• tinhtoa1
  • khatthuc1
  • lailamtoduong1
  • tranhducphat
  • chanhungphatgiao
  • thanhanhniem3
  • amthat3
  • vandaptusinh
  • thanhanhniem1
  • thanhanhniem2
  • lopbatchanhdao
  • tamthuphattu
  • toduongtuyetson
  • amthat2
  • phattuvandao1
  • ThayTL
  • benthayhocdao
  • phattuvandao3
  • huongdantusinh
  • vandao2
  • amthat1
  • daytusi
  • ttl1
  • tinhtoa2
  • quetsan
  • ttl3
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
JGLOBAL_PRINT

MƯỜI GIỚI CĂN BẢN

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích Thanh Quy Tu Viện Chơn Như, TG. 2010, tr. 57-93)
Nguồn: Thanh Quy Tu Viện Chơn Như

Mười giới căn bản này của những người tu tập tại tu viện Chơn Như không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ, vì đây là giới căn bản để tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết nên không có một người nào vi phạm, nếu vi phạm những giới luật này thì không thể tu tập làm chủ thân tâm được hay nói cách khác là không thể làm chủ được nhân quả. Cho nên tu sĩ và cư sĩ trong tu viện Chơn Như phải giữ gìn 10 giới cho vẹn tròn, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt trong trong 10 giới này.

Mười giới căn bản này người học Phật ai cũng biết, vì thế người ta rất xem thường nó, cho nên tu sĩ và cư sĩ thường hay vi phạm trong 10 giới này.

Một người phật tử ở nhà cũng như đến chùa mà ăn uống ngày 2, 3 bữa là phạm giới.

Nghe ca hát hay tự ca hát là phạm giới, giới này ngay cả tu sĩ Phật giáo quý hòa thượng, thượng tọa, v.v... còn vi phạm huống là người cư sĩ.

Ở trong nhà cũng như khi bước ra đường còn sửa sang trang điểm làm đẹp là đã phạm giới rồi. Giới này tuy không có gì quan trọng lắm nhưng đã cho chúng ta thấy được tâm người còn ham trang điểm làm đẹp là lòng tham muốn chưa lìa xa. Cho nên xét qua giới luật của từng người thì biết ngay người tu sĩ thanh tịnh hay chưa thanh tịnh.

Khi bước đi, mà người cư sĩ hay tu sĩ còn đi vội vàng là biết ngay họ còn phạm giới sát sinh, vì đi như vậy họ sẽ không tránh khỏi giậm đạp lên chúng sinh. Do đó chúng ta biết họ chưa đủ sức tỉnh thức làm chủ thân tâm. Tuy họ nói tu tập như thế nào chúng ta cũng không tin và biết rõ sự tu tập của họ chưa có kết quả, họ chỉ nói dối không thật. Họ tu tập thường bị tưởng của họ lừa họ mà họ không biết tưởng là đã nhiếp tâm được như vậy, xả tâm được như vậy nhưng kỳ thực họ chưa làm chủ thân tâm. Vô tình họ đã làm mất uy tín.

Người ta nghe nói TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ rồi họ tự nghĩ rằng chỉ cần giữ gìn TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ là thành tựu. Không đâu quý vị ạ!

TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ là phải để tự nhiên chớ không bắt ép nó được, vì bắt ép TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ là bị ức chế ý thức.

Muốn TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ thì chỉ có tác ý xả những niệm ác thường làm cho chúng ta đau khổ.

GIỚI THỨ NHẤT: KHÔNG NÊN SÁT SANH, GIẾT HẠI CÁC LOÀI VẬT

Không nên sát sinh là một lời khuyên của đức Phật, bởi vì sự sống của con người cũng như của các loài vật đều có sự bình đẳng như nhau, cớ sao chúng ta lại giết chúng và còn ăn thịt nữa, thật là bất công vô cùng. Có phải chúng ta ỷ mình là con người rồi hiếp đáp loài chúng sinh. Thật ra con người đến nổi quá thậm tệ mất nhân tính thường dùng trí tuệ mưu mô hung hiểm ác độc chế ra dao, rựa, búa, gươm đao, lưới, câu, rập, bẫy, súng, đạn, điện, thuốc độc, v.v... để tìm mọi cách bắt chúng làm thành thực phẩm để ăn uống hằng ngày hả hê. Ðó là một sự sống ác độc, thiếu sự sống bình đẳng, loài lớn khôn ngoan hiếp đáp loài vật nhỏ bé yếu đuối hiền lành khác, v.v... Con người mà sống như vậy có khác nào như bầy thú rừng hoang dã chỉ biết hung ác giết hại và ăn thịt lẫn nhau, chứ đâu biết thương yêu nhau. Cho nên con người không biết sống đạo đức nhân bản – nhân quả thì sẽ thành những loài thú hung dữ, gian ác mà không có một loài thú nào bằng.

Con người là một con vật thông minh và tình cảm yêu thương của con người không có một con vật nào trên hành tinh này hơn được. Nhưng con người đã đánh mất lòng yêu thương ấy thì dễ trở thành một ác thú, thật đáng tiếc. Bởi vậy chính con người đánh mất lòng yêu thương ấy nên cả thế giới loài người lúc nào cũng xung đột, không nhà này thì nhà khác và chiến tranh không bao giờ dứt, không nước này thì nước khác. Thật là đau thương.

Vì thế, đức Phật dạy: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH”. Ðó là một lời khuyên chúng ta nên thương yêu nhau. Dù con kiến, con muỗi, con rận, con chí, v.v... đó là những con vật cắn hại làm cho chúng ta khổ sở. Vậy mà chúng ta cũng còn không giết hại chúng, huống chi là các loài chúng sinh hiền lành khác, chúng không bao giờ làm đau khổ cho một ai. Phải không thưa quý vị?

Muốn thực hiện đức hiếu sinh đối với muôn loài vạn vật thì tu sĩ và cư sĩ phải giữ gìn ý tứ tỉnh thức cẩn thận trong khi đi, đứng, nằm, ngồi để tránh dẫm đạp làm đau khổ vì vô tình làm hại chúng sanh.

GIỚI THỨ HAI: KHÔNG NÊN LẤY CỦA KHÔNG CHO

Của cải tài sản là những vật làm ra bằng mồ hôi nước mắt của mọi người. Vì thế, tu sĩ và cư sĩ đang tu học tại tu viện Chơn Như không nên lấy của không cho, không nên lượm của rơi ngoài đường, dù là cây kim, sợi chỉ cho đến tất cả những miếng ăn nhỏ như trái cây, bánh mứt, cục đường, hạt muối đều không nên lấy, vì lấy như vậy là trộm cắp, là cướp giựt của người.

Hành động tham lam lấy của không cho là một hành động xấu xa. Hành động cướp lấy sự sống của người khác cũng giống như giết người. Của cải tiền bạc làm ra bằng công sức, bằng mồ hôi nước mắt, bằng trí óc của con người, nếu bị người khác trộm lấy hay cướp đi thì người mất của rất là đau khổ, gần như muốn chết. Người sống có đạo đức hiếu sinh thì không bao giờ lấy của không cho, thà chết đói chớ không bao giờ lấy của người.

Tu sĩ cũng như cư sĩ trong tu viện Chơn Như không bao giờ lấy của không cho, không bao giờ ăn thêm cọng rau trái ớt hoặc đi hái, đi bẻ những rau ớt hoang dại xung quanh thất. Hoặc nhận của cúng dường riêng tư để ăn thêm, đó cũng là cách tham lam cần phải diệt bỏ lòng tham như vậy, khi có ai cúng riêng cho mình, bất cứ một vật gì nhiều hay ít đều mang đến người quản lý nhà bếp và giao cho họ chia đều cho tất cả mọi người, còn riêng mình cũng chỉ nhận một bữa cơm giống như mọi người mà thôi, như vậy mới thật là không tham ăn.

Khi tu viện cho ăn những gì thì ăn như vậy, chứ không muốn ăn thêm một vật gì khác. Sống như vậy mới đầy đủ ý nghĩa đức ly tham.

Ðức ly tham là một đức hạnh lìa xa những vật chất thế gian khiến cho tâm hồn con người rất trong sạch, không còn bợn nhơ một chút lòng tham muốn ăn, muốn ngủ, không còn một chút vật chất để dành dụm, để làm của riêng tư. Ðời sống của họ chỉ còn ba y một bát. Chính đời sống giới luật mới mới xác định họ là những tu sĩ của Phật giáo, họ không còn tham lam, nhờ đó họ mới thật sự là những người ra khỏi nhà sinh tử. Ngược lại có một số người cũng mang hình thức ba y một bát, như lại ăn uống ngủ nghỉ phi thời, như vậy chứng tỏ họ còn tham lam chứ chưa phải ly tham. Vì thế, họ tu hành mãi mà không làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Bởi giới luật không nghiêm chỉnh thì không làm sao làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi. Tu mà không chấp nhận giữ gìn giới luật thì tu tập chỉ uổng phí cho một đời chứ chẳng đi đến đâu. Ðời quá khổ, ăn uống là những món bất tịnh; ngủ nghỉ là mê muội tâm trí làm cho không thông minh sáng suốt. Thế mà mọi người lại tham ăn tham ngủ mới lạ kỳ. Nếu ngay từ ăn ngủ mà không lìa thì đức hạnh LY THAM ở đâu? Giới thứ hai rất quan trọng là ở chỗ phải lìa tâm tham lam, cho nên người tu hành phải lưu ý giới luật này, vì tham dục dễ len lỏi vào tâm và nó sẽ dẫn dắt người tu sĩ phạm giới, nên cẩn thận đối với từng tâm niệm khi chúng sinh khởi lên trong tâm thì dễ bị vi phạm trong giới luật này.

GIỚI THỨ BA: KHÔNG NÊN TÀ DÂM, KHÔNG NÊN DÂM DỤC

Người cư sĩ có vợ con thì phải một lòng chung thủy với vợ và với chồng, không nên nhìn ngó người nữ khác hay người nam khác mà chỉ một lòng với vợ hay chồng mà thôi, nếu có vợ, có chồng mà còn nhìn người khác là thiếu đạo đức chung thủy. Khi khởi ý nhìn ngó một người nữ khác hay một người nam khác, khi thấy họ có sắc đẹp và có tài đức mà sinh lòng yêu thích thì biết ngay đó là tâm trạng tà dâm. Tâm trạng tà dâm là tâm không ngay chính. Như vậy là những người còn lang chạ tâm không đúng đắn. Khi một người có ý niệm tà dâm như vậy thì nên cắt ngay dòng tư tưởng tà niệm đó và phải cương quyết mạnh mẽ, đó là một tâm niệm bất chánh. Tâm niệm bất chánh sẽ làm đau khổ gia đình mình và gia đình người khác; nó sẽ đem đến tan nhà, nát cửa; nó sẽ tạo ra những bạo lực gia đình khi tâm ghen tuông không dừng được; nó sẽ làm cho những đứa trẻ thơ vô tội mất cha, mất mẹ phải sống bơ vơ giữa cuộc đời đầy cạm bẫy ác pháp.

Bởi vậy, chúng ta làm con người chứ không phải làm con thú, nay bắt cặp với con thú này, mai cặp với con thú khác. Một người nữ cũng như một người nam ăn mặc hở hang bày da hở thịt để khêu dâm gợi dục cho mình, cho người khác thì cũng khác gì con thú vật.

Mọi người cứ nghĩ rằng ăn mặc hở hang là làm đẹp đẽ, là hợp thời trang, là đúng thời đại văn minh. Ðúng, là văn minh của thời đại cổ lỗ, khi con người còn ăn lông ở lỗ, con người chưa dệt ra vải vóc, chưa biết may quần áo, nên phải đóng khố, vì thế phải chịu hở hang bày da hở thịt, bày ngực, bày mông, bày vế, v.v... Bây giờ phụ nữ đã trở về sống với thời đại bộ lạc thiếu văn hoá, kém đạo đức, ăn mặc hở hang lõa lồ, người phụ nữ hiện giờ biến mình là những món đồ dục lạc bẩn thỉu tầm thường cho người khác phái. Quý vị đừng tưởng là mọi người nhìn ngó người phụ nữ ăn mặc hở hang là họ ham muốn sắc dục lắm sao?

Người có văn hóa, có đạo đức nhìn thấy người phụ nữ ăn mặc hở hang thì họ liên tưởng đến một con thú vật, đến một cái thây ma hôi thối bẩn thỉu, nhưng con thú vật còn có lông lá để che những gì cần thiết của cơ thể chúng, còn con người thì không cần che muốn thoát y phục để lộ chiếc thân ngọc ngà bất tịnh, nhờ lớp dầu thơm làm át mùi hôi thối. Thân con người bất tịnh hôi thối ghê gớm lắm quý vị ạ! Nếu ba ngày không tắm rửa đứng gần ai thì còn có nước bịt mũi không chịu nổi, nhất là những ngày người phụ nữ bất tịnh. Thật là ghê gớm, chỉ có những người u mê, điên đảo mới ham thích sắc dục.

Con vật không thông minh như con người nên từ môi trường sinh ra và để bảo tồn sự sống và sinh lý của chúng nên mỗi con vật đều có một bộ lông che chở vào bảo vệ mà thôi, vì thế con vật đỡ lõa lồ cơ thể.

Còn con người có đầu óc thông minh, có trí tuệ phát minh những sáng kiến chế tạo máy móc sản xuất ra vải vóc và biết may mặc. Do vậy con người ăn mặc kín đáo ít khêu dâm gợi dục nên phụ nữ không biến thành những món hàng dâm dục. Thật là một nền văn hóa đạo đức tuyệt vời biến người phụ nữ có một giá trị trong sự sống của loài người thanh cao và đẹp đẽ, ngược lại người phụ nữ bày da hở thịt cho mình là sống văn minh theo kịp thời đại thì lại càng sa đọa đưa giá trị người phụ nữ quá thấp và hèn hạ như một món đồ dâm dục như trên đã nói. Vậy các chị em phụ nữ hay suy ngẫm đừng chạytheo văn hóa đồi trụy của Tây phương mà đánh mất một nền văn hóa đạo đức Ðông phương vừa trong sạch, thanh tao và đẹp đẽ vô cùng.

Trong giới luật này dạy không nên dâm dục, chứ không phải dạy tà dâm. Nhưng tại sao chúng tôi giải thích về tà dâm?

Bởi tà dâm là nói về đạo đức gia đình của người cư sĩ. Khi người cư sĩ đã hiểu rõ đạo lý này thì chúng tôi mới dạy “KHÔNG NÊN DÂM DỤC”. Vậy nghĩa của dâm dục như thế nào?

Ðạo Phật có chương trình giáo dục và đào tạo người tu chứng đạo VÔ LẬU nên giới luật đức hạnh là những pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải thông suốt nghĩa lý rõ ràng. Chính sự thông suốt giới luật đạo đức đó mà đạo Phật gọi là tri kiến giải

thoát. Nhờ có tri kiến giải thoát mà người đệ tử Phật xả tâm ly dục ly ác pháp rất dễ dàng, không bị ức chế tâm.

Ở đây người cư sĩ đã quyết tâm tu hành giải thoát như người tu sĩ, vì thế họ đã ly gia cắt ái không còn để những sợi dây ái kiết sử ràng buộc, họ đã quyết tâm giữ gìn giới KHÔNG NÊN DÂM DỤC để tròn đầy tâm thanh tịnh. Giới KHÔNG NÊN DÂM DỤC là một giới luật ngăn và làm chấm dứt con đường tái sinh luân hồi của nhân quả. Người giữ gìn được giới này là không còn tái sinh luân hồi nữa.

Bởi vậy chúng ta phải hiểu cho rõ ràng: “DÂM DỤC” là con đường tái sinh luân hồi, con đường đau khổ muôn đời muôn kiếp của loài người. Bởi vậy người tu hành theo Phật giáo quyết định phải diệt trừ tâm dâm dục, vì còn dâm dục tức là còn tiếp tục tái sinh luân hồi. Cho nên giới “KHÔNG NÊN DÂM DỤC” là một giới luật như bao giới luật khác, nhưng nó có một tầm quan trọng trong kiếp người, nếu không thoát ra khỏi tâm dâm dục thì cuộc đời tu hành chỉ uổng công chớ chẳng có ích lợi gì. Muốn tránh tâm dâm dục thì người tu sĩ đạo Phật giữ gìn ý tứ khi tiếp duyên với người khác phái, không nên cười nói qua lại với người khác

phái, phải nghiêm chỉnh trong hành động,trong lời nói. Khi nói chuyện phải có nơi, có chốn, chỗ đông người, không nên đụng đâu nói đó, tránh những nơi khuất lấp vắng vẻ nói chuyện giữa nam nữ là sẽ có nhiều điều bất tiện, vì nơi đó sẽ là nhân của ý dâm.

Nếu cuộc đời này không còn dâm dục thì đời không còn khổ đau, do dâm dục người ta mới thành vợ thành chồng, khi thành vợ thành chồng người ta mới khổ vì ghen tuông; khi có ghen tuông người ta mới khổ vì bạo lực gia đình. Nếu vợ chồng yêu thương nhau chia sẽ ngọt bùi cay đắng có nhau, thì người ta mới sinh con đẻ cái. Từ đó người ta khổ vì mang thai, khổ vì sinh con, khổ vì phải nuôi con lớn khôn, khổ vì con cái bệnh tật, khổ vì con cái dạy bảo không ngoan ngoãn. Ðó là một chuỗi đời người do dâm dục mà thọ chịu biết bao nhiêu điều đau khổ, nào ai có biết?

Bởi vậy người hiểu biết dâm dục là con đường đau khổ của kiếp người, vì thế chúng ta cần xa tránh để tâm hồn được thanh thản, an lạc và bất động. Tâm được như vậy thật là hạnh phúc vô cùng.

Giới thứ ba KHÔNG NÊN DÂM DỤC, đó là một lời khuyên đầy tình yêu thương chân thành của đức Phật gửi đến với mọi người trên hành tinh này để mọi người chấm dứt mọi sự khổ đau. Xin quý vị lưu ý dâm dục không có hạnh phúc gì cả, chỉ là một sự đau khổ triền miên bất tận, nó là một hành động dục lạc bẩn thỉu lôi cuốn được với những người điên đảo tâm còn mang đầy ắp màn vô minh đen tối, u mê.

Hỡi mọi người! Hãy sáng suốt thoát ra khỏi tâm dâm dục nó là con đường đau khổ bất tận của loài người, xin mọi người lưu ý, ngay từ bây giời đừng để bị tâm dâm dục lôi cuốn trong sáu nẻo luân hồi đau khổ không kiếp nào thoát ra.

GIỚI THỨ TƯ: KHÔNG NÊN NÓI DỐI, NÓI LỜI KHÔNG THẬT

Không nên nói dối là một lời khuyên chân thật của đức Phật đối với mọingười. Theo như đức Phật đã xác định: Một người nói dối là một người có thể làm tất cả những điều ác khác. Vì vậy khi biết ai nói dối thì nên tránh xa, vì ở gần những người như vậy thì sẽ chịu ảnh hưởng và cũng biến mình trở thành những người dối trá và làm ác như vậy.

Ðức Phật dạy La Hầu La: Một người nói dối cũng giống như nước rửa chân bẩn thỉu, nước ấy không thể uống được chỉ có bỏ mà thôi. Còn cái chậu đựng nước rửa chân thì sao?

Ðức Phật dạy La Hầu La: Cái chậu đựng nước rửa chân cũng không thể đựng cơm hay thực phẩm để ăn được, chỉ bỏ mà thôi. Cho nên người nói dối là người không còn cứu chữa, người ấy nên loại ra khỏi sự sống của cộng đồng.

Nói dối tai hại như vậy chúng ta hãy cố gắng đừng để vi phạm vào giới luật này, nó làm mất niềm tin với mọi người. Sống trong cuộc đời mà ai cũng không tin mình thì mình đến đâu người ta đều tránh.

Vì thế phải thành thật chuyện có nói có, chuyện không nói không. Nói dối có lợi cho mình không hại người khác còn chẳng nói, huống là nói dối hại người khác, hại mình thì nói dối có ích lợi gì? Cũng như các giảng sư hiểu biết giới luật KHÔNG NÊN NÓI DỐI thì họ không bao giờ thuyết giảng dù biết thuyết giảng có lợi cho Phật pháp nhưng họ hiểu rằng mình chưa làm được những gì Phật dạy trong kinh mà thuyết giảng thì phạm vào tội nói dối, vì thế họ chẳng thuyết giảng. Thuyết giảng những điều mình chưa làm được là nói dối, và như vậy ai cũng biết mình nói dối, đó là làm mất uy tín của mình, cho nên người giảng sư phải cẩn thận không nên thuyết giảng Phật pháp khi mình tu hành chưa chứng và thuyết giảng như vậy là thuyết giảng sai, thuyết giảng sai làm mất uy tín Phật giáo.

GIỚI THỨ NĂM: KHÔNG NÊN UỐNG CÁC LOẠI RƯỢU

Rượu là một chất dễ nghiện ngập, mà khi đã nghiện ngập thì bỏ rất khó. Người uống rượu say không còn sáng suốt  minh mẫn, cơ thể đi đứng không vững vàng, ngay ngắn, miệng nói lảm nhảm như người điên, tay chân múa may như người đánh võ, thường nằm đường ngủ bụi không biết dơ sạch. Có người khi say rượu về đập đồ đạc trong nhà, đánh vợ, đánh con, v.v… Người uống rượu say nhân cách không còn, vì đối với mọi người ai cũng sợ người say rượu ăn nói không mực thước.

Nhân cách và đạo đức con người không chấp nhận những người uống rượu, thường những người uống rượu gây mất trật tự an ninh trong thôn xóm do lập bè lập đảng nhậu nhẹt đánh lộn. Nhất là gia đình nào có người nhậu nhẹt thì gia đình ấy bất an, khi nhậu say thì đánh vợ đánh con khiến cho gia đình lộn xộn.

Tất cả những thức uống làm cho người ta nghiện ngập như: rượu, cà phê, thuốc lá, bia, trà, thuốc phiện... tu sĩ và cư sĩ trong Tu Viện đều phải giữ gìn không được vi phạm giới cấm này. Nếu vi phạm người tu hành sẽ mất hết phẩm cách đạo đức làm người.

Nhất là người tu sĩ quyết tâm diệt trừ tận gốc nghiệp tham, sân, si, mạn, nghi thế mà còn tạo thêm nghiệp nghiện ngập rượu, chè, thuốc lá, thuốc phiện, v.v... thì làm sao dẹp hết được nghiệp tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên đức Phật dạy: “KHÔNG NÊN UỐNG RƯỢU”.

Chúng ta là những người đã mang một thứ nghiện ngập tham, sân, si, mạn, nghi quá nặng đã trải qua muôn đời muôn kiếp. Vậy mà hiện giờ chúng ta muốn cai những thứ nghiện ngập này là cả một công trình vĩ đại, nếu không cai những thứ nghiện ngập này thì cuộc đời tu hành của chúng ta chẳng đi đến đâu cả. Cho nên đang cai nghiện ngập tham, sân, si, mạn,nghi chưa xong mà lại thêm nghiện ngập rượu, chè, thuốc lá, thuốc phiện, v.v... thì không thể nào chấp nhận người tu sĩ như vậy được. Phải không quý vị?

Ngay từ bây giờ phải dứt khoát không uống rượu, bất cứ mọi loại rượu nào, không hút thuốc lá, bất cứ một loại thuốc lá nào; không uống cà phê đen nguyên chất, bất cứ một loại cà phê nào, không hút thuốc lào, không hút thuốc phiện, không uống chè lá, không hút chích xì ke, ma túy, v.v… Ðó là những thứ thuốc độc dược cần phải loại trừ ra khỏi thân tâm, đó là những thứ nghiện ngập cần phải tránh xa. Vì nó sẽ gây ra bao nhiêu thứ bệnh tật trên thân chúng ta. Rượu là một loại dễ làm cho chúng ta nghiện ngập, chúng ta phải dứt khoát xa lìa không nên nếm thử.

Rượu là một loại cay đắng nồng, uống vào không thấy một chút cảm giác ngon ngọt nào cả thế mà khi bị nghiện thì rất khó bỏ.

GIỚI THỨ SÁU: KHÔNG NÊN TRANG ĐIỂM LÀM ĐẸP

a- KHÔNG NÊN DÙNG DẦU THƠM: Dầu thơm là một loại nước xoa xức vào người để lôi cuốn những người ham thích sắc dục. Dầu thơm được đánh giá là một loại nước khêu dâm gợi dục. Vì thế người tu hành theo Phật giáo không nên xoa xức dầu thơm vào người. Xoa xức dầu thơm vào người là không bao giờ diệt sạch tâm sắc dục. Cho nên đức Phật dạy:“KHÔNG NÊN DÙNG DẦU THƠM”. Như trên đã nói: Dầu thơm là một thứ nước khêu dâm gợi dục, người tu sĩ cần nên tránh xa. Không nên xoa dầu thơm vào người, khôngnên tắm giặt bằng xà bông lưu lại mùithơm. Quý vị tu sĩ và cư sĩ nên nhớ những lời dạy này mà diệt trừ tâm sắc dục của mình tận gốc. Bởi vì, một hành động nhỏ nhặt sử dụng dầu thơm thì không diệt trừ được tâm sắc dục. Phải nhớ lấy những lời dạy này.

b- KHÔNG NÊN ÐEO ÐỒ TRANG SỨC: Không nên đeo đồ trang sức, con người ở đời thường thích làm dáng, làm đẹp dù người có sắc đẹp hay người không sắc đẹp họ đều thích trang điểm, vì thế vòng vàng, nhẫn, cà rá, bông tai hạt xoàn, dây chuyền, chuỗi ngọc, v.v... đó là những vật dùng để trang sức làm đẹp. Mục đích làm đẹp là để mọi người khác phái nhìn ngó sinh tâm sắc dục. Do biết rõ mục đích trang điểm đeo đồ trang sức là khêu gợi tâm sắc dục nên đức Phật dạy: “KHÔNG NÊN TRANG ÐIỂM ÐEO ÐỒ TRANG SỨC”. Do lời dạy này chúng ta không nên đeo đồ trang sức.

c- KHÔNG NÊN ĂN MẶC HÀNG LỤA ÐẮT TIỀN: Người tu theo Phật giáo nên ăn mặc đơn sơ, giản dị nhưng rất thanh lịch, không cầu kỳ kiểu cách lòe loẹt sặc sỡ, v.v... Hàng vải may mặc cũng không nên chọn lựa hàng vải đắt tiền, vì ăn mặc hàng vải đắt tiền là khoe khoang sự giàu sang, mà khoe khoang sự sang giàu như vậy là khiến cho những người trộm cướp để ý. Khi những người trộm cướp để ý thì tai họa sẽ đến. Cho nên ăn mặc đơn giản ít ai để ý thì sự sống dễ được bình an yên ổn. Người khôn ngoan không nên đeo vòng vàng trang điểm, không ăn mặc hàng lụa đắt tiền thì tránh được bao nhiêu tai họa khổ đau. Hằng ngày báo chí đều loan tin tức những người bị cướp giựt phần nhiều là những người sửa sang trang điểm làm đẹp, ăn mặc lụa là đắt tiền và đeo đồ trang sức vòng vàng bông tai, nhẫn hạt xoàn, v.v... Do những tai họa này mà những oai nghi chánh hạnh của người đệ tử Phật là phải ăn mặc đơn sơ, giản dị, không trang điểm làm đẹp, không đeo vòng vàng. Chính giữ gìn oai nghi chánh hạnh như vậy thì mới mong xa lìa tâm sắc dục.

Xa lìa tâm sắc dục là chấm dứt tái sinh luân hồi, mãi mãi không còn sinh diệt nữa.

GIỚI THỨ BẢY: KHÔNG NÊN NGHE CA HÁT VÀ TỰ CA HÁT

Ðể giữ tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Người tu sĩ và cư sĩ đệ tử của Phật thì không nên nghe băng nhạc ca hát, dù bất cứ những loại nhạc nào nhạc đời, nhạc đạo. Nói ca nhạc là phải nói đến âm thanh du dương trầm bổng, như tiếng khóc nỉ non, như tiếng than thở vắn dài thương đau, v.v... Nhất là không nên tự ca hát, vì tự ca hát là làm mất oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ. Người tu sĩ đầu tròn áo vuông mà cất giọng ca ngâm thì thật là khó xem, không giống ai cả, đời chẳng ra đời mà đạo cũng chẳng ra đạo.

Âm thanh ca hát trầm bổng rất dễ khiến cho con người đam mê và gây xúc động tình cảm thế gian khiến cho tâm hồn yếu đuối, dễ bi lụy như Tiêu Hà thổi tiêu khiến cho quân lính Hạng Vương bỏ hàng ngũ trốn về quê quán. Hạng Vương mất nước và tử trận một cách thương đau. Ðấy, quý vị xem lời ca tiếng nhạc rất quan trọng, nếu người tu sĩ không biết ngăn chặn ngay từ lúc đầu thì con đường tu tập không bao giờ có kết quả. Bởi tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự mà còn có âm nhạc trong đó thì làm sao thanh thản được. Phải không thưa quý vị?

Lời khuyên của đức Phật: “KHÔNG NÊN NGHE CA HÁT VÀ TỰ CA HÁT”, vậy mà các thầy lại tụng kinh niệm Phật ê a, giọng cao, giọng thấp theo tiếng trống, tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng đàn, v.v... thật là đi ngược lại giới luật, lời dạy của đức Phật. Vậy quý  thầy là đệ tử của Phật hay đệ tử của Bà La Môn?

Lời ca tiếng hát đã làm biết bao nhiêu vua chúa mất ngôi, hạnh phúc gia đình tan nát. Vì thế người tu sĩ Phật giáo tìm sự giải thoát mà còn nghe ca hát thì làm sao giải thoát cho được.

Ðức Phật dạy chúng ta tu hành chớ đâu có dạy chúng ta tụng kinh niệm chú ê a giọng cao giọng thấp.

GIỚI THỨ TÁM: KHÔNG NÊN NẰM GIƯỜNG CAO VÀ VÕNG

Người tu sĩ và cư sĩ trong Tu Viện cần phải giữ gìn ý tứ. Khi nằm phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường kín đáo và trang nghiêm. Phật chế giới thứ tám tránh nằm ngủ lăn qua lộn lại làm mất oai nghi chánh hạnh của người tu.

Nằm giường cao rộng lớn là những người giàu sang, còn chúng ta là những người tu hành đã xả bỏ hết chỉ còn ba y một bát lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu có đâu mà nằm giường cao rộng lớn. Có nằm giường cao rộng lớn cũng tùy thuận hoàn cảnh gia đình để không làm khổ người khác mà thành bệnh cố chấp. Giới luật của Phật cần phải linh động nhưng không phải vì thế mà vi phạm giới luật xin quý vị lưu ý.

Nhất là người tu sĩ không nên nằm võng đưa tới đưa lui, bởi chính oai nghi tếhạnh không cho phép, nằm trên giường ván mà Phật còn dạy phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, không cho phép nằm co, nằm ngửa, nằm sấp, như vậy nằm trên võng là nằm co và nằm ngữa.

Nằm như vậy không đúng oai nghi chánh hạnh. Vì lý do này mà người tu sĩ không nên nằm võng. Bởi chiếc võng dùng cho người phụ nữ nằm ru con, còn người đàn ông mà nằm võng chính là tập mình trở thành người lười biếng, nằm lắc qua lắc lại là không đúng cách của người trượng phu.

Người đàn ông phải tỏ ra cho xứng đáng là người đàn ông, cớ sao người đàn ông lại thích nằm võng lắc tới lắc lui như người phụ nữ thì còn gì là đấng mày râu.

Chúng tôi đi theo đường từ Trảng Bàng về TP Hồ Chí Minh xuống dốc cầu AN HẢI thì không biết bao nhiêu là võng treo dọc treo ngang dưới bóng cây để cho khách đi đường vào nằm nghỉ mệt. Ðây là những cách cám dỗ sở thích của những người tinh thần yếu đuối nên dễ bị những chiếc võng lôi cuốn.

Nhà nào có những chiếc võng treo giăng thường là nhà của những phụ nữ dùng để ru con ngủ, vậy mà có một số các ông lười biếng thích nằm đưa tới đưa lui để ru ngủ. Thật là không có oai nghi tế hạnh chút nào cả.

Nếu muốn xứng đáng làm đàn ông thì không nên nằm võng, mà muốn nằm thì phải chọn nơi chốn đúng đắn để nằm nghỉ chớ không thể đụng đâu nằm đó thì không đủ tư cách làm đàn ông.

Người xưa nói: “Ăn coi nồi ngồi coi hướng” lời dạy này rất tuyệt vời. Làm người đụng đâu nằm đó thì chẳng khác nào con thú vật như con chó con mèo.

Cho nên người tu sĩ không nằm giường cao rộng lớn, nhưng cũng không bạ đâu nằm đó vì là chúng ta là con người cho nên phải biết chỗ nào nằm được và chỗ nào nằm không được.

Ðó là đức hạnh của người tu sĩ Phật giáo, vì vậy những oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo không cho phép chúng

ta đụng đâu nằm đó. Vậy chúng ta hãy khéo giữ gìn không cho vi phạm vào giới luật này.

GIỚI THỨ CHÍN: KHÔNG NÊN ĂN UỐNG PHI THỜI

Gốc khổ của con người là tâm tham dục mà ăn uống là một tham dục trong năm thứ dục lạc: DANH, LỢI, SẮC, THỰC, THÙY nên con người hay ưa thích ăn uống (THỰC). Ăn một ngày hai ba bữa mà còn ăn uống lặt vặt cái này, cái khác có khi lại còn ăn đêm. Vì dục lạc như vậy nên đức Phật khuyên: “KHÔNG NÊN ĂN UỐNG PHI THỜI”. Ðạo Phật vốn dạy người tu hành để thoát khổ, vì thế muốn thoát khổ nên phải diệt lòng tham dục, diệt lòng tham dục thì phải ăn uống ngày một bữa. Ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn ngày một bữa cũng chính là phương pháp ly dục ly ác pháp. Trên đời vì tranh ăn mà có sự xungđột và chiến tranh; vì tham ăn mà nồi da xáo thịt anh em ruột thịt xem nhau như kẻ thù.

Bởi ăn uống phi thời là chạy theo dục lạc, do chạy theo dục lạc nên khó nhiếp và an trú tâm. Nhiếp và an trú tâm không được nên đẩy lui bệnh khổ trên thân không thể được, vì thế phải chịu khổ muôn đời vì bệnh tật. Người tu theo Phật giáo nên ăn uống giản dị và tiết độ càng ăn uống giản dị và tiết độ bao nhiêu thì tu hành nhiếp và an trú tâm dễ dàng bấy nhiêu và như vậy tu hành sẽ không phí thì giờ vô ích.

Cho nên giới thứ chín rất quan trọng trong đời sống con người. Do ăn uống bừa bãi mà con người dễ bệnh tật, vì biết rất rõ nên Ngài khuyên mỗi người nên ăn uống ngày một bữa có tiết độ trong ăn uống để tránh khỏi bệnh tật, ăn uống không nên ăn thịt chúng chúng sanh vì ăn thịt chúng sanh thân dễ bệnh tật, đó là qui luật nhân quả.

GIỚI THỨ MƯỜI: KHÔNG NÊN CẤT GIỮ TIỀN BẠC, CỦA BÁU

Của cải tiền bạc là một dục lạc trong năm thứ dục lạc: DANH, LỢI, SẮC, THỰC, THÙY. Của cải tiền bạc thuộc về “LỢI”. Vì thế nó là một thứ dục lạc khiến cho con người chạy theo nó phải thất điên bát đảo. Ðời người tranh đấu chém giết nhau cũng chỉ vì của cải tiền bạc vật chất, cốt nhục tương tàn cũng vì nó. Cho nên đức Phật dạy: “KHÔNG NÊN CẤT GIỮ TIỀN BẠC CỦA BÁU”. Giữ tiền bạc, của báu sẽ dễ dàng đắm nhiễm danh lợi, làm mất hạnh người tu sĩ. Tiền và vàng bạc còn sai khiến con người trở thành tên nô lệ vật chất cho nên người tu sĩ trong tu viện phải xem tiền, vàng bạc châu báu ngọc ngà là rắn độc sẽ khiến cho người tu sĩ sa vào con đường tội lỗi làm mất hết phạm hạnh. Quý vị cứ nhìn xem những tu sĩ hiện giờ chạy theo danh lợi thế gian mà oai nghi chánh hạnh không còn khiến cho Phật giáo suy đồi, con đường tutập giới luật đức hạnh và thiền định ly dục ly ác pháp bị chìm sâu trong giáo pháp của ngoại đạo khiến cho người đời sau khôngbiết đâu mà sống cho đúng đạo đức không làm khổ mình khổ người và khổ tất cảchúng sinh; không biết đâu mà tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi của Phật giáo. Bởi vậy tiền bạc là rắn độc.

Một hôm đức Phật và ông A Nan đi ngang qua một bờ ruộng, ông A Nan nhìn thấy dưới một rảnh nước khai ngang qua bờ ruộng có một hủ vàng nên nói với đức Phật: “Dưới một rảnh nước khai ngang qua bờ ruộng có một hủ vàng”. Khi đức Phật nhìn thấy và bảo với ông A Nan: “Rắn độc hãy tránh xa nó ra, nó sẽ cắn chết”. Một người nông dân làm ruộng ở gần đó nghe thấy thế nên đến xem và thấy hủ vàng, người nông dân cười to và bảo rằng: “Ðể xem con rắn này có cắn chết ta hay không”. Nói xong người nông dân ôm hủ vàng về nhà, nhờ có vàng nên cất nhà cửa làm giàu sang. Lúc bấy giờ tiếng đồn đến tai nhà vua. Nhà vua cho người đến thẩm tra biết rõ vàng đó là của vua nên kết án tử hình. Trước khi chết người nông dân mới than rằng: “Ðúng, vàng là rắn độc mà đức Phật đã nói với ông A Nan”.

Câu chuyện trên đây để quý vị suy ngẫm, có phải tiền của, vàng bạc, châu báu thường mang đến sự khổ đau cho con người.