh điển của Phật dạy mà dựa vào các vị thiền sư. Những lời giảng dạy như thế, dựa vào đạo Phật Nguyên Chất là không thể nào chấp nhận được.
Ở đây chúng ta không phê phán đến các pháp môn mà chúng ta chỉ dựa vào lời kinh Nguyên Chất để đánh giá các khuynh hướng.
Về trường phái triết học và tôn giáo, chúng ta phải dựa vào văn bản học của người sáng lập. Người tu học theo Phật không thể không đọc các bản kinh do chính đức Phật dạy đó.
Đằng này giáo ngoại biệt truyền là không dựa vào kinh Phật chỉ chỉ thẳng tâm người để kiến Tánh thành Phật thôi. Thực tế thì trong lịch sử Trung Hoa chưa có ai thành Phật, nhưng mà học thuyết của họ là quá dễ dàng, chỉ cần thấy được Tính là thành Phật. Theo cách thức này có lẽ đã có triệu triệu vị Phật trong lịch sử của Trung Quốc rồi, mà thực tế thì không.
Phương pháp thiền học của Trung Quốc là công án và thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói nguyên ngữ khi chưa có tác dụng can thiệp của ý thức nhị nguyên. Công án cũng là một được nâng lên thành điển tích vì nó quá nổi tiếng và được quá nhiều thiền sư sử dụng để khai tâm điểm trí cho các thiền sinh của mình để từ bỏ chấp trước. Mở tâm khai trí để đạt được kết quả tu tập nhất định nào đó. Chẳng hạn như là câu: “Trước khi cha mẹ của ta chưa sanh ra đời bản lai diện mục thật của mình là gì? Hoặc “Muôn pháp trở về một, một trở về chỗ nào”.
Tức là mục đích sử dụng những câu hỏi không phải để tìm giải pháp, nương tâm vào câu hỏi để tâm không còn đính mắc cảnh trần xung quanh, nhờ đó thế giới và tiềm lực của ý thức nhị nguyên bị kết liễu.
Cho nên chuyển hoá được ý thức là giác ngộ giải thoát, mà muốn như thế phải làm sao cho ý thức chết đi, không còn cơ hội hoạt động.
Trong khi thiền theo đức Phật trong Bát Chánh Đạo chỉ là một trong tám yếu tố của con đường Chánh Đạo thôi chứ không phải là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất.
Thiền tông chỉ quan tâm đến thiền mà không để ý đến bảy yếu tố còn lại, mà theo đức Phật nếu thiếu nó chúng ta không thể nào có Chánh niệm, mà không có Chánh niệm thì không thể nào đạt đến Chánh định.
Đức Phật dạy hệ thống và toàn diện hơn.
Nhìn chung thì các pháp môn của đạo Phật Tổ sư chỉ là một phần rất nhỏ của Chánh niệm và Chánh định thôi. Công án và thoại đầu của Trung Quốc, thần chú và danh hiệu Phật của Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông chỉ là một cây nêm để theo nó Chánh niệm được có mặt. Vì tập trung vào câu thần chú, công án hay danh hiệu Phật chúng ta đồng thời lúc ấy không có cơ hội du lịch tách rời tâm khỏi thân, thân khỏi tâm, cho nên chúng ta đạt sự thiền chỉ và nhờ đó chúng ta rũ bỏ được một số nghiệp chướng nhất định.
Giá trị của việc này là không thể phủ định nhưng cho rằng chỉ cần chuyện đó thôi thì chúng ta nên đặt lại vấn đề. Vì chưa bài kinh nào đức Phật dạy chỉ chừng đó thôi là mọi việc được giải quyết. Đức Phật đã lặp đi lặp lại Bát Chánh Đạo là con đường, đạo lộ duy nhất biến một người phàm trở thành Chân nhân, biến Chân nhân trở thành Thánh nhân và Thánh nhân trở thành Phật. Không có con đường khác.
Một phương diện của Bát Chánh Đạo không thể làm nên giá trị như Bát Chánh Đạo được. Đây là điều mà chúng ta cần phải ghi nhận.
Đạo Phật Tổ sư qua các pháp môn đã có một chỗ đứng quá lớn, do đó nó đã làm cho giới trí thức, giới trẻ, mọi thành phần trong xã hội cảm thấy đạo Phật không dành cho mình. Cho nên họ đã quay lưng và không có nhu cầu tìm kiếm đạo Phật, nếu có chăng đến cầu phúc. Đó là một sự lỗ lã lớn và là một sự thiệt thòi lớn.
PHẦN HAI: GỢI MỞ VỀ NỘI HÀM CỦA ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT
Khái niệm Nguyên Chất là chúng tôi mượn từ tác phẩm mang cùng tên của thiền sư Nhất Hạnh. Các học giả người Anh và các học giả nói tiếng Anh nói chung sử dụng từ Early Buddhism – Phật giáo thời kỳ sớm, còn gọi là Phật giáo thời kỳ đầu để chỉ cho một hình thái đạo Phật trong thời đại của đức Phật cho đến khoảng ba trăm năm sau – tức là thế kỷ thứ ba trước Tây lịch.
Qua đến Trung Quốc thì đạo Phật mới lộ rõ hình ảnh của đạo Phật Pháp môn, tức là nó xuất hiện ở thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, khoảng 700 năm sau khi đức Phật nhập Niết Bàn.
Cho nên chúng ta tuần tự tìm về đạo Phật Nguyên Chất.
2.1.- KINH ĐIỂN
Trong suốt 45 năm đức Phật thuyết giảng trên dưới 30 ngàn bài kinh. Ta có thể phân loại các bài kinh đó thành các nhóm:
Các bài kinh dạy về nhân bản tức là giúp cho chúng ta trở thành con người có giá trị, lợi ích cho tha nhân. Các kinh này thuyết đại đa số vì đức Phật sinh ra đời là phụng sự cho chúng sinh, mang lại hạnh phúc an vui cho số đông, cho nhân loại và cho chư thiên.
Ba bài kinh đầu tiên được đức Phật thuyết giảng tại Vườn Nai gồm kinh: Đại chuyển pháp luân – còn được gọi là kinh Tứ Diệu Đế, kinh Vô Ngã Tướng và kinh Thế Gian Bốc Cháy.
- Bài kinh Tứ Diệu Đế là phương pháp luận, giải quyết các vấn nạn khổ đau của con người theo cách thức phân tích hai lớp nhân quả. Nhân quả khổ đau, quả trước nhân sau. Nhân quả hạnh phúc, Niết Bàn trước và con đường thực tập sau. Đây là cách để chúng ta giải quyết các vấn nạn chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, gia đình và cá nhân. Không có vấn nạn gì trên cuộc đời này mà không thể áp dụng Tứ Thánh Đế để giải quyết khúc mắc. Đó là pháp môn quan trọng nhất.
- Bài kinh Vô Ngã Tướng là nghệ thuật áp dụng tâm lý học để giải quyết nỗi khổ niềm đau và tách ly nỗi khổ, niềm đau ra khỏi thân và tâm bằng sự quán chiếu niệm chân chánh theo công thức: Cái này không phải là tôi, không phải là sở hữu của tôi, không phải là tự ngã của tôi và theo vậy, tôi không để cho tôi bị kẹt vào nỗi khổ, niềm đau kẹt vào cái này, cái kia, quá khứ, hiện tại, vị lai.
Dầu tôn trọng Luật pháp và quan hệ dân sự, đức Phật vẫn dạy chúng ta đang khi đối diện với nỗi khổ niềm đau phải quán vô ngã để ta bóc đi nỗi khổ niềm đau ra khỏi thân và tâm, mà vốn đó là nơi liên kết với khổ, chứa chấp khổ, vướng dính với khổ.
- Kinh Thế Gian Bốc Cháy nói về thế giới giác quan, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm và nó đốt cháy con người bởi những sự khao khát đòi hỏi những nhu cầu hưởng thụ. Con mắt đốt cháy nhiều người nhất, con mắt liên hệ đến mẫu mã, thời trang, màu sắc, hình thù, vóc dáng, du lịch, trang sức phẩm. Và hầu như là nó tiêu thụ nhiều nhất trong các giác quan còn lại. Nếu không khéo làm chủ các giác quan chúng ta bị các giác quan đốt cháy, tức là biến mình trở thành nô lệ. Và thông điệp của đức Phật là tiêu thụ ít, ăn uống ít, ngủ nghỉ ít, làm việc nhiều, phụng sự nhiều để làm hạn chế sự tối đa vướng dính vào chúng. Và giá trị nhân sinh ở đây rất là cao quý.
Đó là ba bài kinh đầu tiên đức Phật thuyết giảng ở Vườn Nai cho năm người bạn đồng tu.
Rất tiếc Trung Quốc không giới thiệu ba bài kinh này cho cộng đồng quần chúng phật tử.
Có nhiều tu sĩ nếu không tham gia các trường Phật học có lẽ cũng không biết ba bài kinh vừa nêu, từ lúc đi tu cho đến lúc nhắm mắt lìa cõi đời.
Những nội dung kinh căn bản của đạo Phật Nguyên Chất gồm có:
Kinh Trường Bộ, tập hợp 32 bài kinh. Bao gồm những bài kinh đối thoại liên tôn giáo, liên triết học. Đức Phật chỉ ra cốt lõi triết lý của Ngài để giúp chúng ta so sánh đối chiếu với những triết lý khác, những điểm giống và khác. Do đó chúng ta có thể giải thích từ góc độ triết học và tôn giáo giúp cho người nghe có thể hiểu thấu đáo lời Phật dạy và giá trị của nó trong đời sôngs thực tiển.
Kinh Trung Bộ tập hợp 152 bài kinh có độ dài trung bình, tóm thâu tất cả các triết lý cao quý nhất của đạo Phật. Không có gì không có trong các bài kinh này.
Kinh Tương Ưng, tập hợp mấy ngàn bài kinh ngắn, liên hệ đến học thuyết thế giới trùng trùng duyên khởi, vô thường, vô ngã và ứng dụng Tứ Điệu Đế trong việc quán thế giới và con người để cho từ đó con người thoát ly khỏi mọi chấp trước, viển ly mọi nỗi khổ niềm đau.
Kinh Tăng Chi tập hợp hàng ngàn bài kinh ngắn, bắt đầu bằng con số 1 và kết thúc ở con số 11, để cho người đọc dễ nhớ cốt lõi những điều Phật dạy.
Kinh Tiểu Bộ là một tuyển tập gồm 15 tập. Mỗi tập đi về một chuyên đề nhằm giúp cho người đọc đào sâu vào những màng triết lý mang tính chuyên đề.
Đó là toàn bộ kho tàng kinh điển Nguyên Chất mà đức Phật truyền dạy.
“Này các đệ tử, xưa cũng như nay, Như Lai chỉ tuyên bố hai điều: Thứ nhất vạch mặt chỉ tên khổ đau, và thứ hai là chỉ ra con đường dẫn tới an vui hạnh phúc, chấm dứt mọi khổ đau (tức Bát Chánh Đạo còn gọi là Con Đường Trung Đạo)”.
Kinh Pháp môn so với các kinh Nguyên Chất quá ngắn, quá ít. Hệ thống kinh điển Nguyên Chất như vậy là quá đầy đủ. Khi chúng ta bị vướng vấn nạn khổ đau gì chúng ta nên khéo áp dụng đúng bài kinh, kết quả có mặt ngay liền lập tức.
Vì đạo Phật Tổ sư hay Pháp Môn, ai thất tình, khổ đau, thất nghiệp hoặc khủng hoảng, sợ hãi đến chùa hỏi, có câu trả lời duy nhất là ráng niệm Phật đi, hết!
Đó không phải là giải pháp, đó là tránh ngang thôi. Mà đức Phật dạy hãy phân tích nguyên nhân, lý do căn cội ở chỗ nào hãy tìm cho ra bằng được, nó đòi hỏi đến sự động não, các nỗ lực truy nguyên và phân tích. Có nguồn gốc của lý trí và hệ thống, chúng ta mới phân tích, lần ra được manh mối của bế tắc để khắc phục chúng. Tức là hai phương pháp giữa đức Phật và các Tổ sư là khác nhau, dĩ nhiên đức Phật vượt trội hơn nhiều.
2.2.- CÁC NỘI DUNG CỦA ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT
Dù là thuyết giảng trên dưới 30 ngàn bài kinh, chúng ta có thể phân nhóm như sau: Nhận thức luận, nhiều bài kinh dạy về thế giới quan, nhân sinh quan, phủ nhận nguyên nhân khởi thủy là Thượng Đế và các Thần linh. Không cháp nhận sự đơn độc mà thế giới này vẫn hành theo một tương tác cái này có cái kia có, cái này không, cái kia không, tương duyên tương thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau, chi phối nhau.
Về con người thì đức Phật khẳng định vai trò độc tôn so với các Thần linh. Các loài động vật cho nên đừng luống uổng cuộc sống con người, hãy làm cho nó trở nên có ý nghĩa từng tích tắc thời gian.
Về xã hội học, đức Phật trong hàng trăm bài kinh chủ trương đạo Phật bình đẳng công bằng, không ai chà đạp sức lao động của ai, không ai ăn hiếp ai.
Luật pháp có thể sờ đầu, sờ gáy bất kỳ ai làm sai, ảnh hưởng tiêu cực đến những thành phần còn lại, không có trường hợp ngoại lệ.
Bình đẳng giới được đức Phật đề cao, đạo Phật không chấp nhận trọng nam khinh nữ. Nhân quyền tức là các quyền căn bản của con người được đức Phật xem là những yếu tố không thể thiếu.
Về đạo đức học, đức Phật khẳng định đạo đức cho con người bình thường và đạo đức cho các bậc Thánh.
Đạo đức cho con người bình thường gồm có 5 điểm:
- không giết người, bảo vệ hòa bình.
- Không trộm cắp, chia sẻ sở hữu.
- Không tà dâm, chung thủy vợ chồng.
- Không lừa dối, phát ngôn chân thật, hòa hợp, lịch sự, nói những lời có lợi ích.
- Không rượu và ma túy, giữ sức khỏe để chăm sóc cho người thân và bản thân.
Về chiều sâu đạo đức, đức Phật nhấn mạnh đến động cơ và đạo vị của tâm, ảnh hưởng đến các hành vi, lời nói và việc làm. Nên làm chủ động cơ, làm chủ tâm chúng ta sẽ làm chủ hành vi đạo đức.
Chết không phải dấu chấm cuối cùng cho nên con người tiếp tục chịu trách nhiệm trước các hành động của mình dầu vô tình hay có ý, nhờ đó mà con người trở nên cẩn trọng hơn và quý trọng các hành vi có giá trị hơn.
Về giải thoát luận, đức Phật trình bày con đường Tứ Diệu Đế, quan trọng nhất là Bát Chánh Đạo có thể giải quyết tất cả các vấn nạn.
Đó là 5 mảng nội dung quan trọng nhất mà tất cả các bài kinh của đức Phật liên hệ đến hoặc được phân loại vào các nhóm chuyên môn.
Phân loại theo cấp độ tiến hóa tâm thức thì các bài kinh của Phật có thể được chia theo nhóm:
1- Nhóm nhân bản – tức là dạy làm người có giá trị. Nhóm thiên thừa – tức là dạy con người có phước báu để tiếp tục làm con người ngoài hành tinh. Tri thức khoa học, môi trường sống, tướng trạng và những giá trị cao quý khác tốt hơn là những con người trên hành tinh mà chúng ta đang sống.
2- Nhóm Thanh Văn Thừa – dạy chúng ta trở thành bậc Thánh, kết liễu sanh tử luân hồi, tái sanh theo sự phát nguyện, có mặt trong các cảnh giới để tiếp tục hóa độ quần sanh hữu duyên.
3- Nhóm Bồ Tát Thừa – nhấn mạnh đến nghệ thuật nhập thế, truyền bá con đường vô ngã vị tha để xây dựng một xã hội hòa bình thịnh vượng, phát triển bền vững. Không chờ đến lúc mình thành Phật sự dấn thân đó vẫn diễn ra trong mọi tình huống không gian, thời gian.
4- Nhóm Phật thừa – là con đường quan trọng nhất, cao nhất giúp cho hành giả sau khi chứng đắc Thánh quả Alahan đạt được Bồ Tát thì phải hướng tâm để đạt được Phật quả. Đó là niềm ao ước quan trọng nhất mà các hành giả cần hướng về.
Do đó đạo Phật Tổ sư dạy đi theo pháp môn sẽ được giải thoát là nói khích lệ thôi, đó là tiêu chí quá cao mà người tại gia không thể đạt được. Một triệu người xuất gia tìm được 10 người giải thoát đã khó, đang khi họ tu trọn thời gian, có không gian tâm linh chuẩn, có điều kiện, có phương pháp, có kiến thức, có người hướng dẫn, có người đồng hành và nhiều yếu tố thuận lợi khác hơn người tại gia và nhất là họ chuyển hướng năng lượng tính dục mà người tại gia hướng về bị dính kẹp, và đây là yếu tố dẫn tới tái sinh.
Nói theo đạo Phật Nguyên Chất, chưa ai chuyển hóa được tham ái, tức là tình yêu và tính dục, người đó vẫn mãi mãi là người phàm.
Cho nên những lời dạy khích lệ của Tổ sư sẽ không có kết quả thực.Ví dụ như lạy Phật một câu phước sinh vô lượng, niệm Phật một niệm tội diệt hà sa. Niệm Phật nhất tâm bất loạn vãng sanh Tây phương, cái đó không có thật.
Tại vì tu là quá trình chuyển hóa lâu dài, khích lệ thì nói điều gì cũng được, miễn giúp cho người thiếu tự tin có thể phát khởi tâm Bồ Đề, tâm tốt để làm được những việc có giá trị. Hiểu như thế thì được, còn hiểu những lời khích lệ là có giá trị thực thì không nên. Vì nhân quả quyết định mọi thứ không phải lời khích lệ.
Ngôn ngữ Phật học của Trung Quốc thường dùng đao to búa lớn, dùng để khích lệ là chính. Thí dụ: Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật. Cái đó còn lâu mới có, có mơ mộng cũng không được. Buông dao đồ tể thì còn phải vô nhà tù, trả nợ tù vài chục năm, rồi phải làm việc rất cật lực, thay đổi tâm tính để người ta thấy được mình có tiến bộ, người ta ân xá, mãn hạn tù rồi tiếp tục tu. Làm gì có chuyện buông dao đồ tể lập tức thành Phật, đơn giản như thế, chuyện đó không có thật.
Nói cách khác là đạo Phật Trung Quốc, đạo Phật Pháp môn đi vào hai thái cực: Một bên là đơn giản hóa đạo Phật, bao gồm Mật tông, Tịnh Độ tông. Một bên là quá… gồm có Thiền tông và những tông… với những bài kinh quá cao, khó hiểu.
Các đối tượng bình thường còn lại là ít được quan tâm đến.
2.3.- CỐT LÕI HÀNH TRÌ CỦA ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT
Như đức Phật đã xác định: Bát Chánh Đạo là quan trọng nhất trên con đường tâm linh. Việc thực tập Bát Chánh Đạo phải nhấn mạnh ba phương diện, đó là Đạo Đức, Trí tuệ và Thiền định.
Đạo đức là không thể thiếu vì người thiếu đạo đức, theo đức Phật không thể nào tập trung để tu thiền được bởi vì họ sống với nổi day dứt lương tâm và sợ hãi đeo bám. Và đây cũng là tâm sự chung của người thoát khỏi các bản án tử hình do tình ngay lý gian.
Chẳng hạn như Lý Nguyên Chung, giết người cướp của ở tuổi 16, rồi ông Nguyễn Thanh Chấn là bị hàm oan, tuyên phạt chung thân sau 10 năm tù mới phát hiện ra sát nhân đích thực. Ông Nguyễn Thanh Chấn được tha tội.
Lý Nguyên Chung thì trả lời báo giới rằng trong suốt 10 năm qua luôn luôn sống trong nổi lo sợ bị trừng phạt, khủng hoảng tâm lý, đau đớn, ray rứt, bần thần, không yên. Nay mới cảm thấy an lành khi chánh thức chịu tội về việc giết người mình đã tạo ra 10 năm trước lúc mình còn là một vị thành niên.
Đó một ví dụ cho chúng ta thấy về cách tác động của những điều và đời sống phi đạo đức đã ảnh hưởng đến đời sống nên con người không thể đạt được thiền định và do vậy người phạm tội không thể đạt được trí tuệ vì trí tuệ là kết quả của sự tu tập chuyển hóa từ tâm thức thông qua các pháp môn thiền định.
Khi chúng ta bỏ qua chánh kiến, chánh tư duy để khi niệm Phật, trì chú, ngồi thiền các vọng niệm do tà kiến, biên kiến, thường kiến, đoạn kiến, giới cấm thủ tác động chi phối làm cho chúng ta không thể nào tập trung đạt được Thiền Chỉ tức là sự vắng lặng hay Thiền Định tức là sự quán soi để kết thúc mọi nỗi khổ, niềm đau.
Không cso chánh kiến, chánh tư duy chúng tâ tiếp tục rơi vào nôxi sợ hãi, thù hằn, oan trái, oan chấp, trách móc, hơn thua, lý luận và nhiều những yếu tố khác. Và nó làm cho chúng ta bị lẩn quẩn ở trong cuộc sống khổ đau.
Ngồi xuống chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái nói nhẩm trong tâm, nói nhẩm thì không nên lời. Chúng ta tạo nên một kịch bản độc thoại, mình vừa là người viết kịch bản vừa là đạo diễn vừa là diễn viên đóng vai chính mình và đóng vai người phản biện. Rất phức tạp. Quý vị cứ tập trung lại là thấy trong vòng 5, 20 phút đầu dù tu pháp môn Thiền, Tịnh, Mật chúng ta vẫn rơi vào trạng thái nói nhẩm trong tâm nhất là những người có thói quen nói quá nhiều thường ngày hoặc là những người hướng tâm… quá nhiều, không nói không rằng, cứ sống… thì tiến trình nói nhẩm làm cho người đó mất chánh niệm.
Cho nên phải thực hiện đạo đức để ta có được bình an, không sợ hãi lời thị phi, không sợ hãi lời oán trách, không sợ hãi các nỗ lực chọc gậy bánh xe phá đám của người khác vì chúng ta không có tội về luật pháp, không có lỗi về dân sự cho nên chúng ta thoát ra khỏi sợ hãi và lo âu.
Chánh kiến và chánh tư duy đã giúp cho chúng ta đạt được năng lực đó.
Thiền định bao trùm chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định giúp cho chúng ta chuyển hóa các nỗi khổ, niềm đau đã có trong quá khứ hoặc đang vương vấn ở hiện tại và kết thúc nó trong tương lai.
Đó là tiến trình mà tất cả những người tu học theo Phật phải đi qua, không có sự lựa chọn khác.
Học thuyết… vãng sanh của Trung Quốc, đặc biệt là pháp môn Tịnh Độ tông là không có thật.
Mang người phàm vãng sanh Tây Phương, trong kinh A Di Đà, đức Phật định nghĩa Tây phương là nơi hội tụ của các bậc thượng thiện. Mà thượng thiện được định nghĩa là từ Alahan trở lên, chứ không phải là nơi tập hợp của những người còn phàm.
Đức Phật nói rất rõ trong kinh nhưng các vị Tổ sư của Tịnh Độ tông thì hạ thấp đạo Phật quá mức, đến độ người ta thấy đạo Phật quá dễ, quá dung dưỡng cho thành phần xấu ác. Mang người phàm sanh Tây Phương thì sau một thời gian ngắn chúng ta sẽ có Việt Nam 1, Việt Nam 2, Trung Quốc 1, Trung Quốc 2. Trong Việt Nam chúng ta có Saigon 1, Saigòn 2, Hải Phòng 1, Hải Phòng 2, đủ thế giới giang hồ trên đó hết, lập tức thế giới Tây Phương trở thành thế giới phàm phu.
Đạo Phật Tổ sư giống như Tây Y, đạo Phật Nguyên Chất giống như Đông Y, rất bài bản và có chiều sâu.
Đức Phật kết luận: “Này các đệ tử, không có sự giác ngộ thình lình, không có sự chứng đắc thình lình”. Rất hay, rất chuẩn. Đang khi các Tổ sư Trung Quốc nói: Đốn ngộ thành Phật, trực chỉ nhân tâm, kiến Tính thành Phật.
Chúng ta cần những câu khích lệ đó, nhưng đừng xem nó là chân lý thật.
Sau khi điểm qua đạo Phật Pháp môn và đạo Phật Nguyên Chất chúng tôi chỉ muốn nhắn gởi lời sau đây: Tất cả những người tu học Phật dù tại gia hay xuất gia phải học đạo Phật Nguyên Chất, phải hành trì đạo Phật Nguyên Chất, cái đó là cốt lõi, nền tảng quan trọng nhất mà chúng ta cần phải nương tựa và dựa vào.
2.- TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT ĐỂ PHỤC VỤ NHÂN SINH
Câu hỏi 1: Kính bạch Thượng tọa cho phép con được hỏi: Theo Thượng tọa bây giờ Phật giáo Việt Nam cần có những bước đi cụ thể như thế nào để thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, để quay lại với nguồn gốc của đức Phật thời xưa?
Đáp: Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Vì thế việc trao đổi chỉ mang quan điểm cá nhân thôi. Trước hết chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giới hạn và giá trị của các pháp môn được Việt Nam tiếp nhận từ Trung Quốc. Khi mình đánh giá bằng những thống kê xã hội học cụ thể đó, chúng ta sẽ rút ra được những bài học gắn kết với số lượng tín đồ. Tại sao vào năm 1945 chúng ta có khoảng 45 triệu dân, số lượng phật tử chiếm 80% dân số. Đến năm 2013 chúng ta có 90 triệu dân, số lượng phật tử chỉ còn 38% dân số. Con số là một dữ liệu thiết thực để đánh giá việc làm của mình. Buộc chúng ta không thể cho rằng, cứ cái gì của Trung Quốc truyền bá, cái đó là đúng và tôn thờ như đó là hệ quy chiếu chân lý được.
Và thước đo này sẽ giúp chúng ta tránh được quan điểm bất đồng, theo và không theo, ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Thứ hai, dựa vào lời dạy gốc của đức Phật, lấy dữ liệu văn hóa gốc và ngôn ngữ ở từng bản địa làm cơ sơ truyền bá cho người bản địa. Chúng ta cần mạnh dạn Việt Nam hóa đạo Phật. Hiện nay Trung Quốc đã Trung Quốc hóa đạo Phật, Tây tạng đã Tây Tạng hóa đạo Phật và các nước Nam Tông đã Nam Tông hóa đạo Phật. Đó là những mô hình kiểu mẫu. Chúng ta cũng cần có Việt Nam hóa đạo Phật. Từ năm 2006, Học Viện Phật giáo Việt Nam đã thành lập Khoa Phật Giáo Việt Nam để giới thiệu về các đặc sắc về triết học, văn học, lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, tông phái, trường phái, cách làm đạo, báo chí văn hóa nghệ thuật của Phật giáo Việt Nam.
Hiện nay, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại thành phố HCM là nơi duy nhất có khuynh hướng này. Ba học viện còn lại, 9 trường cao đẳng, 33 trường trung cấp Phật học còn lại hầu như chỉ giảng dạy Thiền Trung Quốc, Tịnh Độ Trung Quốc, các cao tăng Trung Quốc vào Việt Nam gần như chúng ta không quan tâm đến. Đó là mặc cảm tự ti về dân tộc. Nói cách khác là Giáo Hội cần có chính sách cải cách giáo dục Phật giáo toàn diện từ các cấp học và cấp học nào chúng ta cũng phải thể hiện tinh thần dân tộc về Phật giáo ở trong đó. Lấy Văn hóa Việt Nam làm nền tảng.
Thứ ba, Giáo Hội Việt Nam cũng cần có sắc lệnh về văn hóa. Trong đó ghi rõ các quy định về bản sắc văn hóa của Phật giáo Việt Nam. Trong kiến trúc mỹ thuật chùa, trong tượng Phật, về cách thờ phượng, về nghi thức tụng đọc, về văn hóa ẩm thực, về văn hóa y phục, về văn hóa ứng xử, về văn hóa truyền đạo của cộng đồng Phật giáo Việt Nam giống và khác với các quốc gia còn lại vì họ có bối cảnh riêng. Hiện nay du khách quốc tế đi vào chùa Việt Nam có cảm giác là đang đi vào chùa Trung Quốc tại Việt Nam, vì tìm ra yếu tố Việt Nam trong đó quá ít.
Thứ tư, phải mạnh dạn thấy rất rõ là đức Phật chỉ truyền dạy một pháp môn duy nhất là Tứ Diệu Đế. Cốt lõi của Tứ Diệu Đế là tiếp nhận vấn đề, giải quyết vấn đề trên nền tảng nhân quả và con đường kết thúc toàn bộ vấn nạn khổ đau của con người là Bát Chánh Đạo. Đức Phật Thích Ca chưa từng dạy pháp môn thứ hai. Khái niệm 84 ngàn pháp môn do Trung Quốc đặt ra đã gây một ngộ nhận lớn. Và đẩy đạo Phật vào một tình thế là tự mâu thuẩn. Nếu đi theo pháp môn 1, chúng ta sẽ thấy đức Phật mâu thuẩn với 83.999 pháp môn còn lại. Một người tự mâu thuẫn với quan điểm của mình một lần thôi đã mất niềm tin. Huống hồ là mâu thuẫn chừng ấy quan điểm.
Tại sao Trung Quốc đặt ra 84 ngàn pháp môn? Tại vì Trung Quốc muốn đề cao 10 pháp môn mà họ sáng tạo ra có một chỗ đứng, cho nên họ phải đặt ra 84 ngàn pháp môn. Đố ai tìm ra được pháp môn thứ hai ngoại trừ Tứ Diệu Đế trong kinh tạng Pali, kinh tạng A Hàm và kinh tạng Đại Thừa. Và bằng cái sự xác nhận này chúng ta mới nhận thấy là 10 tông phái Trung Quốc là nỗ lực riêng của Phật giáo Trung Quốc, không can dự gì đến Phật giáo Việt Nam. Cái hay cái dở đó là dành cho người Trung Quốc chứ không dành cho người Việt Nam.
Nếu Trung Quốc hãnh diện tự hào và đề cao 10 tông phái và ngài Huệ Năng như là Phật sống thời Việt Nam chúng ta có ngài Trần Nhân Tông, vị vua duy nhất trên hành tinh đi tu, trở thành nhà minh triết lỗi lạc, vượt trội còn hơn cả ngài Huệ Năng.
Về triết lý và đặc điểm thì Phật giáo Việt Nam không thua kém gì Phật giáo trong khu vực và trên toàn cầu. Do đó Phật giáo Việt Nam không cần thiết phải vay mượn Phật giáo của các nước khác.
Chúng ta hãy cùng suy ngẫm câu chuyện trong kinh Pháp Hoa. Khi nghe đức Phật giới thiệu về kỷ năng truyền đạt, chứng minh, chứng ngộ và thể nhập tuệ giác, rất nhiều các vị Bồ Tát đến từ các hành tinh khác tình nguyện ở lại hành tinh ta bà khổ đâu này để truyền bá tri kiến Phật đạo. Đức Phật tán dương và ghi nhận sự phát tâm vĩ đại này, nhưng đức Phật đã không dụng đến cái nguồn lực ngoại lai đó. Ngài nói với các vị Bô Tát rằng: “Thưa các vị Bồ Tát, tại ta bà chúng tôi mặc dầu căn cơ vẫn còn kém vẫn có các tiềm năng Bố Tát làm được công việc này”. Vừa dứt lời, từ dưới đất vọt lên các Bồ Tát mới toanh, tu tập pháp dẫn thiền định, chứng đắc trí tuệ, dẫn thân nhập thế, làm đạo và truyền bá khai thị ngộ nhập tuệ giác Phật.
Quả địa cầu tượng trưng cho mảnh đất tâm, như là tượng trưng cho các tiềm năng, giống như trái đất có rất nhiều các quặng mỏ. Bồ Tát từ dưới đất vọt lên là các tiềm năng trở thành hiện thực do khai thác đúng với những chiếc chìa khóa đúng và họ được chứng minh là nguồn nhân lực địa phương. Nhưng đức Phật khuyên không nên lệ thuộc các mối quan hệ đó, dù là đồng minh. Bồ Tát ở các hành tinh khác là học trò của đức Phật thôi nhưng đức Phật vẫn không dùng đến, Ngài sử dụng lấy nguồn dữ liệu từ Bồ Tát mới toanh này để làm đạo.
Như vậy là dựa vào triết lý trong kinh tạng Pali và Đại Thừa, chúng ta thấy rất nhiều triết lý sâu sắc có thể làm tôn vinh được Phật giáo Việt Nam.
Nói cách khác, chúng ta phải có các chính sách bằng các pháp lệnh Phật giáo về vấn đề này sự thay đổi mới được áp dụng toàn diện từ trên Trung Ương đến địa phương. Bằng không những nỗ lực sẽ trở nên tự phát, những tiếng nói sẽ trở nên lẻ loi. Những con chim sẽ không thể nào lầm nên mùa Xuân. Và không khéo những tiếng nói đó sẽ bị kháng cự bởi quảnn đại da số.
Trở về với đức Phật gốc chúng ta sẽ thấy phương pháp của đức Phật toàn diện hơn, hiệu quả thiết thực hơn, siêu việt thời gian hơn và làm cho quảng đại các thành phần trong xã hội đến với đạo Phật hơn. Từ mọi phương diện chúng ta thấy đức Phật gốc với những lời dạy gốc có những độ chuẩn xác khá cao. Mặc dù trong quá trình biên tập kinh điển, mấy trăm năm sau khi Phật qua đời, có những điều đức Phật không nói, được các nhà biên tập thêm vào. Có những điều đức Phật nói quá sâu nhưng do giới hạn ký ức người ta đã quên đi. Sự kiện đó không thể không xảy ra. Nhưng dù sao đi nữa, các dữ kiện đó vẫn là nguồn dữ liệu khả kính nhất để chúng ta dựa vào đó thoát đi những ảnh hưởng từ phong tục, tập quán, văn hóa, tôn giáo ở những nơi mà đạo Phật có mặt như là một thực tại minh triết và đạo đức mới.
Cái gì có nội dung được trình bày mâu thuẫn nhau giữa kinh điển A và kinh điển B chúng ta được quyền đặt vấn đề và truy tìm nguồn gốc của nó qua việc phân tích văn bản học để cho ta biết lý do đoạn kinh đó, các câu kinh đó, các chữ kinh đó được thêm vào trong quá trình biên tập để chúng ta không lẫn lộn cái được biên tập trong quá trình phát triển Phật giáo với lời dạy gốc của đức Phật.
Câu hỏi 2: Để tạo cuộc cách mạng đổi mới, thay đổi lớn thì có khó không. Ai, như thế nào?
Đánh giá dưới hai góc độ: góc độ hoàn cảnh thực tiển và góc độ về hoàn cảnh đó. Các khó khăn từ hoàn cảnh không phải là nguyên nhân chính mà chính là thái độ về hoàn cảnh đó đã làm cho một số người ngại khó, sợ hãi bị cô lập, bị chỉ trích, bị phê phán, bị lên án, đã làm cho các nỗ lực cải cách Phật giáo khó có thể thành công. Thật ra, nền minh triết đạo Phật quá sâu, không cần phải cải cách. Ý niệm về một đạo Phật ngày nay không phải là thay đổi so với ngày xưa. Cải cách ở đây nghĩa là gì? Chúng ta phải điều chỉnh cách thức làm đạo để trở về với đức Phật gốc, và mỗi vị tu sĩ là một cánh tay nối dài để toả sáng nền minh triết và đạo đức, pháp và luật của đức Phật.
Cải cách Phật giáo không phải là tạo ra hình thái Phật giáo mới, trường phái mới mà quay trở về càng gần giống với đức Phật chừng nào thì càng hay chừng đó. Ngài Thái Hư trong những năm đầu thế kỷ 20 chủ trương cải cách Phật giáo, cải cách giáo lý, cải cách giáo sản (làm kinh tế để có tài chính truyền bá Phật giáo). Cải cách giáo lý thì không cần vì không ai tuệ giác hơn đức Phật, chỉ có cái là chúng ta phải làm thế nào giải thích giáo lý cho đúng với lời dạy của đức Phật thôi. Giáo lý là không cần thay đổi, thay đổi cách lý giải về nó, cách ứng dụng nó.
Trong bối cảnh của Việt Nam, những điều sau đây được xem là trở ngại lớn:
Thứ nhất: Phần lớn lãnh đạo Phật giáo Việt Nam trên toàn quốc là theo Tịnh Độ tông và trường phái đó đã có chỗ đứng trong lịch sử Việt Nam gần 2000 năm rồi. Thực phẩm tạo thành thói quen tiêu thụ. Kinh điển và cách thức hành trì tạo thành thói quen làm đạo. Thói quen làm cho người ta dễ kháng cự với những gì khác và xa lạ với mình. Nó giống như kháng thể nếu không loại trừ những vật lạ ra khỏi cơ thể thì khoanh vùng vật lạ đó để nó không truyền nhiểm thêm, không lan rộng thêm, không phổ biến thêm. Cho nên nếu không khéo chúng ta sẽ tạo ra một hệ thống kháng thể của một trường phái Phật giáo đã có mặt lâu đời ở Việt Nam. Ngăn chặn và không tán đồng cho khuynh hướng quay trở về với đức Phật gốc. Do đó khi làm chúng ta phải xác định rõ: không phải lập ra trường phái mới để trở thành vị tổ sư mới mà chúng ta đang làm công cụ để lời Phật dạy được nhiều người tiếp nhận hơn. Lấy đức Phật làm hệ quy chiếu, lấy chánh pháp làm cơ sở chân lý để chúng ta tránh bị lý giải lầm, hiểu sai, thì cái sự hưởng ứng cho phong trào quay trở về với đức Phật gốc mới dễ dàng được thực hiện.
Thứ hai: Một phong trào có tinh thần đề cao Tam Bảo và truyền bá Phật Pháp cần phải được thực hiện bằng ít nhất là một nhóm có cùng quan điểm và khuynh hướng. Nhóm đó có thể xuất thân từ nhiều trường phái nhưng có cùng khuynh hướng và lý tưởng đó, bất chấp sự chống đối và khác biệt từ những người đồng tu trong trường phái mà mình đang là một thành viên. Làm một cách có tổ chức, có phương pháp, có sự chia sẻ kinh nghiệm, có những nỗ lực vượt qua mọi khó khăn. Phong trào đó sẽ được lan tỏa và nhân bản rộng ở nhiều nơi khác từ một mô hình thành công. Nếu không có mô hình thành công người ta chỉ khen thôi chứ không ai theo.
Do đó cần đến chất xám tập thể và bàn tay của nhiều chư tôn đức.
Thứ ba: Một trong những hướng để cải cách đơn giản nhất là thay đổi toàn bộ nghi thức tụng niệm đang được phổ biết trong các chùa. Nghi thức hiện tại đang chia làm bốn thời: khuya, trưa, chiều, tối. Chủ yếu quan tâm đến các đối tượng: người già, người chết, người có tội, người bệnh. Chúng ta không giới thiệu trong các bài kinh đọc tụng về thế giới quan, nhân sinh quan, xã hội quan, đạo đức quan, tu tập quan và giải thoát quan từ đó đã làm cho nhiều thành phần đánh giá đạo Phật quá thấp hoặc hiểu sai đạo Phật dù họ không muốn.
Do đó trong một nghi thức cộng thông được sử dụng trên toàn quốc phải chứa ít nhất 6 mảng kinh vừa nêu. Mỗi một mảng đó chúng ta chọn trung bình 5 cho đến 10 bài kinh. Số lượng trang cho các tuyển tập kinh này có thể đến ngàn trang. Mỗi ngày đọc tụng trung bình 45 phút, tức khoảng 22, 25 trang. Sau khi đọc xong ngàn trang với trung bình chục bài kinh như vậy khó có thể xảy ra trường hợp mê tín. Người ta hiểu quá rõ tính toàn diện về minh triết trong lời Phật dạy, không có gì là không biết. Và do vậy các phật tử sẽ bớt đi sự lệ thuộc vào tu sĩ như hiện nay. Người ta có thể trực tiếp tu hành.
Nếu chúng ta không thay đổi nghi thức tụng niệm thì các nỗ lực chỉ là nỗ lực không có kết quả. Không riêng gì các nước theo Phật giáo Đại Thừa ảnh hưởng từ Trung Quốc, ngay cả các nước Nam Tông, nghi thức tụng niệm của họ do vua hoặc các học giả biên soạn đặt nặng quá nhiều về phước báu, về chư thiên, về quả phúc tái sinh, về các cảnh giới an lành, những lời chúc tốt đẹp chứ ít khi sử dụng các bài kinh gốc. Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia đi theo nghi thức này.
Thứ tư: Các phật tử cần phải ý thức rất rõ, không theo các thầy, các chùa một cách mù quáng mà phải dùng lý trí như đức Phật đã khích lệ trong bài kinh mười cơ sở của đức tin chân chính để chúng ta không góp phần biến đạo Phật thành mê tín. Và các phật tử cần phải dựa vào chánh tín làm nên tảng, không thờ Thượng Đế và thần linh trong nhà. Muốn như thế thì phải học Phật Pháp để không bị nỗi sợ chi phối. Các phật tử phải siêng năng nghiên cứu Phật Pháp và kinh điển chứ không nên bận tâm quá về phước báu. Có trí tuệ là có phước báu, có trí tuệ là thành tựu được sự nghiệp, có trí tuệ là có hạnh phúc.
Hãy đầu tư vào trí tuệ thay vì mê tín dị đoan, vào sự ban phước và tính mầu nhiệm, vào sự thiêng liêng vốn không có thật. Tất cả là quá trình của nhân quả thôi, người mê tín thì gọi đó là tính mầu nhiệm. Người trí tuệ thì gọi đó là tiến trình của nhân quả. Có làm có kết quả, có tu có an lạc chứ không có mầu nhiệm.
Câu hỏi 3: Thế nào là đạo Phật Nguyên Chất, thế nào là đạo Phật Pháp môn. Trên tinh thần thoát tục hành đạo của Phật giáo Việt Nam từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đến nay?
Đáp: Khái niệm về đạo Phật Nguyên Chất được chúng tôi vay mượn từ thiền sư Nhất Hạnh trong tác phẩm mang cùng tên được xuât bản tại Việt Nam hai, ba năm trở lại đây. Dùng khái niệm này chúng tôi muốn mô tả hình thái đạo Phật do chính đức Phật Thích Ca truyền bá và nó tồn tại đến 300 năm sau khi Ngài qua đời, mà trong văn học của Phật giáo thế giới gọi là Phật giáo “sớm”, ở Việt Nam gọi là Phật giáo Nguyên Thủy. Phật giáo Nguyên thủy là một khái niệm không chuẩn. Nguyên thủy với ai? Và nó dễ gây ra các mâu thuẫn. Còn gọi Nguyên Chất tức là nói về các lời dạy của đức Phật chưa thông qua sự biên tập của các nhà biên tập kinh điển, và đạo Phật Nguyên chất này được thể hiện qua pháp môn duy nhất là Tứ Diệu Đế, cách thức tu tập duy nhất là Bát Chánh Đạo với ba phương diện đạo đức, thiền định, trí tuệ.
Cốt lõi của đạo Phật Nguyên chất là xây dựng một thế giới an lạc, hạnh phúc bây giờ và ngay tại đây chứ không hứa hẹn cho con người sau cái chết. Đạo Phật Nguyên chất xây dựng một hình thái đạo Phật có hai đối tượng tu. Ai muốn giác ngộ trở thành thánh nhân thì chọn con đường xuất gia, tu chuyển hóa tham ái và tính dục để trở thành thiêng liêng và thánh vĩ. Còn lại là người tại gia không bận tâm đến con đường giải thoát. Họ sống đạo đức và tôn trọng pháp luật, không đắm nhiễm trên phước báu có được. Họ sống cuộc đời giàu có và biết chia sẻ cho các mảnh đời bất hạnh. Họ là cánh tay nối dài của minh triết Phật ở trong đời sống. Còn ai không thỏa mãn với hạnh phúc trần đời có thể chọn con đường xuất gia.
Ngoài Bát Chánh Đạo, sự thực tập của đạo Phật Nguyên Chất liên hệ đến 37 phẩm trợ đạo. Yếu tố đa văn và trí tuệ được lặp đi lặp lại 6, 7 lần. Đức Phật rất quan trọng vai trò chuyển hóa khổ đau của trí tuệ.
Còn đạo Phật Pháp môn là khái niệm chỉ đạo Phật Tổ sư do Trung Quốc khởi xướng, lấy những vị khai tông phái làm hệ quy chiếu chân lý. Đạo Phật Tổ sư và đạo Phật Pháp môn dựa vào một bài kinh và tối đa là ba bài kinh để làm nền tảng giới thiệu đạo Phật và do vậy rất thiển cận và mang tính phiến diện. Những bài kinh khác, các tín đồ theo các pháp môn này không tìm đọc, bị cấm đọc hoặc không khuyến khích đọc.
Trong đạo Phật Tổ sư hay đạo Phật Pháp môn, phương pháp chính của đức Phật không được giới thiệu đến. Ý chủ quan của các vị tổ sư đã trở thành nền tảng mà mọi người phải nâng lên thành chân lý. Như Pháp Hoa tông lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng. Trong các trường đại học trên thế giới, kinh Pháp Hoa được giảng dạy ở cấp thạc sĩ năm thứ hai. Một số nơi như Mỹ hay Nhật dạy ở cấp tiến sĩ năm thứ nhất. Còn ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên xem nó là kinh điển vỡ lòng cho những người mới bắt đầu quy y. Cái đó là không thích hợp căn cơ, làm sao hiểu nổi. Hiểu không nổi thì mê tín kinh điển. Đầu tư vào 7.200 công đức mà kinh này mô tả qua 6 giác quan từ việc thọ trì kinh Pháp Hoa.
Từ một bài kinh triết lý thành một bài kinh tín ngưỡng. Cực đoan hơn nhiều người đọc một chữ lạy một lạy. Tức là tín ngưỡng hóa kinh điển thay vì phải trí tuệ và ứng dụng trí tuệ từ kinh điển để giải quyết vấn nạn khổ đau. Cho nên, các vị tổ sư sáng lập tông phái thích cái gì thì chỉ giới thiệu cái đó thôi. Và do vậy người ta theo các pháp môn sẽ không thấy được một đạo Phật toàn diện mà vốn nó cần phải như thế. Do đó, muốn trở về với đức Phật gốc chúng ta cần phải nhận diện đạo Phật Nguyên chất vốn vượt lên trên rất cao và rất xa so với đạo Phật Pháp môn. Không nhìn ra được vấn đề này khi làm chỉ cần bị phê bình, chỉ trích là chúng ta đã bỏ cuộc giữa chừng rồi.
Rất nhiều người lý luận là, mấy chục thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu Bồ tát, bao nhiêu tổ sư chấp nhận đạo Phật Pháp môn, tại sao bây giờ lại đặt vấn đề. Cái ông đặt vấn đề đó có bằng với các tổ sư, có bằng với các Bồ tát, các cao tăng không. Đó là cái thế luận “cả vú lấp miệng em”. Chúng ta có thể vận dụng cùng công thức đó, chúng ta lý luận: "các vị tổ sư, các vị Bồ tát, các vị cao tăng Alahan đó có bằng với đức Phật không? Câu trả lời là không. Như vậy tại sao chúng ta không theo Phật mà phải theo tổ".
Sau khi nhận diện đạo Phật Nguyên chất và đạo Phật Tổ sư, việc làm của chúng ta là phải tôn vinh Phật, ca ngợi Chánh Pháp. Chúng tôi mơ ước đến một thời điểm nào đó khi mà hình thái đạo Phật Nguyên chất được phát triển mạnh thì mỗi ngôi chùa, tất cả các vị trụ trì đều phải giảng kinh thuyết pháp tối thiểu mỗi tuần một lần vào ngày chủ nhật. Chùa lớn, chùa vừa, chùa nhỏ đều phải làm việc đó. Hiện nay trên 70% số chùa không có làm việc thuyết giảng. Nhiều Tỉnh Hội Phật giáo lớn, cả Tỉnh Hội như vậy chỉ có một hai giảng đường thôi. Làm sao mà phật tử không bị mù chữ Phật Pháp được. Đó là sự thiếu trọng trách của Tăng sĩ chúng ta. Chúng ta quá thờ ơ với hạnh phúc của phật tử. Chúng ta chẳng quan tâm đến hạnh phúc của họ. Chúng ta đánh mất trách nhiệm truyền bá lời Phật dạy một cách có hệ thống. Để cho họ xây dựng một đời sống hạnh phúc hơn, an lạc và bền vững hơn.
Để làm được việc này sự góp mặt của các chư tôn đức là không thể thiếu.
Câu hỏi 4:Thời đại ngày nay, nương vào đâu để tứ chúng đồng tu, phật tử tại gia cũng như tu sĩ xuất gia, Pháp học và Pháp hành Bát Quan Trai cho có kết quả?
Bát Quan Trai Giới là những giới pháp Phật truyền dạy cho những người đang tập xuất gia. Do đó không nên truyền cho những người không có nhu cầu này. Trung Quốc và Việt Nam đang đi tiêu cực trong việc truyền giảng Bát Quan Trai Giới vào những chủ nhật hoặc nửa tháng một lần tại các chùa. Do việc không nắm rõ đối tượng tu Bát Quan Trai Giới là ai. Từ Bát Quan Trai Giới là một cơ hội để tìm người có khả năng xuất gia trở thành xuất gia thật. Trong thời Phật cũng có xuất gia đoản kỳ. Trung Quốc cũng có xuất gia đoản kỳ trong ba tháng an cư để những thanh niên sau thời gian an cư thấy thích hợp phát nguyện xuất gia luôn, để khỏi ngỡ ngàng.
Truyền thống Nam Tông biến xuất gia đoản kỳ trở thành cơ hội báo hiếu và xây dựng nhân cách, để sau khi ra đời mới dễ dàng được xã hội chấp nhận, ví dụ Thái Lan, Campuchia và Lào. Gần mười năm trước, Hoa thượng Thích Trí Quang chủ xướng một khóa tu. Chúng tôi đã đề nghị đặt tên khóa tu là “Một ngày an lạc”. Một ngày an lạc thì ai cũng có thể tu được, người thọ giới hay chưa thọ giới. Không đặt nặng giới. Chúng ta nên nhớ, giới chính trị, giới thương gia rất ngại thọ năm điều đạo đức của Phật. Đối với người nam là hai giới, không ngoại tình, không uống rượu. Đối với người nữ là giới không ngoại tình và không nói dối vì họ là người buôn bàn mà. Và đây là một trong những rào cản khiến nhiều người chưa dám đến với đạo Phật. Do đó phải giới thiệu một đạo Phật minh triết. Đừng có đặt nặng về giới đức vì người ta ngại người ta không dám đến.
Do đó chỉ trong những thời điểm thích hợp, chẳng hạn khóa an cư, ta mở Bát QuanTrai Giới một ngày, hai ngày, ba ngày, một tuần lễ, để tìm những người có hạt giống tu trở thành người tu. Không nên sử dụng sai đối tượng. Còn về pháp hành của người xuất gia, vào thời đức Phật Bát Chánh Đạo là trọng tâm nhất. Chánh kiến và Chánh tư duy giúp cho chúng ta có tầm nhìn đúng để đi đến pháp môn đúng. Và do đó chúng ta dễ dàng đạt được Chánh niệm, Chánh định trong quá trình tu tập thiền.
Còn Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn là những yếu tố giúp cho chúng ta đạt được như ý trong thực tập Tứ Niệm Xứ. Cốt lõi của Tứ Niệm Xứ là xoay quanh làm chủ thân và tâm, chúng ta biết thân là vô thường và bất tịnh nên không tôn vinh nó như chủ nghĩa vật thường thực dụng của Tây phương. Và chúng ta cũng không xem thân là nguồn gốc tội lỗi như chủ nghĩa cực đoan khổ hạnh của Ấn Độ và một số trường phái trong đó có Khổng giáo và Lão giáo.
Khổ đau thì bám trên thân và tâm. Bây giờ mình quán vô ngã của thân thì tất cả đau trên thân được loại trừ. Còn tâm thì có ba phương diện, quan trọng nhất và dễ làm chúng ta chìm đắm nhất là cảm xúc. Cho nên chúng ta phải thực tập làm chủ được cảm xúc. Sau đó thấy được cái tính nhị biên của tâm. Như là tâm thiện, tâm ác, tâm tốt tâm xấu, tâm phàm tâm thánh… để loại trừ các hạt giống tiêu cực bằng sự thay thế các hạt giống tích cực. Cắt đứt ký ức quá khứ, cắt đứt vọng tưởng tương lai để có Chánh niệm hiện tại, an vui ngay tại đây.
Như vậy cốt lõi của Minh Sát Tuệ dựa vào thân và tâm qua bốn phương diện để giúp cho hành giả thể đạt được sự làm chủ các giác quan trong đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tỉnh, thức, ngủ. Cốt lõi là chừng đó thôi. Còn người tại gia, đừng nên ngộ nhận và bận tâm giải thoát như Trung Quốc khởi xướng. Trung Quốc đưa ra quá nhiều khẩu hiệu mang tính khích lệ hơn là mô tả chân lý. Chẳng hạn như Thiền tông: ngồi thiền thành Phật. Mật tông trì chú thành Phật. Tịnh Độ tông niệm Phật thành Phật. Và trong giáo lý thì Trung Quốc có những câu nói cường điệu: Buông dao đồ tể lập tức thành Phật. Hay trong Thiền tông: Kiến tánh thành Phật. Cái đó hổng có thật.
Ngoài Bát Chánh Đạo không có thánh nhân. Ngoài Bát Chánh Đạo không có giải thoát. Ngoài Bát Chánh Đạo không có chứng đắc đích thực. Cho nên chúng ta không cần phải đi Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, Trung Quốc, Tây Tạng để học đạo. Bởi vì cốt lõi của Phật là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, đi đâu cũng chỉ có chừng đó thôi. Có thể cách diễn đạt khác nhau bởi sự khéo léo bởi các ngôn từ do các vị tăng sĩ. Không có cái gì ra khỏi Bát Chánh Đạo. Với Bát Chánh Đạo người tại gia trở thành chân nhân vì họ tu với mục đích không phải là giải thoát. Còn người xuất gia trở thành thánh nhân. Lý do tại sao. Bởi vì giải thoát trong Chánh định có bốn thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sơ thiền cốt lõi của nó là chuyển hóa tình yêu và tính dục và không có người tại gia nào đang sống với tình yêu và tính dục có thể đạt được sơ thiền. Vì vậy không người tại gia nào có thể giải thoát được, trừ những người tu theo phương pháp của các tu sĩ và đúng lời Phật dạy.
Còn trong kinh A Di Đà (Ấn Độ), năm tiêu chí là: kinh lành lớn, công đức lớn, nhân duyên tốt, phát tâm lớn, nhất là tâm bất loạn mới được visa về Tây Phương Cực Lạc.
Kinh lành lớn là hết tham ái, hết si mê, hết chấp thủ. Và điều này là điều phật tử tại gia không thể làm được. Và Trung Quốc thì cứ hô hào: giác ngộ, giải thoát, vãng sanh Tây Phương. Đâu giải thoát, đâu giác ngộ. Vì trong kinh A Di Đà nói rất rõ: Tây Phương là nơi hội tụ của các bậc Thượng Thiện, ở đó không có chỗ cho người phàm. Tịnh Độ tông trong kinh A Di Đà khác hoàn toàn với Tịnh Độ tông được Trung Quốc truyền bá. Tịnh Độ tông do Trung Quốc truyền bá gồm tín, nguyện, hạnh vốn không do đức Phật truyền dạy. Đố ai tìm được tín, hạnh, nguyện trong kinh A Di Đà (Ấn Độ).
Cho nên nếu theo Tịnh Độ tông thì hãy dựa vào kinh A Di Đà (Ấn Độ) làm chuẩn. Chưa đạt được năm tiêu chí trong kinh A Di Đà đưa ra, chúng tôi tin rằng sẽ không ai muốn vãng sanh Tây Phương làm gì nữa, là bởi vì nếu được như vậy người ấy đã trở thành thánh, ở đâu cũng là Cực Lạc và Niết Bàn đối với họ. Cốt lõi và triết lý của kinh A Di Đà (Ấn Độ) là ở chỗ này chứ không phải ở Tây Phương. Cũng như Hoa Kỳ đưa ra chủ trương để có thể làm công dân của Hoa Kỳ thì ứng viên phải có tiêu chí có 500.000 dollars trong tài khoảng không sử dụng đến và có công ty làm việc ổn định tại Hoa Kỳ. Đối với những nước nghèo như Việt Nam, nếu có chừng đó tài sản, cần gì phải qua Mỹ.
Do đó cốt lõi tu là giới, định và tuệ thôi. Các pháp môn của Trung Quốc không phản ảnh đầy đủ ba phương diện này được. Luật tông thì phản ảnh về giới, Pháp Hoa tông, Lăng Nghiêm tông thì nhấn mạnh về tuệ, Thiền tông nhấn mạnh về thiền theo cách riêng mà không có trong kinh điển Pali, A Hàm. Thiền Trung Quốc sáng tạo ra rất xa lạ và trái ngược với đức Phật về thiền. Nói một cách khác, thiền Trung Quốc là thiền ngoại đạo vì đâu phải đức Phật nói đâu.
Nói tóm lại, phong cách pháp hành của tại gia thấp hơn rất nhiều so với pháp hành của người xuất gia. Pháp hành tại gia hướng tới chân nhân, sống an lành và biết chia sẻ phước. Pháp hành xuất gia là giới định tuệ giúp cho chúng ta trở thành thánh ngay tại đời sống hiện thực này. Còn pháp hành Trung Quốc không có phân biệt người tại gia và xuất gia. Kinh đọc tụng cùng một kiểu, thành lâp chung một con đường và nghĩ rằng hai bên đều giải thoát. Vậy thì vai trò của xuất gia làm gì nữa. Xuất gia sở dĩ được gọi là Tăng Bảo là vì cơ hội trở thành thánh nhân cao hơn. Và khẳng định rằng con đường tại gia thì không được như thế.
Việc ứng dụng sai lời Phật dạy và không phân biệt các thực phẩm tâm linh dành cho hai đối tượng tại gia và xuất gia dẫn đến đạo Phật Trung Quốc là đạo Phật Pháp môn. Dẫn tới một hệ quả, là người ta nhón và với hoài mà không tới. Dẫn đến cái mà đức Phật nói trong kinh Tứ Diệu Đế là cầu bất đắc khổ. Người tại gia làm sao giải thoát được mà ra khẩu hiệu cho họ, khích lệ họ giải thoát đi, giác ngộ đi. Cho nên tu theo phương pháp này một thời gian, nhiều phật tử đang làm ăn khấm khá, có vai trò xã hội buông bỏ hết mọi thứ tưởng mình tiến bộ. Đó là giải đãi, đó là thiếu tinh tấn, đó là trái với đức Phật.
Mô hình phật tử tại gia tiêu biểu thời đức Phật có 10 vị cư sĩ. Điển hình nhất là ông Cấp Cô Độc và bà Visakha. Và ông bà này là các đại gia tỷ phú làm giàu cho đến cuối đời và dấn thân làm Phật sự cho đến cuối đời, chứ không phải họ buông bỏ làm giàu đâu. Họ ngày càng giàu hơn nhờ tu đúng lời Phật dạy. Họ ngày càng năng động, tinh tấn hơn chứ không phải tu rụt tu rị, gõ mõ, lạy Phật, tụng kinh.
Câu hỏi 5: Phật A Di Đà trong kinh A Di Đà có thật không, niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà có được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc hay không?
Đáp: Đây là một câu hỏi tế nhị. Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần biết hai khái niệm: đức Phật lịch sử và đức Phật tôn giáo. Đức Phật lịch sử là đức Phật Thích Ca, là con người thật từ các việc tu tập thật cho nên đã biến thân phận của mình thành bậc tuệ giác đầu tiên trong lịch sử của nhân loại ở tuổi ba lăm, qua đời ở tuổi tám mươi. Đức Phật lịch sử đó cũng giống như chúng ta, cũng sai lầm trong quá trình học đạo, suốt sáu năm khổ hạnh suýt nữa thì chết. Sau đó mới phát hiện con đường trung đạo là Bát Chánh Đạo trở thành bậc giác ngộ. Lấy hành trình chúng ta đang sống làm hệ quy chiếu, chỉ có một đức Phật duy nhất là Phật Thích Ca.
Khái niệm đức Phật tôn giáo phát triển trong giai đoạn Đại Thừa phát triển, sớm nhất là thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đại Thừa có hai trường phái: Đại Thừa Ấn Độ có tông Du Già truyền bá về Duy Thức học, tông Trung Quán truyền bá về trí tuệ. Trường phái Đại Thừa của Trung Quốc gồm có 10 trường phái mà hiện nay nó ngự trị và ảnh hưởng các nước theo Đại Thừa.
Đại Thừa của Trung Quốc không phải là Đại Thừa của Ấn Độ nữa. Hiện tại Trung Quốc đề cao đức Phật tôn giáo. Ngay cả đức Phật lịch sử họ cũng tô trét lên hình ảnh đức Phật tôn giáo đang đóng kịch. Đức Phật với một cái vai giác ngộ rồi xuống Trời Đâu Xuất làm Bồ Tát Phổ Minh sau đó nhập thai vào thánh mẫu. Rồi mấy tuổi là biết ngồi thiền, mười chín tuổi giả vờ làm đám cưới sau đó đi tu, giả vờ năm năm tìm đạo sai, giả vờ sáu năm tu tập khổ hạnh sai rồi giác ngộ ở tuổi ba mươi.
Như vậy toàn bộ toàn bộ cái giai đoạn từ khi sinh ra cho đến tuổi ba mươi là đóng kịch hết, giả vờ hết. Đó là cái quan niệm đức Phật tôn giáo hoàn toàn là một sản phẩm của ý thức Trung Quốc không có trong đạo Phật Đại Thừa tại Ấn Độ. Từ đức Phật Tôn giáo đó, Trung Quốc mở rộng thêm các đức Phật: Tam Thiên Phật. Vạn Phật là do Trung Quốc đặt ra, không có trong đạo Phật Đại Thừa ở Ấn Độ. Đức Phật A Di Đà là một trong các đức Phật Tôn Giáo được Trung Quốc đề cao.
Kinh A Di Đà có gốc rễ từ tiếng Sanscrit tại Ấn Độ. Điều đó không ai phủ định. Nhưng hình ảnh của đức Phật A Di Đà trong kinh A Di Đà (Ấn Độ) là một biểu tượng thôi, Tây Phương Cực Lạc không quan trọng do vậy đức Phật A Di Đà có thật hay không không quan trọng, mà quan trọng là để có được an vui hạnh phúc cực lạc theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng chúng ta phải đủ căn lành là hết tham, sân, si.
Nghĩa đen của chữ A Di Đà trong tiếng Sanscit là trí tuệ không giới hạn. Rồi Trung Quốc đặt thêm hai khái niệm lý giải mới là vô lượng thọ và vô lượng công đức, tức là tuổi thọ không giới hạn, trái với quy luật sanh, già, bệnh, chết mà đức Phật đã công bố và trái với quy luật của thiên nhiên. Tức là Trung Quốc đã thêm thắt rất nhiều thứ để dẫn dụ quần chúng đi theo. Cũng cần xác định rõ 48 lời nguyện không phải của đức Phật A Di Đà (Trung Quốc) như người ta đã ngộ nhận và truyền bá trong 20 thế kỷ qua. 48 lời nguyện là của thầy tỳ kheo Pháp Tạng là một người phàm giống bao nhiêu tu sĩ người phàm khác. Phát nguyện là một ứng dụng nhỏ của lòng từ bi. Phát nguyện là cái quan tâm của chúng ta tới cuộc đời khổ đau, tới chúng sinh khổ đau. Hồi hướng công đức cũng là một ứng dụng nhỏ của lòng từ bi, quan tâm về nổi khổ niềm đau của tha nhân. Có phát nguyện dẫn đến hồi hướng công đức, có hồi hướng công đức dẫn đến phát nguyện. Chúng là một cặp bài trùng hỗ trợ. Nhưng cái ứng dụng của lòng từ bi, theo đức Phật, là tạo ra các hành động phụng sự cụ thể. Trong lời sách tấn sáu mươi vị Alahan đầu tiên, đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, mỗi người nên đi một hướng, hai người không nên đi chung hướng với nhau để mang lại lợi ích, an lạc cho số đông chư thiên và loài ngưởi”.
Đức Phật xác định tôn chỉ phụng sự nhân sinh của Ngài rất rõ. Do bị ngộ nhận 48 lời nguyện của Phật A Di Đà (Trung Quốc) cho nên rất nhiều phật tử, ngay cả các pháp sư Tịnh Độ tông của Trung Quốc cũng đã mê tín khi cho rằng chỉ cần niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà cũng được vãng sanh Tây Phương. Còn lâu mới được, có mơ cũng không được vì phi nhân quả. Nếu niệm Phật mà sanh Tây Phương được thì đức Phật chẳng nhọc công 45 năm thuyết pháp gần 30.000 bài kinh làm gì, để giải quyết cái vô minh và khích lệ sự thực tập giới định tuệ cho con người.
Phương tiện là một con dao hai lưỡi, lợi cũng nó mà hại cũng nó. Do đó, chúng ta đừng nên dựa vào 48 lời nguyện của thầy Pháp Tạng mà tu Tịnh Độ tông.
PHẦN III: LỜI KẾT
Kính thưa quý vị!
Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy: “Cuộc đời mỗi con người có bốn cái khó:
1.- Được thân người là khó.
2.- Được sinh ra cùng thời đức Phật là khó.
3.- Gặp được Chánh Pháp là khó.
4.- Sinh ra giữa trung tâm thành phố là khó”.
Cư sĩ chúng ta kiếp này được sinh ra làm người cùng thời của bậc Alahan – Trưởng lão Thich Thông Lạc, được gặp Chánh Pháp của đức Phật, nhiều cư sĩ được sinh ra giữa trung tâm thành phố hoặc sinh sống ở thành phố, hỏi có duyên gì cao quý hơn duyên các duyên này?
Qua cuốn sách nhỏ này: “Phật giáo Việt Nam, người trong cuộc nói gì?”, chúng tôi muốn gửi lời nhắn nhủ tâm huyết đến quý vị:
1.- Ai biết Chánh Pháp và đã đi theo Chánh Pháp của đức Phật, của Trưởng lão Thích Thông Lạc thì hãy ôm chặt lấy Pháp, vì Pháp như chiếc phao cứu sinh giúp quý vị vượt qua mọi sự đau khổ của cuộc đời mình.
2.- Ai biết Chánh Pháp nhưng còn bán tín bán nghi, chưa có niềm tin tuyệt đối vào Chánh Pháp thì hãy nghiên cứu kỹ pháp môn của đức Phật, của Trưởng lão Thích Thông Lạc và suy ngẫm lời các người trong cuộc như Hòa thượng Thích Từ Thông và Thượng tọa Tiến sĩ Thich Nhật Từ nói gì, thì sẽ biết đâu là Chánh Pháp, đâu là tà pháp để lựa chọn con đường tu cho chính xác, cho đúng đắn kẻo bị lầm đường, lạc lối, uổng phí cả một kiếp người
Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước,
Chọn một dòng hay để nước trôi”
(Thơ Tố Hữu)
3.- Ai chưa biết đến Chánh Pháp của đức Phật thì hãy nhiệt tâm tìm cầu pháp, người nào có duyên thì sẽ gặp được Chánh Pháp, trên đời này còn có gì quý hơn Pháp Bảo?
Tóm lại Hòa thượng Thích Từ Thông và Thượng tọa Thích Nhật Từ, là hai giảng sư, hai học giả của Phật giáo Đại Thừa chứ không phải là hành giả, chúng ta chỉ hoan nghênh và ghi nhận sự thay đổi nhận thức của hai vị Tăng này về Phật giáo Đại Thừa không phải Phật giáo của đức Phật Thích Ca, mà là của ngoại đạo.
Hai vị Tăng này có lý luận sâu rộng, nhưng là lý luận của Phật giáo Đại Thừa, do vậy chúng ta không thể đồng hành với hai vị Tăng này được. Đường đi của chúng ta là Phật giáo Nguyên Thủy có pháp hành cụ thể, rõ ràng mang lại lợi ích thiết thực giải thoát cho người tu, do Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại.
Trưởng lão dựng xây Tu viện Chơn Như thành nơi đào tạo người tu hành làm chủ Sinh – Già – Bệnh – Chết, đào tạo con người biết sống có đạo đức, đức hạnh. (Ngày nay sau khi Trưởng lão Thích Thông Lạc nhập diệt, thì thầy Mật Hạnh thừa kế sự nghiệp, làm Viện Chủ tu viện Chơn Như).
Tu viện Chơn Như có địa chỉ: Ấp Gia Lâm, xã gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Có web site: http://tuvienchonnhu.net.
Ngày nay tu viện Chơn Như là nơi duy nhất trên đất nước Việt Nam và trên toàn thế giới đào tạo giới luật đức hạnh và thiền định để giải thoát, làm chủ Sinh – Già – Bệnh – Chết. Tại đây hằng ngày có trên dưới một trăm tăng, ni, tu sinh phật tử tu tập đạo đức và thiền định.
Tu viện Chơn Như luôn sẳn lòng chào đón, tiếp nhận bất kỳ người nào có nhiệt tâm về đây tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Đối với cư sĩ chúng ta, ngoài việc tu tập đem lại lợi ích cho mình, chúng ta còn có bổn phận, trách nhiệm hộ trì chánh pháp, hoằng dương Phật Pháp để cho Chánh Pháp đến được với mọi người, với mọi nhà, với mọi nơi trên đất nước và trên toàn thế giới, góp phần làm cho Pháp Phật được mãi mãi trường tồn, ngày càng phát triển lớn mạnh và bền vững.
Kính chúc quý vị dồi dào sức khỏe, tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.
Tháng 10 năm 2014
Kính ghi,
Cư sĩ Thích Tịnh Đức.