JGLOBAL_PRINT

Năm Bức Tâm Thư Của Trưởng Lão

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trích “Những Chặng Đường Bên Thầy Chúng Con Học Đạo”, Tập 11, tr.73-104)

TÂM THƯ ngày 18-4-2009 (sđd, tr.73-86)


MÓN ĂN GIẢI THOÁT

Kính gửi: Các con!

Các con hãy đọc kỹ lại bài này mà Thầy đã cho ghi vào bia đá trong Tu Viện Chơn Như với tựa đề: “MÓN ĂN GIẢI THOÁT”. Món ăn giải thoát là một bài pháp thực hành rất cụ thể và căn bản nhất trong những lời đức Phật dạy từ xưa đến nay. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ nhất của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho MINH GIẢI THOÁT (Tam Minh)? BẢY GIÁC CHI, cần phải trả lời như vậy”.

 

Ðọc qua lời dạy này chúng ta thấy rõ con đường giải thoát của Phật giáo bắt đầu đức Phật chỉ thẳng cho chúng ta biết thành quả giải thoát cao nhất của Phật giáo là TAM MINH. Vậy muốn có TAM MINH thì phải tu tập như thế nào để cho phải có BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI. Trong đoạn kinh này đức Phật xem BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI là món ăn của TAM MINH. Cho nên muốn có TAM MINH thì phải tu tập cho có BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI. Ðó là những kết quả pháp hành tối thượng của đạo Phật để làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Muốn đạt được TAM MINH và BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI thì phải tu tập pháp môn nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ hai của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng Lực) Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”. Như vậy muốn có BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI thì phải tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ, chứ không phải tu tập BẢY GIÁC CHI. Tất cả các nhà học giả xưa và nay đều hiểu lầm chỗ này, họ hiểu BẢY GIÁC CHI là bảy pháp tu tập. Không ngờ tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì BẢY GIÁC CHI lần lượt xuất hiện từng GIÁC CHI. GIÁC CHI này xuất hiện xong thì GIÁC CHI kia xuất hiện, cứ trên trạng thái TỨ NIỆM XỨ tu tập kéo dài bảy ngày đêm thì BẢY GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ. Khi BẢY GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ thì liền có TỨ THẦN TÚC. TỨ THẦN TÚC gồm có;

1-Tinh Tấn Như Ý Túc

2- Niệm Như Ý Túc.

3- Ðịnh Như Ý Túc.

4- Tuệ Như Ý Túc.

Trong TUỆ NHƯ Ý TÚC có đầy đủ TAM MINH. TAM MINH gồm có:

1- Túc Mạng Minh

2- Thiên Nhãn Minh

3- Lậu Tận Minh.

Như vậy muốn có BẢY GIÁC CHI, TỨ THẦN TÚC, TAM MINH thì chỉ cần tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Vậy trước khi tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ chúng ta phải tu tập pháp môn gì?

Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ ba của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hạnh, cần phải trả lời như vậy”. Vậy BA THIỆN HẠNH là gì?

BA THIỆN HẠNH là pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Muốn đạt được trạng thái TỨ NIỆM XỨ thì phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN tức là hằng ngày tu tập không lúc nào ngơi nghỉ. Ði, đứng, nằm, ngồi đều tu tập được cả, luôn luôn dùng ý thức tri kiến ngăn và diệt các ác pháp bên ngoài lẫn bên trong của từng tâm niệm. Tất cả ác pháp này đều phải diệt sạch, chỉ còn giữ gìn và bảo vệ một pháp duy nhất, đó là TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ.

Trong sự tu tập ngăn ác diệt ác pháp thì SÁU CĂN PHẢI ÐƯỢC CHẾ NGỰ như lời dạy thứ tư của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hạnh? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy”.

Muốn chế ngự các căn thì phải sáng suốt nhận xét sáu trần xem coi tâm dính mắc vào trần nào, nếu tâm dính mắc vào trần nào thì phải ngăn và diệt sự dính mắc vào trần đó, không cho dính mắc, đó là cách thức chế ngự các căn. Như vậy chế ngự các căn là phải CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Ðúng như lời dạy thứ năm của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”.

Khi tâm lúc nào cũng ở trong CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC thì tâm rất sáng suốt. Tâm sáng suốt thì một trần cảnh hay một ác pháp nào muốn xâm chiếm vào tâm đều bị ý thức ngăn và diệt sạch khỏi tâm, khiến tâm luôn luôn BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Muốn ngăn và diệt được ác pháp như vậy thì ý thức luôn luôn phải CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC, nhờ có chánh niệm tỉnh thức mới biết dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý. Có tu tập như vậy mới thấy lời dạy thứ sáu của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”.

Ðúng như vậy, những pháp hành này là những pháp bảo vệ và giữ gìn TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ dễ dàng nhất mà không có một pháp nào hơn được. Ðây là pháp môn rốt ráo nhất của Phật giáo để cứu người ra biển khổ. Cho nên các con hãy nhớ mà tu tập, xem pháp môn này như món ăn hằng ngày để nuôi sinh mạng của các con. Bởi vậy bài pháp THỨC ĂN của Phật dạy là một bài pháp tuyệt vời. Cuộc đời đi tu mà gặp pháp môn này như người đói mà gặp côm và thực phẩm thì làm sao còn đói được nữa; như người nghèo gặp vàng bạc của báu thì làm sao còn nghèo nữa.

Trải qua sáu pháp tu học giúp chúng ta thấy Phật pháp rất thực tế và cụ thể trong các pháp hành. Tu đâu liền có kết quả ngay liền, bởi vì Phật pháp là pháp môn tu tập làm chủ thân tâm nên tu tập là có thấy kết quả làm chủ ngay liền.

Muốn siêng năng tinh tấn tu tập mà không biếng trể thì chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ bảy của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy”.

Lời dạy thứ bảy của đức Phật là LÒNG TIN. Lòng tin do từ đâu mà có? Chúng ta đã nghe sáu pháp môn thực hành trên đây của Phật giáo, mỗi pháp môn đều chỉ thẳng sự tu tập làm chủ thân tâm một cách cụ thể rõ ràng, khiến cho người nào tu tập cũng đều có sự làm chủ thân tâm, mang đến sự giải thoát rõ ràng. Nếu chúng ta không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì ngay đó là có sự làm chủ giải thoát. Chỉ cần nghe chứ chưa tu tập mà chúng ta đã có lòng tin sâu sắc, lòng tin không thể còn ai lay chuyển được.

Nhờ có những pháp tu hành làm chủ thân tâm thực tế như vậy nên làm sao người ta không tin. Những pháp ấy đức Phật gọi là VI DIỆU PHÁP. Vậy chúng ta hãy lắng tai nghe lời dạy thứ tám của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy”. VI DIỆU PHÁP không phải là pháp môn cao siêu vĩ đại có thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán vũ, tàng hình, biến hóa, v.v… VI DIỆU PHÁP của Phật rất bình thường như ăn cơm uống nước dễ dàng như vậy, chứ không phải như đọc thần chú, luyện bùa như Mật Tông; chứ không như niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương như Tịnh Ðộ Tông rất khó khăn; chứ không như ngồi thiền nhập định như Thiền Tông, chân đau như buốt, gối mỏi, lưng thụng, đầu lúc lắc như lên đồng nhập cốt, v.v… VI DIỆU PHÁP của Phật chỉ là những đức hạnh sống hằng ngày không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả các loài chúng sinh. Bởi vậy VI DIỆU PHÁP của Phật chỉ là pháp NGĂN ÁC DIỆT ÁC PHÁP hằng ngày trong tâm niệm của mình. Hầu hết mọi người tu hành chưa chứng đạo khi nghe nói đến VI DIỆU PHÁP thì liền nghĩ tưởng đó là pháp CAO SIÊU, vượt ngoài sự hiểu biết của con người. Người ta cho rằng VI DIỆU PHÁP còn có một cái tên là PHÁP MÔN BẤT TƯ NGHÌ có nghĩa là pháp môn không thể nghĩ bàn. Thật là con người quá giàu lòng tưởng tượng.

Ngày xưa đức Phật bảo: “Phật pháp không ngoài thế gian pháp”. Như vậy chúng ta không nên nghe những người tu chưa chứng mà hãy tìm những người đã tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì họ sẽ chỉ dạy những pháp mà họ đã tu chứng đạo như lời dạy thứ chín của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thứcăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy”. Ðúng vậy chỉ có những người tu chứng mới đủ khả năng dạy chúng ta tu chứng. Còn ngoài ra thì chúng ta đừng tin ai cả. Khi tu chưa chứng họ chẳng có kinh nghiệm tu hành nên dạy chúng ta tu hành không kết quả làm chủ thân tâm.


 

CHỈ THẲNG 9 PHÁP MÔN TU TẬP

Những lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta nhận thấy có CHÍN PHÁP tu tập gồm có:

1- THÂN CẬN THIỆN HỮU TRI THỨC: Người mới bắt đầu vào đạo phải tu pháp môn nào trước? Như đức Phật dạy: Mới bắt đầu tu tập là phải THÂN CẬN THIỆN HỮU TRI THỨC. Thân cận thiện hữu tri thức là thân cận bậc tu đã chứng đạo, có nghĩa là phải sống ở gần bên người chứng đạo để được thưa hỏi những điều mình chưa hiểu biết. Như vậy pháp thứ nhất là pháp “THÂN CẬN THIỆN HỮU TRI THỨC”

Khi sống được thân cận với bậc tu chứng đạo thì phải thưa hỏi chân lý giải thoát. Vậy chân lý giải thoát là cái gì?

2- NGHE VI DIỆU PHÁP. Như lời đức Phật đã dạy: NGHE VI DIỆU PHÁP. Vậy NGHE VI DIỆU PHÁP là nghe pháp gì? NGHE VI DIỆU PHÁP của đức Phật là nghe dạy BỐN CHÂN LÝ: KHỔ, TẬP, DIỆT, ÐẠO. Khổ, tập, diệt, đạo nghĩa là gì?

- KHỔ là nói về đời sống con người không ai là không khổ. Cho nên khi hiểu được đời là KHỔ thì ai cũng muốn đi tu cả.

- TẬP là nguyên nhân sinh ra mọi thứ đau khổ tức là LÒNG THAM MUỐN. Khi hiểu được lòng tham muốn là nguyên nhân sinh ra đau khổ thì ai cũng muốn tu tập để diệt trừ lòng ham muốn.

- DIỆT là trạng thái TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Khi hiểu biết và nhận ra tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là chân lý giải thoát của Phật giáo thì ai cũng muốn gìn giữ và bảo vệ nó để sống cho được với trạng thái này.

- ÐẠO là tám lớp học để thực hiện những phương pháp tu tập giữ gìn và bảo vệ TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ.

Khi nhận ra tám lớp học và những pháp tu tập để bảo vệ và giữ gìn tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng muốn tu tập để được giải thoát.

3- LÒNG TIN: Khi nghe và nhận hiểu bốn chân lý này là sự thật của kiếp người thì còn ai mà không tin đạo Phật. Khi chúng ta có LÒNG TIN thì pháp đầu tiên chúng ta tu tập là pháp NHƯ LÝ TÁC Ý.

4- NHƯ LÝ TÁC Ý: Pháp NHƯ LÝ TÁC Ý như thế nào? Pháp NHƯ LÝ có nghĩa là như lý của sự giải thoát. Vậy NHƯ LÝ CỦA SỰ GIẢI THOÁT như thế nào?

Như lý của sự giải thoát là TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ. Ðó là chân lý thứ ba của pháp “TỨ DIỆU ÐẾ”. Khi chúng ta thường xuyên tu tập pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thì tâm chúng ta ở trong trạng thái CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC.

5- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC: Pháp CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC nghĩa là gì?

- CHÁNH NIỆM nghĩa là niệm đúng theo như lời đức Phật dạy, còn niệm không đúng lời Phật dạy là TÀ NIỆM. Vậy niệm đúng lời Phật dạy là niệm gì? NIỆM TÂM BẤT ÐỘNG THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ (Niệm chân lý thứ ba), đó là CHÁNH NIỆM - CHÁNH NIỆM tức là TỨ NIỆM XỨ – TỨ NIỆM XỨ là chỉ cho trạng thái TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ.

- TĨNH GIÁC nghĩa là gì? TĨNH GIÁC có nghĩa là IM LẶNG VÀ SÁNG SUỐT.

Nghĩa chung của bốn từ CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là “LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ”. Khi tâm luôn luôn im lặng sáng suốt trên tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự thì các căn không tiếp xúc các trần. Các căn không tiếp xúc các trần nên gọi là chế ngự các căn.

6- CHẾ NGỰ CÁC CĂN: Pháp CHẾ NGỰ CÁC CĂN nghĩa là gì? là PHÁP ÐỘC CƯ, ÐỘC BỘ, ÐỘC HÀNH. Nhờ pháp độc cư, độc bộ, độc hành mới chế ngự các căn và làm cho các căn không còn phóng dật chạy theo các trần. Do đó THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH VÀ Ý HÀNH đều được thanh tịnh tức là thân hành, khẩu hành và ý hành không còn làm điều ác nên gọi là BA THIỆN HẠNH

7- BA THIỆN HẠNH: Pháp BA THIỆN HẠNH nghĩa là gì? BA THIỆN HẠNH là pháp TỨ CHÁNH CẦN, người sống với BA THIỆN HẠNH là người đang ngăn ác diệt ác pháp sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. BA THIỆN HẠNH tức là ba hành động THÂN, KHẨU, Ý thanh tịnh. Ba hành động THÂN, KHẨU, Ý thanh tịnh là toàn thân thanh tịnh. TOÀN THÂN THANH TỊNH tức là bốn chỗ thanh tịnh THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP thanh tịnh. Thân, thọ, tâm, pháp, là TỨ NIỆM XỨ. Tứ Niệm Xứ thanh tịnh là thân tâm thanh tịnh.

8- TỨ NIỆM XỨ: LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ tức là tâm đang ở trên TỨ NIỆM XỨ. Tâm ở trên trạng thái TỨ NIỆM XỨ này lần lượt xuất hiện đủ BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI.

9- BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI: Khi tâm tinh tấn siêng năng LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì:

1. TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện, khi TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện thì:

2. NIỆM GIÁC CHI xuất hiện, khi NIỆM GIÁC CHI xuất hiện thì:

3. ÐỊNH GIÁC CHI xuất hiện; ÐỊNH GIÁC CHI xuất hiện thì:

4. KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện; KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện thì:

5. HỶ GIÁC CHI xuất hiện; HỶ GIÁC CHI xuất hiện thì:

6. XẢ GIÁC CHI xuất hiện; XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì:

7. TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện.

Khi BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ thì thân tâm chúng ta có TỨ THẦN TÚC. TỨ THẦN TÚC gồm có:

1-      TINH TẤN NHƯ Ý TÚC (Tứ Niệm Xứ)

2-      DỤC NHƯ Ý TÚC (Lục Thông)

3-      ÐỊNH NHƯ Ý TÚC (Tứ Thánh Ðịnh)

4-      TUỆ NHƯ Ý TÚC (Trí tuệ Tam Minh)

Tu tập đến đây là chúng ta đã CHỨNG ÐẠO, không còn tu tập một pháp nào nữa cả. Vì thân tâm chúng ta cóđủ nội lực làm chủ sự sống chết, chấm dứt tái sinh, tự tại trong sinh tử, không còn bị nhân quả chi phối, điều hành nữa.


 

TRẢ LỜI 10 CÂU HỎI SAU ÐÂY:

Sau khi học xong các pháp trên đây các con nên xét lại sự tu tập của các con và trả lời 10 câu hỏi sau đây:

1- Trong CHÍN PHÁP tu tập trên đây các con đang tu tập pháp môn nào?

2- Trong chín pháp trên đây pháp môn THÂN HÀNH NIỆM là pháp môn thứ mấy?

3- Trong chín pháp trên đây pháp môn ÐỊNH NIỆM HƠI THỞ là pháp môn thứ mấy?

4- Tâm các con đang ở PHÁP MÔN TU TẬP thứ mấy?

5- Người mới bắt đầu tu tập LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ, đó là pháp môn gì?

6- Thân tâm lúc nào cũng LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ. Vậy thân tâm đang ở trên pháp môn gì?

7- CHẾ NGỰ CÁC CĂN là pháp môn gì?

8- VI DIỆU PHÁP là pháp môn gì?

9- NHƯ LÝ TÁC Ý là pháp môn gì?

10- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là pháp môn gì?

TRẢ LỜI:

1- Nếu tâm còn hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không thì nên tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM; nếu tâm còn vọng tưởng thì nên tu tập pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý.

2- Pháp môn THÂN HÀNH NIỆM là pháp thứ năm trong chín pháp.

3- Pháp môn ÐỊNH NIỆM HƠI THỞ là pháp thứ năm trong chín pháp.

4- Còn vọng tưởng thì tu tập pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý; hết vọng tưởng thì tu tập TỨ NIỆM XỨ.

5- Còn hôn trầm thì tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM; hết hôn trầm thì tu tập TỨ NIỆM XỨ.

6- Bắt đầu tu tập LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý. Thân tâm LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn TỨ NIỆM XỨ.

7- CHẾ NGỰ CÁC CĂN là pháp môn ÐỘC CƯ.

8- VI DIỆU PHÁP là pháp môn TỨ DIỆU ÐẾ.

9- NHƯ LÝ TÁC Ý là pháp môn DẪN TÂM VÀO ÐẠO.

10- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là pháp môn THÂN HÀNH NIỆMTỨ NIỆM XỨ.

Kính thư,

Thầy của các con

Trưởng Lão Thích Thông Lạc.


 

TÂM THƯ ngày 20-4-2009 (sđd, tr.86-89)

KHỞI TU TÂM BẤT ĐỘNG

Kính gửi: Các con thân thương!

Vì muốn các con tu tập từ thấp đến cao để có một cơ bản vững chắc, nên Thầy phải kiểm tra trắc nghiệm sự tu tập của các con. Sau khi dùng 10 câu hỏi để trắc nghiệm thì Thầy nhận xét sự tu tập của các con đã mất căn bản và nhất là các con tự kiến giải ra phương cách tu tập thay vì làm chủ thân tâm nó lại trở thành phương pháp ức chế tâm.

Thứ nhất: Các con nghĩ sai mục đích nên nghĩ ra cách thức tu tập làm cho ý thức không hoạt động. Do ý thức bị ức chế không hoạt động nên các loại tưởng xuất hiện dẫn dắt các con vào con đường thiền tưởng của Ðại Thừa và thiền Ðông Ðộ.

Thứ hai: Các con nghĩ đúng mục đích, vì mục đích tu tập của đạo Phật là làm chủ thân tâm. Do muốn làm chủ thân tâm thì ngay từ lúc mới bắt đầu tu tập thì phải tu tập làm chủ từng chút một hành động của thân tâm. Có tu tập như vậy mới có kết quả. Bốn oai nghi: đi, đứng, nằm hay ngồi đều phải tu tập làm chủ tâm, có nghĩa là khi tu tập tâm phải bất động hoàn toàn. Làm chủ tâm mà cứ để tâm có vọng tưởng xen ra, xen vào mãi thì làm sao làm chủ tâm?

Các Tổ ngày xưa do tu tập sai pháp không biết pháp dẫn tâm nên mới sản xuất ra pháp tu mà nay đã trở thành kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông, những kinh sách này toàn là tu tập ức chế tâm. Tuy nói rằng “giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự”, nhưng cả rừng kinh sách Ðại Thừa. Kinh sách Ðại Thừa gồm có tam tạng kinh điển, từ đó con đường tu tập giải thoát làm chủ sinh, già, bệnh, chết của đức Phật đã mất dấu, đã bị phủ lấp một lớp giáo lý của Ðại Thừa.

Như vậy quá rõ ràng hơn hai ngàn mấy trăm năm không đủ nói lên con đường chánh pháp của Phật đã bị các Tổ diệt mất sao? Ðó là một sự thật hiển nhiên mà không còn ai dám phủ nhận nói rằng trên đây là những lời chúng tôi nói sai.

Nhận biết pháp nào sai pháp nào đúng, vậy ngay từ bây giờ các con hãy ngồi bán già hay kiết già lưng thẳng nhìn về phía trước, cách chỗ ngồi 1,50 m, hai bàn tay để trên lòng bàn chân theo kiểu nắm chéo nhau để Thầy xem có đúng hay sai. Ðúng thì tiếp tục tập cách nhiếp tâm, còn sai thì hãy ngồi sửa lại cho đúng phương pháp ngồi.

Khi ngồi thân được yên lặng, bất động thì mới bắt đầu quan sát tâm, thấy tâm thật sự im lặng rồi tác ý mạnh mẽ trong đầu câu: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ”. Tác ý như vậy xong liền nhìn vào thân tâm đang im lặng và kéo dài trạng thái này chỉ khoảng 30 giây thì lại tác ý câu trên lần thứ hai: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ”. Tác ý xong thì cứ để tự nhiên im lặng 30 giây rồi tác ý câu trên một lần nữa. Cứ tu tập như vậy trong 30 phút rồi xả nghỉ. Xả nghỉ 30 phút rồi lại tu tập. Tu tập như vậy theo thời khóa đã định.

Ví dụ: Thời khóa tu tập một ngày đêm có bốn thời, mỗi thời tu có ba giờ mà mỗi giờ tu chỉ có 30 phút tu tập và 30 phút xả nghỉ, cứ theo thời khóa tu tập này mà giờ tu ra giờ tu, giờ nghỉ ra giờ nghỉ. Không được tu tập phi thời cũng như xả nghỉ phi thời.

Tu trong một ngày đêm rồi trình lại cho Thầy xem có nhiếp tâm bằng câu tác ý được hay không.

Trong khi tu tập phải nhiệt tâm tinh cần hết sức thì kết quả mới thấy rõ ràng. Nếu thiếu nhiệt tâm mà tu hành thì chỉ hoài công vô ích mà thôi.

Tất cả những pháp gì từ lâu các con đã tu tập, đó là cách thức làm quen nhiếp tâm, làm quen xả bỏ hôn trầm, thùy miên, v.v… chứ chưa phải pháp tu tập đi vào rốt ráo. Bây giờ là pháp rốt ráo và rất cơ bản. Hãy tu tập phương pháp DẪN TÂM VÀO ÐẠO.

Chúc các con tu tập thành tựu tốt đẹp.

Kính ghi,

Thầy của các con

Trưởng Lão Thích Thông Lạc.


 

TÂM THƯ ngày 2-4-2009 (sđd, tr.89-90)

LÀM CHỦ TÂM BẤT ĐỘNG

Kính gửi: các con thân thương!

Sau khi trắc nghiệm 10 câu hỏi, Thầy nhận ra sự tu tập của các con còn yếu lắm, chưa biết xử dụng pháp để làm chủ được tâm. Vậy bây giờ các con hãy ngồi bán già, hay kiết già lưng thẳng nhìn về phía trước, cách chỗ ngồi 1,50 m, hai bàn tay để trên lòng bàn chân theo kiểu nắm chéo nhau. Bắt đầu giữ gìn thân tâm im lặng một phút rồi tác ý: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ” tác ý xong liền giữ gìn thân tâm im lặng chỉ khoảng 30 giây thì lại tác ý câu trên: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SƯ”.

Các con nên nhớ khi tác ý xong thì tỉnh giác giữ gìn tâm im lặng 30 giây rồi mới tác ý câu trên nữa. Cứ tu tập như vậy trong 30 phút rồi xả nghỉ. Xả nghỉ 30 phút rồi lại tu tập. Tu tập như vậy theo thời khóa đã định. Giờ tu ra giờ tu, giờ nghỉ ra giờ nghỉ. Không được tu tập phi thời hay nghỉ phi thời.

Tu trong một ngày đêm rồi trình lại cho Thầy xem có nhiếp tâm bằng câu tác ý được hay không?

Trong khi tu tập phải nhiệt tâm tinh cần hết sức thì kết quả mới thấy rõ ràng. Nếu thiếu nhiệt tâm mà tu hành thì chỉ hoài công vô ích mà thôi.

Tất cả những pháp gì từ lâu các con tu tập hãy bỏ xuống hết, chỉ còn dùng một pháp duy nhất PHÁP DẪN TÂM VÀO ÐẠO. Hãy tu tập trở lại cho có căn bản đừng xem thường pháp DẪN TÂM VÀO ÐẠO, bằng không thì sẽ phí bỏ một đời tu tập.

Tuy bỏ hết các pháp không tu tập nhưng phải biết rõ tâm mình còn hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không thì phải xử dụng pháp môn THÂN HÀNH NIỆM. Khi thân có bệnh thì phải ôm pháp ÐỊNH NIỆM HƠI THỞ để đẩy lui bệnh khổ.

Chúc các con tu tập thành tựu tốt đẹp.

Kính ghi,

Thầy của các con

Trưởng Lão Thích Thông Lạc.


 

TÂM THƯ ngày 30-4-2009 (sđd, tr.94-98)

MƯỜI NĂNG LỰC DO TU TẬP PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM

Con đường tu tập theo Phật giáo thì phải nương theo lời dạy của Phật Thích Ca, lìa khỏi lời dạy của Ngài là chúng ta bị kiến giải. Cho nên muốn tu tập theo Phật Thích Ca thì không nên lìa kinh sách nguyên thủy. Tuy kinh sách nguyên thủy là lời dạy của đức Phật, nhưng khi kết tập thì đức Phật Thích Ca đã thị tịch cho nên mặc cho các vị tỳ kheo lúc bấy giờ muốn thêm thắc như thế nào mặc tình. Như chúng ta đã biết kỳ kết tập kinh sách lần thứ ba mới được vua A Dục cho khắc chữ lên bia đá, còn những lần khác đều được truyền miệng. Như vậy kinh sách Nguyên Thủy chưa chắc đã trọn vẹn lời Phật dạy. Cho nên, khi nghiên cứu kinh sách nguyên thủy chúng ta nên loại trừ những kiến giải của các Tổ sư Nam Tông cũng như Bắc Tông.

Muốn làm sáng tỏ con đường tu tập của Phật giáo chúng tôi dựa lời dạy của đức Phật: “BẢNG TÓM LƯỢC MƯỜI NĂNG LỰC DO TU TẬP PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM”

Mười năng lực của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM này do đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy như sau: “Này các Tỷ-kheo, THÂN HÀNH NIỆM được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười năng lực này có thể được mong đợi. Thế nào là mười năng lực?

1- Lạc, bất lạc được nhiếp phục, và bất lạc không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên.

2- Khiếp đảm sợ hãi được nhiếp phục, và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên.

3- Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận.

4- Vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng.

5- Tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy chứng được bốn Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.

6- Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện một thân; hiện hình biến đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm thiên; với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần.

7- Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loại người; tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm có sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền định, biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.

8- Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.

9- Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

10- Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.

Này các Tỷ-kheo, THÂN HÀNH NIỆM được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười năng lực này sẽ có kết quả ngay liền..

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy”.

Trên đây là 10 năng lực của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM, Thầy xin trích ra trong kinh THÂN HÀNH NIỆM để các con có đủ lòng tin với pháp môn này. (Bài kinh số 19 Trung Bộ, tập III)

Với pháp môn này Thầy đã kết hợp được làm cho thành một cỗ xe, được làm cho thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập. Nhờ đó hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, vọng tưởng và các cảm thọ không còn dám bén mảng đến thân tâm của các con nữa, nếu các con siêng năng tu tập.

Pháp THÂN HÀNH NIỆM tu tập như vậy đâu có ngồi nhiều, chỉ ngồi có năm hơi thở mà thôi. Vậy cớ sao các con lại thích ngồi, ngồi gục tới, gục lui như con gà mổ thóc, như người khòm lưng giả gạo, ngồi thụng lưng như con ếch, ngồi khòm lưng cúi đầu như con rắn khoanh tròn, ngồi nghểnh đầu, nghiêng cỗ như con ó tìm mồi v.v…và v.v… Tướng ngồi của các con xấu như vậy, các con có biết không? Xưa đức Phật dạy: Ngồi phải thẳng lưng, đầu cỗ phải ngay ngắn, đó là tướng phước điền, vì thế đức Phật đâu có dạy các con ngồi thụng, ngồi cong, ngồi vẹo, ngồi nghiêng cỗ kỳ lạ như vậy. Các con kiến giải chế ra cách ngồi thiền như vậy thật là một loại thiền kỳ lạ mà con đường tu theo Phật giáo không ai chấp nhận. Thầy xin các con hãy cố gắng sửa lại.

Các con hãy từ bỏ ngay những hành động ngồi, nằm trong giờ tu tập. Các con hiện giờ thân tâm đầy ắp hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không và vọng tưởng. Nếu không tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM thì chẳng bao giờ các con dẹp sạch những chướng ngại pháp ấy. Tu tập chưa hết hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không và vọng tưởng mà ưa ngồi, đó là lười biếng, không tinh tấn, không siêng năng. Người tu hành mà lười biếng, không tinh tấn, không siêng năng thì con đường giải thoát làm sao tu tập tới nơi, tới chốn được.

Những điều lợi ích của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM mà đức Phật đã xác định cho các con thấy rõ ràng ở trên là một bằng chứng cụ thể để dẹp sạch các chướng ngại pháp, khiến thân tâm của các con thanh tịnh, thế mà các con có tin những lời dạy này đâu, nên chỉ tu tập sơ sơ cho lấy có, cho có hình thức rồi lại ngồi hay nằm kiết tường lim dim như con cóc ngồi dưới đáy giếng hay ngồi dưới cơn mưa.

Pháp THÂN HÀNH NIỆM là một pháp môn có công năng rất lớn giúp cho các con làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chứng đạt chân lý tâm vô lậu. Vậy sao các con lại lười biếng không chịu tu tập mà cứ ngồi nằm làm phí mất thời gian quá uổng. Thân vô thường nay mạnh, mai đau ốm rồi lấy gì mà chống đỡ đây?

Khi được bài pháp này các con hãy cố gắng tu tập trở lại cho chín chắn, phải tinh cần siêng năng tu tập đi kinh hành pháp THÂN HÀNH NIỆM, phải nhiệt tâm tu tập trong từng hành động chân, tay và hơi thở, không nên bỏ sót một hành động nào cả, vì Thầy đã kết hợp 13 hành động thân-ý trở thành một pháp môn THÂN HÀNH NIỆM.

Kính thư,

Thầy của các con

Trưởng Lão Thích Thông Lạc.


 

TÂM THƯ ngày 15-5-2009 (sđd, tr.98-104)

CHỨNG ÐẠO

Pháp tu hành theo Phật giáo rất thiết thực và lợi ích, không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Sự làm chủ này rất cụ thể như trong bức của cô Liên Hạnh đã trình bày sự tu tập mà cô đã làm chủ thân bệnh của mình.

“Kính bạch Thầy, mười ngày nay con theo pháp Thầy dạy, con tu tập có tiến bộ rõ ràng, tâm không bị vọng tưởng, không hôn trầm gì hết, lúc nào câu tác ý cũng ở trong đầu con, hễ con ngủ thì thôi mà vừa tỉnh dậy thì tâm con liền nhớ ngay câu tác ý: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÀ VÔ SỰ”

Mười ngày nay con nhờ pháp DẪN TÂM VÀO ÐẠO mà con nhiếp phục và làm chủ tâm con một cách rõ ràng. Vì thế, hiện giờ tâm con êm re, không còn một niệm vọng tưởng nào xen ra, xen vô như trước kia nữa, thật là pháp DẪN TÂM tuyệt vời.

Kính thưa Thầy, con trình sự tu tập như vậy và xin Thầy hoan hỷ cho con tu tập pháp DẪN TÂM VÀO ÐẠO một thời gian nữa để sự nhiếp tâm của con có căn bản vững chắc. Từ lâu con tu tập không có căn bản nên đã làm mất thời gian rất uổng. Tu mà làm chủ được tâm như thế này thì rất ham tu. Bởi vì, các pháp đều vô thường, nó luôn luôn rình rập bên con, chờ có dịp là nó lôi con vào chỗ mất mạng. Cho nên con rất sợ, vì thế con tu tập được nên con nghĩ mình phải tu tập từng bước một cho vững chắc, tuy chậm nhưng rất chắc chắn, vì mỗi hành động tu tập là mỗi hành động làm chủ tâm mình. Con hiện giờ tu tập không giống như xưa kia ngồi xuống bắt bướm hái hoa mà cũng không cố sức chạy mà lại chạy lệch hướng thì cũng hoài công phí sức vô ích. Kính thưa Thầy, đêm hôm qua lúc 11giờ30 phút con đang ngủ không biết con gì cắn tay con, giựt mình thức dậy, cánh tay đau nhói tự nhiên tâm con khởi lên câu tác ý: “TÂM PHẢI BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ”. Tâm con tác ý, tay bấm đèn pin tìm xem con gì ở đâu? Tìm không thấy con gì, nhưng tay con đau lắm và bắt đầu sưng lên ngay chỗ bị cắn. Thấy thế con liền tác ý: “Cái tay không đau, không sưng nữa nghe!” Lời con nói như vậy nhưng Thầy ơi! Sao nó nghe theo lời con nên tay con không còn đau, nhưng sưng vẫn còn chưa hết.

Kính bạch Thầy, con cảm đội ơn đức Thầy truyền dạy pháp mầu của Phật, giúp cho chúng con làm chủ được bệnh tật và những chướng ngại gì con cũng vượt qua được. Nếu không có pháp của Thầy thì không biết đời con sẽ đi về đâu.

Kính bạch Thầy, trước đây những cơn bệnh quái ác hoành hành thân con khổ sở vô cùng và nó cứ đeo đẳng con mãi. Có lúc con muốn mượn dòng sông để kết liễu cuộc đời mình vì không biết cách nào cứu mình thoát khỏi bệnh khổ. Lúc này con chưa gặp Thầy, chưa biết pháp tu tập làm chủ bệnh khổ nên con nghĩ cuộc đời này là địa ngục, hễ hỡ ra chuyện gì cũng đều là đau khổ. Kính bạch Thầy, từ khi được gặp Thầy chỉ dạy pháp tu làm chủ sinh, già, bệnh, chết con như từ chỗ tăm tối được thấy ánh sáng, con như người chết đuối được cứu sống, con rất hạnh phúc, vì đã được gặp Phật ra đời không còn sợ lầm đường lạc lối nữa. Có Thầy bên cạnh âm thầm khuyên dạy, con nhanh chân bước xuống thuyền trở về bờ giác thõa nguyện ước mơ.

Kính bạch Thầy, thân con mang một bệnh tim mỗi khi nhói lên đau là con ngất xỉu bất tỉnh, một hồi lâu mới tỉnh lại. Kể từ bữa nay đã hơn một tháng mấy ngày mà cơn bệnh đau tim của con không còn tái lại nữa. Thật là pháp Phật nhiệm mầu từ khi con ôm pháp THÂN HÀNH NIỆM tu tập con đã làm chủ được bệnh, con đã điều khiến được thân tâm con. Con ôm pháp THÂN HÀNH NIỆM tu tập suốt trong 20 ngày phá sạch hôn trầm vọng tưởng và phá luôn bệnh bứu và tim mà trước kia bác sĩ chê không trị được nay nó đã hết, thật là pháp Phật kỳ diệu vô cùng.

Thân con hôm nay hết bệnh con biết nói lời gì đây để tỏ lòng thành kính tri ân đối với Thầy. Hiện giờ con chỉ cầu mong và cố gắng hơn nữa để tu tập liễu sinh thoát tử, đó là đền đáp ơn Thầy. Cuối thư con chỉ cầu chúc Thầy sống trường thọ để làm chỗ nương tựa cho chúng con.

Ðọc thư cô Liên Hạnh quý vị đã biết sự chứng đạo chỗ nào chưa?

Từ lâu quý vị đã từng bảo nhau: “TU KHÔNG BAO GIỜ CHỨNG ÐẠO”. Vậy chứng đạo là chứng cái gì? Ðức Phật đã xác định rõ ràng: chứng đạo là làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người: SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Từ ngày quý vị theo Thầy tu học quý vị có chứng đạo chưa? Nếu quý vị chịu khó nhận xét thì quý vị chứng nhiều lắm.

Thứ nhất: về ÐỜI SỐNG quý vị đã làm chủ được ĂN, NGỦ, kế đó đã làm chủ được tâm mình biết buông xả vật chất, không tham tiền bạc danh lợi, không tham nhà cao cửa rộng, không tham sắc dục, không giận hờn, buồn phiền hay lo lắng, sợ hãi mọi điều gì cả, v.v… Ðó là làm chủ được tâm, như vậy là chứng đạo quý vị ạ!

Thứ hai: trong quý vị có những người sống ba y một bát thiểu dục tri túc như đức Phật, có người bỏ hết con cái, người thân trong gia đình vào tu viện để sống một đời cô đơn, một mình mà vẫn an vui; có người làm chủ được cơ thể già yếu đi khất thực sống không nhờ vào con cháu cơm nước, không nương tựa vào con cháu ẩm bồng vệ sinh, luôn luôn khỏe mạnh không đau nhức chỗ này, chỗ khác trên cơ thể, v.v… Ðó là làm chủ già, như vậy là chứng đạo quý vị ạ!

Thứ ba: trong quý vị có nhiều người tu tập theo pháp THÂN HÀNH NIỆM hay pháp DẪN TÂM VÀO ÐẠO nên đã làm chủ được bệnh, khi có bệnh chỉ cần tác ý đuổi bệnh ra khỏi cơ thể là hết bệnh như cô Liên Hạnh đã ghi vào bức thư ở trên. Ðó là làm chủ bệnh, như vậy là chứng đạo quý vị ạ!

Thứ tư: rồi đây sẽ có những người sẽ làm chủ sự sống chết, muốn chết hồi nào là chết hồi nấy. Ðó là làm chủ chết, như vậy là chứng đạo quý vị ạ!

Ðọc thư cô Liên Hạnh cũng như nhiều thư phật tử ở khắp mọi miền đất nước đã gửi về đều đã xác định có những người theo Thầy tu tập đã làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, như vậy họ là những người đã CHỨNG ÐẠO trọn ba phần còn một phần cuối nữa. Cớ sao có người bảo rằng không chứng đạo?

Chứng đạo của Phật giáo rất đơn giản và thiết thực lợi ích cho đời sống của con người chứ không phải như quý vị nghĩ: chứng đạo là phải có thần thông pháp thuật kêu mưa, hú gió, tàng hình, biến hóa, v.v... Ðiều hiểu đó là quý vị đã hiểu sai đạo Phật. Ðạo Phật không phải là đạo luyện thần thông pháp thuật bùa chú, v.v… đạo Phật chỉ là một nền đạo đức đem lại cho con người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Vì thế, chứng đạo của đạo Phật là làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là đủ không còn phải tu tập pháp môn nào nữa cả.

Ðọc bức tâm thư này quý vị đã hiểu rõ, xin ÐỪNG PHỦ NHẬN SỰ CHỨNG ÐẠO của đạo Phật. Ðạo Phật có chứng đạo hẳn hoi chứ không phải là lời nói suông như các tôn giáo khác mà quý vị đã lầm tưởng.

Hãy tinh tấn tu tập lên đi quý vị ạ! Sự chứng đạo không phải ở đâu xa mà ở ngay trong ý thức của quý vị! Như trong kinh Pháp Cú Phật đã dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp!” Nếu quý vị dùng ý thức dẫn tâm quý vị vào thiện pháp thì quý vị được giải thoát sống an vui hạnh phúc, còn ngược lại, quý vị dùng ý thức dẫn tâm vào ác pháp thì quý vị sẽ sống trong khổ đau phiền não. Cho nên CHỨNG ÐẠO là chỗ tâm quý vị sống thiện hay ác mà thôi.

Kính thư,

Thầy của các con

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC.

***