• tranhducphat
  • ttl1
  • quetsan
  • phattuvandao1
  • lopbatchanhdao
  • ttl3
  • toduongtuyetson
  • tinhtoa2
  • thanhanhniem2
  • amthat2
  • vandao2
  • thanhanhniem3
  • vandaptusinh
  • ThayTL
  • khatthuc1
  • huongdantusinh
  • amthat3
  • amthat1
  • daytusi
  • lailamtoduong1
  • thanhanhniem1
  • tinhtoa1
  • phattuvandao3
  • benthayhocdao
  • tamthuphattu
  • chanhungphatgiao
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
JGLOBAL_PRINT

1.- PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý; 2.- PHẬT VÀ ALAHÁN; 3.- PHÁP VI DIỆU

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 3, TG. 2010, tr. 129-131; tr. 132-134; tr. 289-291)
link sách: NLGPD, tập 3

1.- PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý

LỜI PHẬT DẠY:

“Này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo nào “như lý tác ý” sắc, như thật quán sắc vô thường, vị ấy yểm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham được đoạn tận, hỷ đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát”. (Tương Ưng Bộ, tập III, Phẩm Tự Mình Làm Hòn Đảo, kinh IX. Hỷ Ðược Ðoạn Tận. S.iii,51)

CHÚ GIẢI:

Xin các bạn lưu ý tu tập thiền định theo Phật giáo là phải ly dục ly ác pháp mới nhập được Sơ Thiền, nhưng muốn ly dục ly ác pháp thì pháp như lý tác ý là đệ nhất pháp tu tập thiền định, còn tất cả các pháp môn khác trụ tâm, nhiếp tâm, ức chế tâm cho hết vọng tưởng là pháp môn của ngoại đạo, chứ không phải chánh định, chánh thiền của Phật giáo. Ở đây các bạn nên lưu ý chỗ sai khác để nhận ra thiền của Phật giáo và của ngoại đạo. Khi nhận ra chỗ này thì các bạn sẽ không còn bị lầm lạc với pháp môn thiền Ðại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông và Minh Sát Tuệ nữa. Các pháp môn thiền này lừa đảo các bạn ghê gớm.

Trên đây là một bài pháp trong kinh Tương Ưng mà đức Phật đã dạy cho các vị Tỳ Kheo tu tập thiền định để đạt được sự giải thoát một cách rất dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bài kinh này là một bằng chứng xác định cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa cho đến ngày nay mọi người tu tập thiền định theo Phật giáo từ Nam Tông đến Bắc Tông và 33 vị Tổ Sư Thiền Ðông Ðộ đều dạy tu sai lạc không đúng giáo pháp của Phật giáo.

Bài kinh này dạy cách thức tu tập như thế nào?

Cách thức tu tập theo bài kinh này thì nương theo thân hành niệm mà như lý tác ý.

Ví dụ: Nương thân hành nội là hơi thở mà tác ý như trong kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hoặc “Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra”.

Nếu đi kinh hành thì nương vào bước đi mà tác ý: “Quán ly sân tôi biết tôi đang đi kinh hành, chân trái bước! Quán ly sân tôibiết tôi đi kinh hành, chân phải bước!”...

Cách thức tu thiền định của Phật như lời dạy trên đây trong kinh Tương Ưng thì Thiền Minh Sát Tuệ, thiền Ðông Ðộ và thiền Ðại Thừa đều hoàn toàn cách xa một trời một vực.

Các bạn nên xét lại những loại thiền mà các bạn đang tu tập có giống như thiền định của Phật giáo chăng? Nếu không giống thì đừng tự xưng là mình tu theo thiền của Phật giáo. Vì Phật giáo chỉ có một loại thiền định chân chánh được gọi là Tứ Thánh Ðịnh. Tức là thiền định xả tâm ly dục ly bất thiện pháp mà thôi.

2.- PHẬT VÀ ALAHÁN 

LỜI PHẬT DẠY:

“Như Lai, này các Tỳ kheo, là bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên con đường trước kia chưa ai làm cho khởi, là bậc đem lại con đường trước kia chưa ai đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường trước kia chưa được ai tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. 

Còn nay này các Tỳ Kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu đạo.

Này các Tỳ Kheo! Ðây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A La Hán, bậc Chánh Ðẳng Giác và bậc Tỳ Kheo được giải thoát nhờ trí tuệ”. (Kinh Tương Ưng, tập 3, trang 120, Ðại Tạng kinh Việt Nam).

CHÚ GII:

Qua lời dạy trong kinh Tương Ưng trên đây đức Phật đã xác định rất rõ ràng: “Phật và A La Hán sự tu chứng đạo thì không khác nhau, nhưng đức Phật khác với những bậc A La Hán là vì đức Phật là người đầu tiên khởi lên, đem lại và tuyên thuyết bốn chân lý của loài người”.

Cũng qua bài kinh trên đây chúng ta có thể xác định rằng: Sáu Vị Phật quá khứ không có, chỉ có là sáu vị thần của Bà La Môn thì đúng hơn. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là người đầu tiên khởi xướng con đường giải thoát này.

Ðây chính do lời đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Như vậy, kinh sách Ðại Thừa đã dựng lên sáu vị Phật quá khứ là sai, không đúng xin các bạn cứ suy ngẫm lời dạy này thì sẽ thấu rõ như thấy chỉ trong lòng bàn tay của quý bạn.

Ðọc đoạn kinh này, chúng ta thấy rõ kinh sách Ðại Thừa không phải là kinh sách của Phật, kinh sách Ðại Thừa là những kinh sách bịa đặt, để đưa sáu vị thần của Bà La Môn vào làm vị Phật quá khứ của Phật giáo. Nhờ bài kinh này chúng ta thấy được âm mưu của Bà La Môn thật là gian xảo. 

Một bài kinh này cũng đủ vạch mặt Ðại Thừa là thứ giả hiệu và như vậy Phật giáo mà chúng ta đang có, là không phải Phật giáo. Phải không các bạn?

Trong kinh sách Nguyên Thủy còn nhiều bài kinh để xác định, chỉ thẳng kinh sách Ðại Thừa là thứ kinh giả hiệu.

3.- PHÁP VI DIỆU

LỜI PHẬT DẠY:

“Này các Tỳ Kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau:“Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu chỉ người có trí mới hiểu thấu, còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái dục, ham thích ái dục, khó mà thấy được định lý, sự kiện này thật khó thấy. Tức là sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham đoạn diệt, Niết Bàn”.

CHÚ GIẢI:

Những lời dạy trên đây, đức Phật đã xác định một cách quả quyết rằng pháp môn của mình đã tìm ra và đã tu chứng là “sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận và vi diệu”.

Nếu ai đã tu tập đúng những pháp môn “Giới, Ðịnh, Tuệ” thì lời ca ngợi này là một sự thật, không có một chút gì dối người.

Khi tu tập xong, chúng tôi mới hiểu rõ lời dạy của Phật thật là “sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận và vi diệu”. Cho nên, từ xưa đến nay các nhà học giả tu hành chưa tới nơi, tới chốn, lại đem kinh sách Phật ra giảng thuyết làm sai lệch nghĩa lý của Phật pháp.

Hiểu sai, làm lệch ý Phật, mà còn kết tập thành kinh sách thì kinh sách ấy là một mớ kiến giải chữ nghĩa, chứ tu hành làm sao đạt được cái gì?

Pháp của Phật đâu phải để cho người tâm còn dục mà tu tập. Vì tâm còn dục bạn không thể nào tu theo Phật giáo được. Cho nên đức Phật nói: “quần chúng này thì ưa ái dục, khoái dục, ham thích ái dục, khó mà thấy được định lý, sự kiện này thật khó thấy”.

Thưa bạn! Khi muốn tu theo Phật giáo thì bạn có hiểu biết bạn không? Bởi vì bạn mang tâm dục đến với Ðạo Phật, thì bạn chỉ uổng công mà thôi. Nếu bạn xa lìa tâm dục thì sẽ không ưa ái dục, không khoái ái dục, không ham thích ái dục thì bạn mới thấy rõ định lý của Phật giáo rất là mầu nhiệm và sâu kín.