
PHÁP THÂN HÀNH NIỆM NỘI: HƠI THỞ
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích MCĐPTPMN, TG. 2007, tr. 16-75)
link sách: MCĐPTPMN
Do các tỳ kheo tán thán, ca ngợi pháp môn Thân Hành Niệm này nên Đức Phật tùy nhân duyên và đặc tướng của mọi người mà Ngài chỉ dạy cách thức tu tập.
Trước tiên muốn tu tập Pháp môn Thân Hành Niệm là phải chọn lấy hơi thở, khi tu tập hơi thở (Thân hành niệm nội) thì phải ngồi. Do ngồi tu tập nên có tám yếu tố cần phải biết như sau:
1- Tìm nơi thanh vắng, yên tịnh như rừng, núi, đồng trống vắng vẻ hoặc ngôi nhà bỏ trống v.v…
2- Ngồi lưng thẳng trong tư thế ngồi nào cũng được, nhưng lưng phải thẳng, đầu không được cúi.
3- Phải an trú chánh niệm trước mặt.
4- Chánh niệm biết hơi thở vô, hơi thở ra.
5- Chánh niệm biết hơi thở dài vô, hơi thở dài ra.
6- Chánh niệm biết hơi thở ngắn vô, hơi thở ngắn ra.
7- Chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra.
8- Chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra.
Trên đây là tám yếu tố hơi thở đầu tiên cần phải tu tập, nhưng phải giữ gìn tâm không phóng dật, siêng năng tu tập không bỏ phí giờ giấc nào cả, mỗi lần tu tập thì phải hết sức nhiệt tâm ghi nhận vào pháp tu tập chứ không phải tu tập lấy có mà phải tu tập rất kĩ lưỡng, nhưng không được tu quá sức, tu đúng với sức của mình, nếu sức của mình chỉ tu tập có một phút thì nên tu tập một phút, không nên tu tập nhiều hơn, vì tu tập nhiều hơn sẽ bị rối loạn hô hấp hoặc cơ thể.
Nhờ có tu tập đúng pháp, đúng sức lực của mình thì vọng niệm về thế tục tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được đoạn trừ, khi nó được đoạn trừ thì tâm không còn khởi niệm nữa. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy nên nội tâm được An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh. Đó là những kết quả tu tập đúng pháp, đúng với sức lực của mình, còn nếu ngược lại tu sai thì cũng nhiều tai họa xảy ra. Cho nên khi tu tập thì nên ở gần thiện hữu tri thức. Muốn biết rõ điều này chúng ta hãy đọc kĩ lời dạy của Đức Phật thì rõ:
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vịấy thở vô. Chánh niệm, vịấy thở ra. Hay thở vô dài, vịấy biết: "Tôi thở vô dài.” Hay thở ra dài vị ấy biết: “Tôi thở ra dài." Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn." Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn." “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra.” “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Đọc đoạn kinh này chúng ta biết ngay hơi thở là một pháp Thân Hành Niệm rất quan trọng trong sự tu tập giai đoạn thứ nhất để đạt được tâm An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh.
Chúng ta đừng nghĩ rằng: khi tu tập Hơi Thở là chỉ biết nương vào Hơi Thở ra và Hơi Thở vô. Không phải vậy, thưa quý vị.
Trong pháp Hơi Thở có 19 đề mục tu tập riêng về Hơi Thở, nhưng ở đây Hơi Thở được gọi là pháp môn Thân Hành Niệm là để cho những người đã tu tập xong 19 đề mục Hơi Thở, còn những người nào tu tập chưa xong 19 đề mục thì không nên tu tập Hơi Thở trong pháp môn Thân Hành Niệm.
Về Hơi Thở, một vị thầy có nhiều kinh nghiệm mới dám hướng dẫn tu tập 19 đề mục Hơi Thở. Nếu không có một vị thầy dạy chuyên về Hơi Thở thì không nên tự mình tu tập, vì tu tập sai Hơi Thở và không xác định đúng Đặc Tướng của mình thì đó là một sự nguy hại trên bước đường tu tập.
Người mới tu tập chỉ làm quen với Hơi Thở, chớ không thể tu tập pháp môn Thân Hành Niệm Hơi Thở được. Sau khi tu tập 19 đề mục Hơi Thở thuần thục nhuần nhuyễn thì mới nhận ra được trạng thái An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh. Bởi vì người tu tập pháp môn Thân Hành Niệm là người không còn bị rối loạn hô hấp. Nếu một người chưa bao giờ tu tập Định Niệm Hơi Thở mà tu tập pháp môn Thân Hành Niệm Hơi Thở đều bị rối loạn hô hấp.
Tuy pháp môn Thân Hành Niệm là một pháp môn nhưng gồm chung các Thân Hành. Các Thân Hành trong thân gồm có:
1.-Thân hành do tay, chân.
2.-Thân hành do miệng lưỡi.
3.-Thân hành do ý thức.
Cho nên người nào tu tập pháp môn Thân hành Niệm là tu tập tất cả hành động Thân, Miệng, Ý. Tu tập tất cả hành động Thân Hành như thế nào?
Từ lâu chúng ta không quan tâm cẩn thận mỗi hành động trong thân của mình nên muốn làm một điều gì thì cứ làm, cho nên việc làm cẩu thả không vén khéo thường thất bại, trong những hành động thất bại đó dù có thể đem đến sự đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh mà cứ vẫn làm
Hôm nay thì khác vì từ khi biết Phật pháp thì sự cẩn thận trong mỗi hành là điều cần thiết đem đến sự bình an yên vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Cho nên vì hạnh phúc cho mình, cho người và tất cả chúng sinh nên mỗi hành động của thân phải có ý tứ cẩn thận. Ý tứ cẩn thận mỗi hành động của thân tức là Tỉnh Thức trong Thân Hành. Muốn được tỉnh thức trong Thân Hành thì nên tu tập 19 đề mục Hơi thở. Xin quý vị vui lòng nghiên cứu lại pháp môn Định Niệm Hơi Thở, vì pháp môn Định Niệm Hơi Thở đã dạy phương pháp tu tập rất rõ ràng từ sơ cơ đến đạt được tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.
Dưới đây là bài pháp dạy về Định Niêm Hơi Thở để tu tập tỉnh thức trong Thân Hành.
*****
1.- TÌM HIỂU VỀ ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Trong bài pháp Định Niệm Hơi Thở Đức Phật dạy gồm có 16 đề mục tu tập, 16 đề mục này là 16 pháp môn để tu tập đối trị 16 chướng ngại pháp trong thân tâm, chứ không phải 16 đề mục này là một chuỗi pháp môn tu tập từ thấp đến cao của hơi thở.
Quan trọng hơn nữa, ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ không phải là một pháp tu tập để nhập định. Từ xưa cho đến ngày nay mọi người đều hiểu sai lầm về Định Niệm Hơi Thở, biến nó trở thành một pháp môn ức chế tâm cho tâm không vọng tưởng như Lục Diệu Pháp Môn của Tổ Thiên Thai Tông.
Kính thưa quý vị! Khi mới tu tập hơi thở tức là làm quen với tất cả đề mục hơi thở. Tu tập trong một năm thì thuần quen với mọi đề mục hơi thở thì không còn tập luyện nữa. Lúc bấy giờ người tu sĩ được chuyển qua tu tập Tứ Chánh Cần. Khi tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tùy theo những chướng ngại trên thân, thọ, tâm và pháp mà trạch ra những câu tác ý đúng đề mục Định Niệm Hơi Thởthì những chướng ngại ác pháp ấy bị diệt trừ rất dễ dàng.
Đọc kinh sách Nguyên Thủy ai cũng biết Định Niệm Hơi Thở có 16 đề mục, nhưng khi đọc bài kinh pháp Thân Hành Niệm thì trong đó Đức Phật lại dạy thêm 2 đề mục hơi thở nữa. Và khi đọc đến bài kinh giáo giới La Hầu La về hơi thở thì Đức Phật lại dạy thêm một đề mục hơi thở nữa. Như vậy Định Niệm Hơi Thở gồm có 19 đề mục hơi thở cả thảy.
Theo kinh nghiệm tu tập của chúng tôi, để sử dụng hơi thở đi song song với câu pháp hướng tâm thường chúng tôi trạch pháp một câu tác ý cho phù hợp chính xác của cảm thọ tâm hay thân để đuổi các chướng ngại pháp thì kết quả các chướng ngại pháp không còn tác dụng vào thân tâm một cách cụ thể và rõ ràng. Vì thế, khi tu tập xả tâm li dục li ác pháp mà gặp chướng ngại trên thân, thọ, tâm thì chúng tôi liền trạch một câu pháp tác ý cho tương ưng, cho phù hợp và chính xác thì đuổi chướng ngại pháp đó đi liền. Câu tác ý do chúng tôi trạch ra xét lại ý nghĩa thì chẳng khác gì những đề mục Định Niệm Hơi Thở. Nhờ tu tập theo đề mục hơi thở như vậy, chúng tôi dẹp trừ những chướng ngại pháp không có khó khăn, không có mệt nhọc. Cho nên thân tâm của chúng tôi luôn được bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.
Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp tu tập có kết quả lớn và lợi ích lớn cho thân tâm không thể lường được. Nó làm cho Tứ Niệm Xứ sung mãn thể hiện được đầy đủ bảy năng lực giác chi, tức là Tứ Thần Túc. Nếu không có những đề mục Định Niệm Hơi Thở thì khó tu cho Tứ Niệm Xứ được sung mãn.
Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo này, có những Tỳ kheo chuyên tâm, chú tâm nhập tức xuất tức niệm (tu tập Định Niệm Hơi Thở). Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỳ kheo được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, công đức lớn, làm cho sung mãn khiến Bốn Niệm Xứ được viên mãn.”
Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm đem lại sự bình an cho thân tâm. Nếu ai tinh cần siêng năng tu tập cho thuần thục các đề mục Định Niệm Hơi Thở, khi gặp chướng ngại, liền dùng ngay đề mục Định Niệm Hơi Thở tương ưng thiện pháp để đẩy lui chướng ngại ác pháp đó, thì đuổi nó đi tức khắc.
Đây là một phương pháp lợi ích rất lớn cho con đường tu tập của quý vị, cho đời sống của quý vị, cho nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai của quý vị.
Nếu quý vị tu tập Định Niệm Hơi Thở để đẩy lui các chướng ngại trong thân tâm mà còn biết sống đúng giới luật để chuyển hóa nghiệp ác thì rất là tuyệt vời. Quý vị quả là sáng suốt. Năng lực của Định Niệm Hơi Thở là năng lực nội thân cộng thêm năng lực sức chuyển hóa của giới luật khiến cho nghiệp báo muôn đời, dù cực ác đến đâu, cũng đều bứng sạch gốc.
Quý vị đừng lầm pháp môn Định Niệm Hơi Thở với các pháp môn Hơi Thở kiến giải của các nhà học giả như: Sổ Tức Quan, Lục Diệu Pháp Môn, Thiền Hơi Thở: Phong, Khí, Suyển, Minh Sát Tuệ Phồng Xẹp, Hơi Thở Yoga, v.v… Đó là những loại pháp môn hơi thởức chế tâm, nếu quý vị tu tập theo những pháp ấy sẽ dễ bị rối loạn hô hấp và thần kinh. Những pháp môn hơi thở này không giống pháp môn hơi thở của Phật chút nào, xin quý vị lưu ý đề phòng.
Pháp môn Định Niệm Hơi Thở là pháp môn tối cần thiết cho người tu tập theo đường lối Phật giáo, nó giúp cho quý vị tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần: ngăn ác, diệt trừ ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Nhờ có tu tập Định Niệm Hơi Thở quý vị mới thấy kết quả ngay liền làm chủ cuộc sống một cách hiệu quả vô cùng chính xác mà loài người hằng mơ ước. Biết pháp môn Định Niệm Hơi Thở lợi ích lớn như vậy nên chúng tôi ghi chép ra, xin quý vị xem đây là một báu vật vô giá mà Đức Phật đã ban cho nhân loại với những danh từ mộc mạc đơn sơ mà Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần: ”Kết quả lớn, lợi ích lớn.” Mọi người không biết là kết quả lớn và lợi ích lớn mà đức Phật nói là gì.
2.- GIỚI THIỆU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn tuyệt vời. Trước khi muốn tu tập pháp môn này quý phật tử nên chọn một nơi thanh vắng và yên tĩnh, ít có người qua lại. Khi chọn được xong chỗ ngồi, quý vị ngồi xuống, ngồi kiết già hoặc bán già đều được cả, nhưng phải giữ gìn lưng thẳng, quay mặt vào vách, hay gốc cây, hai mắt nhìn xuống chót mũi, không nên nhắm mắt. Khi tư thế ngồi xong, thân yên ổn thì quý vị bắt đầu hít vào một hơi thở chậm chậm và dài để gom tâm, nghĩa là chú ý vào nhân trung. Khi nào hít vào hết sức hít thì quý vị lại thở ra cũng chậm chậm nhẹ và dài. Khi thở hơi thở này xong thì quý vị trở lại hơi thở bình thường, trước khi thở phải nín thở và tác ý hướng tâm: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Khi thở đúng 5 hơi thở xong thì quý vị lại nín thở tác ý nhắc tâm lại: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”
Khi thấy hơi thở ra vào đều đều, tâm gom tại nhân trung thì quý vị cứ tiếp tục tu tập hít thở như vậy. Khi được 30 phút mà không có một niệm nào xen vào, thì đó là kết quả thứ nhất của sự nhiếp tâm trong hơi thở.
Khi tu tập được 30 phút không có một niệm nào xen vào trong hơi thở thì không cần phải tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” vô nữa, mà phải tác ý bằng những câu khác để xả tâm trong khi đang thở. Nhưng nhớ đừng để cho một niệm nào xen vào trong khi ta thở và tác ý. Tu tập Định Niệm Hơi Thở như vậy độ 30 phút thì quý vị phải xả nghỉ, dù cho quý vị có sức ngồi tu tập bền lâu thì cũng nên tu tập 30 phút thôi, không nên tăng hơn. Luôn luôn tu tập Định Niệm Hơi Thở kèm theo pháp hướng để xả tâm thì thân tâm quý vị sẽ được thanh thản và an lạc.
Pháp môn Giới Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là một pháp môn mang lại lợi ích rất lớn cho công cuộc chiến đấu với mặt trận sinh tử luân hồi của quý vị.
3.- ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hạnh Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của Hơi Thở. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là gì?
Giới đức Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là những lời dạy đạo đức về đời sống đạo đức của con người trong Hơi Thở tức là Chánh Kiến.
Giới hạnh Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là những lời dạy về Hành Động Đạo Đức thường thể hiện qua giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... đều nương vào Hơi Thở Tỉnh Giác mà tiếp giao, nhớ đừng bao giờ quên Hơi Thở như vậy được gọi là Chánh Tư Duy.
Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra thì các bạn hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy La Hầu La. La Hầu La là người con trai duy nhất của Đức Phật. Đây là lời dạy La Hầu La tu tập Định Niệm Hơi Thở của Đức Phật: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn. Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích lớn?” (Kinh Giáo Giới La Hầu La)
Ở đây lời dạy này có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?
Chữ sung nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Tóm lại trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở. An trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở tức là biết Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm Hơi Thở.
Quả lớn là gì? Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Được lợi ích lớn là gì? Lợi ích lớn có 5 nghĩa là:
1- Đời sống được an vui, hạnh phúc không có ác pháp nào làm dao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v...
2- Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.
5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.
Trên đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra.
Vậy trước khi muốn tu tập giới hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra thì chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, biết thở vô, vị ấy thở ra, biết thở ra.”
Đọc đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt, tỉnh giác.
Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Nếu địa điểm không tìm được như trên Đức Phật đã dạy thì sự tu tập về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra rất khó khăn. Các phật tử lưu ý những lời dạy này vì nó rất cần thiết cho sự tu tập, xin quý vị nên nhớ kĩ. Quý vị đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được thì như vậy Đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng Đức Phật mới dạy. Đừng nghe theo những nhà Đại Thừa và Thiền Tông. Họ chỉ nói suông: “Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm.” Lời nói này đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.
Ngồi kiết già là gì? Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở), chỉ trừ có Hơi Thở là thân hành nội.
An trú chánh niệm là gì? An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì? Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1, Niệm Thân.
2, Niệm Thọ.
3, Niệm Tâm.
4, Niệm Pháp.
Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi là Chánh Niệm. Chánh niệm tức là pháp môn thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Cho nên tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập lớp thứ bảy trong tám lớp tu học của Phật giáo. Khi một người tu tập xong Tứ Niệm Xứ thì có Định Như Ý Túc. Có Định Như Ý Túc nên mới nhập được Tứ Thánh Định, nếu không có Định Như Ý Túc thì không bao giờ nhập định của Phật giáo được. Các tà sư ngoại đạo nhập định không phải là Chánh Định của Phật giáo mà của tả đạo bàng môn.
Người tu hành theo Phật giáo phải rõ Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo chia làm tám lớp trong ba cấp tu học:
1- Cấp Giới Luật
2- Cấp Thiền Định
3- Cấp Tuệ Tam Minh.
Cấp Giới Luật gồm có năm lớp học:
1- Chánh Kiến
2- Chánh Tư Duy.
3- Chánh Ngữ
4- Chánh Nghiệp.
5- Chánh mạng
Cấp Thiền Định gồm có hai lớp:
1- Chánh Tinh Tấn (Tứ Chánh Cần).
2- Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ).
Cấp Tam Minh gồm có Tứ Thánh Định:
1- Sơ Thiền.
2- Nhị Thiền.
3- Tam Thiền.
4- Tứ Thiền.
Con đường tu tập của Phật giáo có ba cấp: Giới, Định, Tuệ mà ai ai cũng biết. Trong mỗi cấp đều có pháp môn tu tập rất rõ ràng. Chúng ta phải dựa vào 37 Phẩm Trợ Đạo thì chúng ta mới biết pháp nào tu tập, nếu chúng ta không dựa vào 37 phẩm trợ đạo thì chúng ta không biết pháp nào để tu tập. Người nào muốn tu tập theo Phật giáo thì phải theo 37 Phẩm Trợ Đạo mà tu tập. Chính xét 37 Phẩm Trợ Đạo mà chúng ta biết kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không phải là kinh sách của Phật giáo, mà đó là kinh sách chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo và Lão giáo của nước ngoài. Vì thế người tu theo Phật giáo Đại Thừa không bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Dù Đại Thừa Bắc Tông hay Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông khi mới tu mà lấy pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập hay dạy người thì đó là những người chưa có kinh nghiệm tu hành trên pháp môn Tứ Niệm Xứ. Các sư thầy này chưa hiểu biết pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn thứ mấy trong Bát Chánh Đạo, cho nên mới dám tự mình tu và dạy cho phật tử tu như vậy. Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập trong lớp thứ bảy của Bát Chánh Đạo, vậy mà đem ra dạy cho người mới tu tập, biến Tứ Niệm Xứ trở thành pháp môn ức chế ý thức cho hết vọng tưởng. Đức Phật không có dạy ức chế ý thức cho hết vọng tưởng mà dạy li dục li ác pháp để tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Như vậy rõ ràng Phật dạy tu tập khác, các thầy tổ dạy và tu tập khác. Do tu tập sai khác như vậy nên tuy cũng tu tập Tứ Niệm Xứ mà Đại Thừa và Nguyên Thủy Nam Tông không làm chủ sự sống chết.
Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?
Trên Thân gồm có hai niệm:
1- Thân hành niệm nội..
2- Thân hành niệm ngoại.
Trên Thọ gồm có ba niệm:
1- Niệm thọ lạc..
2- Niệm thọ khổ.
3- Niệm thọ bất lạc bất khổ.
Trên Tâm gồm có hai niệm:
1- Niệm tịnh.
2- Niệm động.
Trên pháp gồm có hai niệm:
1- Niệm thiện.
2- Niệm ác.
Ở đây, bài pháp này Đức Phật đang dạy La Hầu La về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là Thân hành Niệm nội, tức là Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là tâm an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.
Tỉnh giác nghĩa là gì? Tỉnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu Đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kĩ từng Hơi Thở Vô, từng Hơi Thở Ra.
Người giữ gìn giới hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra có nghĩa là tu tập an trú trong Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt Hơi Thở vô ra. Vì tâm chúng ta hay quên (vô kí) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng Hơi Thở vô, ra. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” An trú được trong Hơi Thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời Đức Phật dạy Tôn giả La Hầu La mà tu tập như sau: Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng, sau khi ngồi kiết già lưng thẳng được chừng nửa tiếng đồng hồcó nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa giờ. Sau đó chúng ta mới đặt niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kĩ theo Hơi Thở Vô. Sau khi Hơi Thở Vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo Hơi Thở Ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu tu tập 1 phút sức tỉnh giác rất tốt không quên Hơi Thở nào, mà cũng không có một niệm nào khác xen vào. Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tỉnh giác Hơi Thở Ra Vô, ta tăng 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi tăng lên 10 phút ta xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không? Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v... Khi có những trạng thái như vậy xảy ra ta nên thưa hỏi thiện hữu tri thức (là người có kinh nghiệm tu chứng).
Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở được chia ra làm hai phần:
1- Bảy đề mục đầu nhiếp tâm và an trú tâm
2- Mười hai đề mục sau đẩy lùi các ác pháp.
4.- Cơ bản thực hành Định Niệm Hơi Thở
Muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở thì phải ngồi kiết già (nếu chưa quen thì tạm thời ngồi bán già, nhưng phải tập ngồi kiết già cho được); giữ lưng ngay thẳng, không khòm, không nghiêng tới trước hay ngả sang bên phải, bên trái, cũng không rướn người quá cao, chỉ giữở mức thoải mái mà thẳng lưng. Lúc này quý vị phải kiểm soát lưng cho thẳng sau mỗi vài phút.
Đầu ngửng lên thẳng với lưng, không cúi tới trước, không nghiêng sang bên, quý vị cũng phải kiểm soát giữ đầu thẳng sau mỗi vài phút. Mắt nhìn xuống phớt thấy chóp mũi, ý tập trung ở điểm giữa nhân trung để cảm nhận hơi thở đi vào và đi ra ngang qua điểm này.
Hai tay úp trên đầu gối, hay buông thỏng trước hai ống chân, hay để ngửa chồng lên nhau đặt trên hai gót chân, tựa sát bụng, hay để tay đâu cũng được miễn sao cho thoải mái.
Sau khi ngồi đúng thế xong, không nhúc nhích động đậy nhưng không gồng cứng cơ bắp nào, giữ yên tỉnh toàn thân ít nhất vài phút, thoải mái cảm nhận toàn thân và cảm nhận hơi thở vô ra tự nhiên. Lưu ý và giữ sự tự nhiên này của hơi thở.
Tiếp theo quý phật tử tác ý nhắc tâm “Mắt nhìn chóp mũi, ý tập trung ở nhân trung”, nhắc xong thì thở một hơi rồi tác ý câu này trong khi nín thở“Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”.
Tác ý xong đếm “Một” rồi theo dõi Hơi Thở từ lúc bắt đầu vô đến khi ngưng thở ra. Đếm “Hai” cho hơi thở kế, rồi “Ba”, “Bốn”, “Năm”. Mỗi lần đếm số xong quý vị theo dõi kĩ hơi thở vô ra. Đó là cách đếm số trước mỗi hơi thở. Quý vị có thể chọn cách đếm số sau mỗi hơi thở, nghĩa là cứ hít vô, thở ra xong mới đếm một số, tức là một hơi hít vô và một hơi thở ra xong đếm một số. Tác ý như ra lệnh và hít thở tự nhiên bình thường. Lệnh “Hít”, hít vô. Lệnh “Thở”, thở ra. Đếm “Hai” cho hơi thở kế, và cứ thế tiếp tục đếm tới hơi thở thứ năm. Quý vị hãy tập như vậy cho đến khi nhiếp phục được tâm trong hơi thở nghĩa là tâm chỉ biết hơi thở vô ra. Tâm bám thật kĩ từng hơi thở tức là nhiếp phục được tâm trong hơi thở, niệm vào trong hơi thở. Trong khi tập luyện, nhớ giữ hơi thở vô ra tự nhiên bình thường, tâm không có niệm. An trú trong hơi thở có nghĩa là không một niệm nào xen vào trong khi hít thở và tác ý. Hãy nhớ kĩ: Luôn luôn phải giữ ý thức. Đừng để mất ý thức. Phải rõ ràng tỉnh giác.
Sau khi đã hít thở đủ 5 hơi xong thì nín thở tác ý lại câu tác ý đã chọn, trước khi thở tiếp 5 hơi thở khác. Cứ như vậy mà tu tập cho hết thời gian đã chọn trong bao lâu (thí dụ tập luyện trong 15, hay 20 phút), nhưng tối đa cũng chỉ nửa giờ thôi, không lâu hơn. Trong lúc nghỉ xả giữa hai lần tập hít thở, quý vị chỉ ngồi thoải mái, không làm gì khác, nhưng vẫn giữ tâm không suy nghĩ gì.
Khi mới làm quen với hơi thở quý phật tử không nên tu tập nhiều mà chỉ nên tu tập thời gian ngắn từ 1 phút đến 5 phút rồi xả nghỉ 5 phút. Nghỉ 5 phút xong lại tiếp tục tu tập 5 phút khác. Khi tu tập thì phải có chất lượng có nghĩa là không còn có một niệm nào xen vào trong lúc hít thở, lúc đó tâm quý vị nhiếp vào hơi thở, duy nhất chỉ biết có hơi thở ra vào một cách nhẹ nhàng, thoải mái và dễ chịu. Đấy là quý vị tu tập đúng pháp, còn ngược lại có chướng ngại pháp như tức ngực, đau đầu, hơi thở khó thở,... thì đó là quý vị tu sai pháp. Cần phải dừng lại không nên tu tập nữa, phải chờ thiện hữu tri thức xem xét quý vị đã tu tập sai ở chỗ nào trong khi tu hơi thở. Chừng nào thiện hữu tri thức sửa cách tu của quý vị và quý vị tu tập hơi thở thoải mái thì mới tu qua đề mục kế. Quý vị nên biết Hơi Thở là Thân Hành Nội, khi tu tập phải có thiện hữu theo dỏi để có gì trục trặc thì sẽ giúp đỡ cho quý vị. Người có kinh nghiệm tu tập về Hơi Thở mới biết cách hướng dẫn, còn nếu không có người hướng dẫn thì quý vị đừng nên tự ý tu tập Hơi Thở, nó rất nguy hiểm xin quý vị lưu ý.
*****
NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM TRONG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
1.- ĐỀ MỤC THỨ NHẤT: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.
Với người mới tu tập, đây là đề mục để làm quen với hơi thở và cũng là tu tập để nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó (chú ý để thấy hơi thở vô ra tại đó, chứ tâm không được chạy theo hơi thở). Nếu quý vị nhiếp tâm được 30 phút mà không quên hơi thở, không có niệm khác xen vào trong khi tác ý và trong khi hít vô thở ra thì đó là quý vị đã tu tập đạt được kết quả hay viên mãn đề mục thứ nhất.
Khi tu tập có kết quảnhư vậy nghĩa là lúc nào cũng đạt được kết quả ổn định như vậy trong bất kỳ thời tu tập nào thì nên xin thiện hữu tri thức kiểm tra hơi thở lại giúp dùm. Nếu vị thiện hữu tri thức xác nhận quý vị đã nhiếp tâm được kết quả tốt, thì xin tu tập qua đề mục thứ hai của Định Niệm Hơi Thở.
Khi tập luyện đề mục thứ nhất được thuần thục, hơi thở được thông suốt không chướng ngại thì hơi thở sẽ hiện tướng khi dài khi ngắn. Nếu là hơi thở dài thì hơi thở chầm chậm đi vô, đi ra. Một phút dưới 10 hơi thở, đó là hơi thở dài. Còn hơi thở ngắn thì nó như con thoi, hít vô thở ra nhanh. Một phút trên 10 hơi thở, đó là hơi thở ngắn. Hơi thở ngắn dùng để nhiếp tâm loạn tưởng và hôn trầm thì hay nhất.
2.- ĐỀ MỤC THỨ 2: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài.”
Đề mục này là đề mục vận dụng điều khiển đểhơi thở dài. Nó có mục đích chú ý vào độ dài của hơi thở, di chuyển sự tập trung tâm ở nhân trung qua độ dài của hơi thở. Nhưng sự chú ý vào độ dài của hơi thở khiến cho sức tập trung rất cao nhờ vậy sự chú tâm và an trú tâm trong thời gian tu tập sẽ không bị tạp niệm xen vào. Nương vào Hơi Thở dài là để xem Tâm Hành đang nghĩ gì, làm gì, đang hoạt động như thế nào?
Đây là một phương pháp gom tâm đệ nhất và cũng là một phương pháp (ngồi tại chỗ) phá hôn trầm thùy miên vô kí một cách hiệu quả vì rất tỉnh giác trên từng Tâm Hành. Nhờ tỉnh giác biết từng Tâm Hành đang làm gì nên Tâm Hành xảy ra điều gì đều biết rất rõ. Nếu quý vị chỉ cần nỗ lực là tâm lười biếng của quý vị chạy mất, không còn nữa.
Điều mà quý vị cần biết là tu tập theo Phật giáo thì tâm không bao giờ tập trung vào một chỗ duy nhất mà luôn luôn thay đổi vị trí tập trung, vì tập trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh, dễ sinh ra tưởng, dễ bị tẩu hỏa nhập ma
Khi quý vị biết rõ hoạt động của Tâm Hành và sử dụng Tâm Hành để triển khai tri kiến thì rất có lợi, nhờ đó mà tri kiến rất bén nhạy, ác pháp đến là tri kiến biết ngay liền nên ác pháp không xâm chiếm tâm quý vị được và như vậy là quý vị đã giải thoát không còn khổ đau nữa
Khi tu tập đề mục này thì nương vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì lực tác ý làm cho hơi thở thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, chứ quý vị không được dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ. Nếudùng cơ vận dụng để hơi thở chậm và nhẹ là sai. Ở đây chỉ cần tác ý thì hơi thở chậm nhẹ tự động theo lực tác ý. Quý vị chỉ cần tác ý câu sau: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài."Tác ý như vậy rồi cứ để tâm theo câu tác ý, quý vị chỉ quan sát từng Tâm Hành một cách tự nhiên thì kết quả sẽ tốt đẹp không thể nghĩ bàn.
3.- ĐỀ MỤC THỨ 3: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.”
Khi chúng ta muốn cho hơi thở ngắn thì tác ý câu này: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.”. Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp như lí tác ý.
Xin quý vị lưu ý: Quý vị tu tập về hơi thở thì phải làm chủ được hơi thở, nghĩa là muốn hơi thở dài thì hơi thở dài, muốn hơi thở ngắn thì hơi thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài hay khi nào chúng ta thở ngắn mà không thấy có sự trở ngại nào, không bị rối loạn hô hấp đó là quý vị đã thành công làm chủ hơi thở.
Riêng về phần tu tập hơi thở trong các đề mục khác của Định Niệm Hơi Thở thì quý vị nên tu tập với hơi thở bình thường là tốt nhất, không nên vận dụng hơi thở để thở dài hay để thở ngắn theo các đề mục thứ hai và thứ ba này. Hơi Thở bình thường như thế nào thì cứ đểnhư vậy, nó dài hay ngắn không quan trọng.
Mục đích của đề mục 2 và 3 là để tu tập vận dụng điều khiển Hơi Thở theo ý muốn của mình và cũng là để quan sát Tâm Hành trong hơi thở dài ngắn. Ở đây, điều mà chúng ta cần tu tập là quan sát Tâm Hành để làm chủ tâm khi tâm muốn điều gì hay làm điều gì, nhờ đó mà chúng ta làm chủ nó mới được.
Đề mục 2 và đề mục 3 thì phải thực hiện như người thợ quay tơ, như người thợ gốm. Vận dụng hơi thở làm cho nó dài hay làm cho nó ngắn liên tục và đều đều như người quay tơ, như người thợ gốm. Người tu tập Hơi Thở dài hay ngắn cũng vậy phải tu tập phù hợp theo đặc tướng của mình, đó là để đạt được sự an ổn nhiếp tâm trong hơi thở dài hay ngắn này.
Đề mục số 2 hít vô dài, hay số 3 hít vô ngắn của Định Niệm Hơi Thở, là để giữ hơi thở ổn định theo đặc tướng của mình. Sau này hơi thở có thay đổi dài hay ngắn thì không cho thay đổi, vì thay đổi Hơi Thở sẽ đưa người tu tập đến những điều tai hại, nó có thể làm rối loạn hơi thở hoặc sanh tưởng tức, nghĩa là Hơi Thở Tưởng, bởi vì tưởng tức sẽ hiện ra, do quí vị tu tập sai ức chế ý thức khiến cho ý thức không còn còn khởi niệm. Tưởng tức nghĩa là Hơi Thở Tưởng do tu tập sai, ức chế ý thức làm cho ý thức không còn còn khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm thì tưởng uẩn hiện ra làm thay đổi hơi thở, rối loạn tâm trí. Khi tưởng tức hiện ra thì quý vị không còn tu hành được, mà chỉ còn tu tập tri kiến Nhân Quả để xả tâm mà thôi. Đó là giải pháp giúp cho quý vị tu hành kiểu như người mới vào đạo tu tập Nhân Quả.
Lưu ý: Khi quý vị tu tập hơi thở dài thì nên điều khiển nó bằng câu tác ý hơi thở dài: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài” và để ý trên độ dài của hơi thở, chỉ quan sát theo dõi độ dài của hơi thở, không còn bám chỗ tụ điểm nữa. Nhớ cứ mỗi 5 hơi tác ý một lần.
Nếu quý vị tu tập hơi thở ngắn thì nên tác ý “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn” và cách tập luyện cũng tương tự như hơi thở dài. Dù cho quý vị tu tập hơi thở dài hay hơi thở ngắn cũng cần phải nhiếp tâm vào hơi thở. Hơi thở dù dài hay ngắn cũng phải nhiếp tâm vào hơi thở đó. Tâm quý vị chỉ biết hơi thở dài hay hơi thở ngắn đó thôi.
4.- ĐỀ MỤC THỨ 4: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”.
Đây cũng là đề mục dời tụ điểm, không còn chú tâm để thấy hơi thở dài ngắn nữa. Câu tác ý là “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.” Như vậy là tập phải cảm giác toàn thân (hay cảm giác thân hành).
Đề mục Cảm Giác Toàn Thân thì khi tập luyện lúc hít vô cảm giác thân của mình, lúc thở ra cũng cảm giác thân của mình. Đó là tập quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp khi tu tập Bốn Niệm Xứ sau này.
Đề mục thứ tư của Định Niệm Hơi Thở là để chuẩn bị cho quý vị tu tập Tứ Niệm Xứ: “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu” tức là quan sát bốn chỗ trên thân nhưng lại lưu ý Tâm Hành để làm chủ tâm chớ không phải ức chế tâm cho hết niệm khởi, xin quý vị lưu ý. Trong pháp Thân Hành Niệm, Phật dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra.” Cho nên khi tu tập đề mục này phải tập cho đến khi nào từng hơi thở cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đó là kết quả của đề mục này.
Khi quý vị đã có hơi thở chuẩn (hơi thở bình thường tự nhiên), đã chủ động điều khiển được Hơi Thở (thay đổi độ dài ngắn của hơi thở), đã quan sát được Hơi Thở, đã không cho Hơi Thở thay đổi (giữ hơi thở ở trạng thái bình thường), lúc bấy giờ mới qua đề mục thứ tư “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.”. Tu tập đề mục này, quý vị chỉ tác ý câu trên và khi hít vô thì cảm nhận từ trên đầu xuống tới chân; thở ra thì cảm nhận từ chân lên đầu. Nếu cảm nhận thân không được thì dùng câu tác ý của Thân Hành Niệm là “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra.” Khi hít thở thì thân có độ rung do hơi thở vô ra, quý vị quan sát, lắng nghe độ rung đó. Đừng dùng tưởng, dùng tưởng là sai.
Tác ý câu trên rồi theo từng hơi thở để cảm nhận toàn thể thân của mình. Chủ động điều khiển thân và tâm. Quý vị nên tác ý thêm thế này “Tâm hãy theo dõi từng hơi thở khắp trong cơ thể đi!” rồi hít vô thở ra xem nó ra sao. Hít vô thở ra lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, lần thứ năm. Hít vô thở ra 5 hơi, rồi nhắc lại câu tác ý của đề mục “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.” một lần nữa. Nếu không nhắc thì có niệm khác xen vô.
“Cảm Giác Toàn Thân” là phải dùng ý thức điều khiển cả thân và hơi thở. Phải dẫn hơi thở nhiếp phục tâm để lần lần cho tâm quen, sau đó hít vô thở ra thì thấy cảm giác rõ ràng. Phải tác ý trước mỗi hơi thở “Thân và hơi thở này phải theo dõi sát nghe!” rồi ra lệnh: “Hít vô – Thở ra.” Cứ nói thầm thầm trong ý như vậy. Suốt thời gian 30 phút không niệm khởi, tức là nhiếp phục được tâm. Khi cảm nhận thân mà thấy luồng hơi thở ra, luồng hơi hít vô của từng hơi thở rõ ràng nhẹ nhàng, đó là đạt kết quả an trú.
Mục đích của đề mục này là tập cho mình quan sát ghi nhận bất kì cảm thọ gì, cảm giác gì xẩy ra tại đâu trên thân mình.
Quý vị nên biết: 7 Đề mục đầu là những đề mục tu tập để nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở.
Xin nhắc lại: Tập luyện Định Niệm Hơi Thở đề mục thứ nhất là phải nhiếp phục tâm rồi an trú tâm được trong hơi thở bình thường. Khi đó quý vị thấy rõ ràng hơi thở có lúc dài, có lúc ngắn. Chừng đó mới đi qua đề mục thứ 2, thứ 3 điều khiển hơi thở dài, hơi thở ngắn theo sự an trú. Phải an trú tâm cho được, phải tìm mọi cách, bằng mọi cách phải tìm cho được, làm cho tâm an trú. An trú trong đề mục thứ 2, thứ 3 xong mới qua đề mục thứ 4 cảm giác toàn thân.
Cảm giác toàn thân có kết quả mới qua đề mục thứ 5 An tịnh toàn thân được.
Muốn an trú, quý vị ngồi xuống thu xếp tay chân thân mình cho yên ổn, không còn chướng ngại gì. Ngồi như vậy một lúc độ 3 – 5 phút, giữ thân cho an ổn, yên lặng rồi quan sát tâm, thấy tâm cũng yên ổn, không có niệm gì hết lúc đó mới tác ý để cho tâm biết thì nó sẽ an trú vô trong hơi thở dễ dàng. Khi làm đúng vậy thì quý vị sẽ an trú nghĩa là quý vị vào đó sẽ thấy an lạc thật sự, chứ không phải ngồi yên mà có sự an trú. An trú là có sự an lạc, một trạng thái an trú an lạc của hơi thở.
Vì thế quý vị tu tập Định Niệm Hơi Thở phải có chất lượng và căn bản của những đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở. Nếu tu tập những đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở thiếu căn bản không chất lượng sẽ phí công vô ích.
5.- ĐỀ MỤC THỨ 5: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.”
Đây là một đề mục rất quan trọng trong sự tu tập Định Niệm Hơi Thở mà Đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm.” Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư Định Niệm Hơi Thở là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm, chứ không còn là đề mục nhiếp tâm nữa.
Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong cũng giống như người lính đánh trận có chiến hào, tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu.” “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu.” “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu.” “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu.” Quý vị nên lưu ý sự quan trọng của đề mục này trong sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” có mục đích là an trú tâm vào hơi thở để diệt trừ các bệnh khổ. Khi thân có bệnh, để chiến đấu với giặc bệnh, chỉ cần tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” rồi nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở. Hơi thở thứ nhất biết thân mình đang an ổn; hơi thở thứ hai cũng biết thân mình đang an ổn; hơi thở thứ ba, thứ tư, thứ năm, cũng vậy. Sau mỗi 5 hơi thở tác ý lại một lần nữa, từng hơi thở kĩ lưỡng nhiếp tâm vào mà cảm nhận thân an ổn. Chưa an ổn thì tiếp tục tác ý và vào nương nó nữa, cảm nhận nữa, cứ 5 hơi thở tác ý cho đến khi nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là đề mục làm cho xuất hiện tướng trạng thân an tịnh để đẩy lui bệnh khổ. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Tập luyện đề mục này là chủ động trạng thái an tịnh toàn thân để làm chủ bệnh.
Tâm An tịnh thân hành là mục đích phải đạt được của đề mục thứ 5 Định Niệm Hơi Thở khi quý vị hít thở và tác ý như vậy. Lúc đầu tâm quý vị phải có thời gian để nhiếp vào được trong hơi thở, khi nhiếp vào được trong hơi thở thì tướng trạng an tịnh mới hiện ra. Sau đó tập luyện được 20 phút thì bỗng thấy tướng an tịnh hiện ra thật sự. Có khi vừa mới vào tập luyện, quý vị vừa mới nhắc “Tâm phải bám chặt vào hơi thở nghe! Thân phải an tịnh nghe, không được mất an tịnh!”, và tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, chỉ mới 5 hơi thở thôi thì đã thấy tướng trạng an tịnh hiện ra rồi. Được nhanh vậy là nhờ khi quý vị ngồi chơi mà xả tâm nên tâm quý vị đã được an tịnh rồi, vì thế vừa mới nhắc là nó hiện ra ngay, thời gian tu tập được thu ngắn lại. Quý vị cần lưu ý: tập luyện đến đề mục thứ 5 là khi ta đã nhiếp phục được tâm trong hơi thở được rồi, có nghĩa là từ các đề mục 1 đến 4 ta đã đạt được 30 phút không niệm khởi. Lúc đó tâm của mình và hơi thở sẽ nhiếp vào với nhau.
Khi hít vô thì cảm nhận thân an, không bị động đậy, không bị rung động thì đó là thân an; khi thở ra thì thấy tâm mình không niệm, không niệm là yên tịnh. Cứ hai trạng thái thân an tâm tịnh đó mà cảm nhận thôi. Trong suốt khoảng thời gian từ 5 hay 10 phút mà tâm nhiếp trong hơi thở thì hai trạng thái an ổn đó từ từ lớn dần lên theo pháp hướng tâm tác ý. Nếu nhanh thì chỉ sau 4, 5 hơi thở sẽ hiện tướng trạng thân an tịnh ra, đó là đúng rồi, được rồi. Còn khi tác ý đến 5, 10 lần nó mới hiện ra, đó là chậm, chưa được, cần tập luyện nhiều hơn nữa. Khi tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, quý vị chỉ nương vào hơi thở mà tác ý như vậy, chỉ cần ngồi rồi nhắc như vậy thôi mà tướng trạng đó hiện ra. Quý vị cảm thấy toàn thân của mình an ổn vô cùng, không có cái gì làm cho thân đau được, làm cho bất an được.
Lúc tập luyện đề mục 5 này ta sẽ có sự an ổn nhẹ nhẹ là đúng, nếu có sự an ổn nhiều là sai, phải chấm dứt bằng tác ý bảo nó dừng lại “An ổn này hãy dừng lại. Ta chưa cho an ổn.” Nếu không tác ý bảo ngưng thì sự an ổn này làm ta có một niệm khác hơn là niệm của thân hành trong hơi thở. Chỉ niệm thân hành trong hơi thở mới thật là niệm mục đích của đề mục 5.
Khi nhiếp tâm thì trong nhiếp tâm đã có sẵn cái an trú nên khi nhắc an trú thì nó từ từ hiện ra. Sau khi an trú rồi thì mình được giảm hôn trầm, tức là năng lượng đã được phục hồi. Trong một thời tập luyện được hoàn toàn an trú thì nghe trong thân sung mãn lắm, xả ra không thấy đói khát, không mệt mỏi, không buồn ngủ. Khi năng lực có rồi thì quý vị phải bắt đầu dùng để li dục li ác pháp ở những đề mục 8, 9, … của Định Niệm Hơi Thở.
Nếu trong 5 phút mà quý vị biết hơi thở vô ra nhẹ nhàng tự nhiên không thất niệm, không có tạp niệm là đủ điều kiện để thân an trú rồi. quý vị cần tập luyện nhiều đoạn 5 phút cho nó trọn vẹn; tập luyện cho đúng cách để có chất lượng. Từ trước tới nay quý vị cứ5 hơi thở tác ý một lần, bây giờ tăng lên 10 hơi thở mới tác ý và xem thử trong thời gian 10 hơi thở có niệm nào xẹt vô không; rồi lần lần tăng lên cho tới 5 phút tác ý một lần. Phải lấy tiêu chuẩn 5 phút và bắt đầu lấy thời gian 10 hơi thở tác ý, rồi 20 hơi thở tác ý,... cho đến 40, 100 hơi thở tác ý. Cứ trong khoảng thời gian số hơi thở đó không thất niệm là đạt được của thời gian đó. Đến khi quý phật tử đạt được kết quả của thời gian 5 phút không thất niệm là đã an trú được rồi, trạng thái an trú sẽ xuất hiện ngay. Rồi tăng dần tập luyện kéo dài tới 30 phút. Thế là thành công. Nhưng coi chừng tăng quá sức sẽ bị hôn trầm. Phải tập luyện ở mức độ vừa sức cho thuần thục, cho sung mãn năng lượng để khỏi bị hôn trầm vì mất sức.
Muốn được an trú lâu dài thì phải biết cách tập luyện. Quý vị phải xem trong khoảng thời gian được an trú, khi nào quý vị thấy sự an trú bắt đầu lui dần, lúc đó phải tác ý lại câu Như Lí Tác Ý nào đã được an trú khi vào để không cho nó lui. Phải nhớ kĩ pháp mới tập luyện có kết quả, không nhớ kĩ thì không biết đường vào.
Trong khi tập luyện Định Niệm Hơi Thở nếu hôn trầm tới thì quý vị đứng dậy đi nhưng vẫn tu tập hơi thở giống như khi đang ngồi. Khi tâm bị phân ra vừa biết hơi thở mà cũng vừa biết bước đi thì quý vị phải tu tập như thế nào để tâm chỉ biết hơi thở thôi. Muốn vậy thì khi đứng dậy đi, quý vị phải tác ý “Tâm phải biết hơi thở, không được biết bước đi!”, rồi hãy nhìn tới trước trên đường đi kinh hành một khoảng độ 2 thước, nhưng tâm hoàn toàn tập trung vào hơi thở. Khi tập trung, tâm chỉ biết hơi thở vô ra, và gom tâmở nhân trung mà mắt thì nhìn ra ngoài là đúng. Cứ mỗi lần thấy tâm bị phân ra vừa biết hơi thở, vừa biết bước chân đi thì nhắc lại câu tác ý để nó quay trở về với hơi thở.
Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn mà Đức Phật trang bị cho ta để đẩy lui các chướng ngại pháp. Cho nên đề mục 5 “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui chướng ngại của thân; đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui chướng ngại của tâm; còn đề mục 18 “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui tâm si, đẩy lui sự buồn ngủ, đẩy lui trạng thái lười biếng. Do đó phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của những đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.
Khi thân có cảm thọ khổ gì thì dùng đề mục thứ 5 đã kết quả tu tập thuần thục để đẩy lui. Thí dụ sắp có cái nhọt ở đây thì nó có những cảm giác báo động trước. Người tập luyện biết từ khi nó chỉ mới báo động. Ở giai đoạn báo động này đẩy lui bệnh tật dễ lắm, chứ khi nó đã tập trung nặng nề thì khó khăn nhiều, có khi không đẩy lui được. Người tập luyện có cảm giác rất vi tế, nên trong thân sắp sửa có bệnh gì đó đang ủ, đang hình thành, 3, 4 ngày nữa mới phát ra, thì ngay bây giờ đã nhận ra được. Khi nhận ra được như vậy thì quý vị dùng đề mục thứ 5 tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và nhiếp tâm vào hơi thở, thì sau đó có lực tác ý đẩy chướng ngại pháp đó đi. Khi đó chưa phải là bệnh, chỉ mới mầm bệnh nên sử dụng pháp tác ý đẩy lui được khỏi bệnh dễ dàng, do quý vị đã biết ngừa trước rồi, cho nên sự đuổi bệnh nhẹ nhàng hơn, dễ hơn.
6.- ĐỀ MỤC THỨ 6: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra.”
Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô, chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó mỗi lần hít vô hay thở ra chúng ta đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm và niệm ấy là niệm mang ý nghĩa gì. Khi tâm có niệm là biết ngay niệm tâm đó muốn gì. Trong khi tu tập lắng nghe tâm nói gì theo từng hơi thở. Nếu thấy tâm lặng lẽ, bất động, không một niệm gì xen vào trong suốt 30 phút hay 01 giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập tâm lặng lẽ về đề mục này.
Nhưng đề mục 6 này mục đích không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm mà cảm nhận sự hoạt động của Tâm Hành. Tâm hành tức là sự tư duy của tâm. Vì tâm hay nghĩ ngợi điều này việc kia nên gọi là Tâm Hành. “Cảm Giác Tâm Hành” là cảm nhận từng sự tư duy của tâm chớ không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm, trong đó biết rõ có lúc tâm không có niệm, lặng lẽ nhưng có lúc tâm không lặng lẽ. Như vậy đề mục 6 này dạy rất rõ là nương theo hơi thở vô ra mà thấy tất cả sự hoạt động của tâm, tâm muốn gì hay tâm làm gì đều biết rất rõ, không bỏ sót một hành động nào của tâm.
Chỗ này mọi người đã hiểu sai là dùng ý thức tập trung tâm vào hơi thở vô ra đểức chế ý thức khiến cho ý thức không khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm, họ cho mình tu tập thành công. Đấy là sự hiểu biết về pháp môn tu tập hơi thở hết sức sai lạc. Mong rằng quý vị hãy cố gắng đừng hiểu sai cho rằng tất cả các đề mục về Hơi Thở là nhiếp tâm trong Hơi Thở để không niệm. Chính không niệm là một tai hại rất lớn trong sự tu tập giải thoát theo Phật giáo.
Cảm nhận Tâm Hành tức là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác được. Khi hiểu biết lời dạy này áp dụng vào sự tu tập thì chỉ có ý thức xả tâm. Ý thức xả tâm tức là Cảm Nhận Tâm Hành. Cảm Nhận Tâm Hành Từng Hơi Thở Vô Ra thì còn ác pháp nào xen vào được và tu tập như vậy thì giải thoát ngay liền. Có phải không quý vị? Tập luyện đề mục 6 này để thấy tâm hành hay tâm không hành.
“Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Tu tập “Cảm giác tâm hành” là xem tâm có hành động gì không. Tâm hành là tâm khởi ra niệm này niệm kia, đó là tâm ở trong sự hoạt động. Tâm ở trong sự hoạt động là tâm nương hơi thở để cảm nhận sự hoạt động đó. Còn tâm không hành là tâm không khởi niệm; là tâm tịnh, tâm im lặng. Cho nên tu theo Phật thường Phật dạy: “Ngăn Ác Diệt Ác Pháp, Sinh Thiện Tăng Trưởng Thiện Pháp.” thì tu tập Định Niệm Hơi Thở cũng vậy, phải ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.
Khi quý vị tác ý câu 5 này: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” một hay hai lần thôi mà đã có trạng thái an tịnh của thân liền thì đó là đạt kết quả an tịnh thân hành. Thân an tịnh có trạng thái an lạc, hoan hỉ. Lúc bấy giờ nhận ra tâm là nhận ra sự hoan hỉ đó. Nhưng khi tác ý đề mục thứ 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì mới thấy rõ sự an lạc, sự hoan hỉ của tâm. Khi quý vị tác ý và nhận ra niềm hoan hỉ này rõ ràng là đạt kết quả của đề mục 6. Muốn đạt được kết quả của đề mục 6 này thì phải siêng năng tu tập. Có siêng năng tu tập mới có đủ cảm nhận tâm mình. Cảm nhận được tâm hành không phải dễ. Vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cảm nhận cho được sự động và sự tịnh của tâm. Nói thì dễ, nhưng làm không phải dễ, quý vị phải cố gắng lên. Quý vị đừng nản lòng mà hãy bền chí. Đường đi phía trước rực ánh hào quang đang chờ đón quý vị, nhất là quý vị có một vị thiện hữu tri thức hướng dẫn thì còn gì sợ tu sai pháp.
Khi thở ra thở vô mà cảm nhận được sự an ổn và niềm vui hoan hỉ thì con đường tu tập không còn khó khăn và mệt nhọc nữa, vì đã thấy ánh sáng dẫn đường phía trước. Mỗi sự tu tập làm ánh sáng lại tràn trề chói lọi. Đó là báo cho quý vị tu tập sắp đến đích, nhưng quý vị lưu ý, khi có sự mong cầu và mơ ước thì quý vị sẽ rơi lạc vào đường Ma. Nếu quý vị cứ siêng năng tu tập mà không mong cầu một điều gì cả thì sự an lạc và niềm hoan hỉ đó mới chính từ pháp sinh, chính đó mới là chính pháp của Phật. Nếu quý vị tu hành chưa đến đâu mà cứ mong cầu thì chúng tôi e rằng quý vị sẽ gặp Ma. Và vì vậy con đường tu của quý vị bế tắc. Quý vị nhớ chưa?
7.- ĐỀ MỤC THỨ 7: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.”
Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được thì chúng ta sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp như lí tác ý: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm nhận như tâm chúng ta có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra, vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến 2 giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.
Khi thực hành đề mục “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là mục đích làm cho tâm thanh tịnh an ổn không còn vọng niệm tuôn trào lọan tưởng. Khi tác ý một hay hai lần là đã có trạng thái an tịnh của tâm liền đó là đạt kết quả an tịnh tâm hành. Tâm an tịnh có trạng thái an lạc, hoan hỉ. Lúc bấy giờ nhận ra cái tâm là nhận ra sự hoan hỉ đó.
Khi tác ý đề mục 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì thấy rõ cái an lạc, cái hoan hỉ của tâm.
Khi quý phật tử tác ý và nhận ra niềm hoan hỉ này rõ ràng là đạt kết quả đề mục thứ 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Cảm nhận tâm an tịnh và hoan hỉ này sẽ đẩy lùi các cảm thọ chướng ngại trên tâm, vì vậy trên thân tâm chỉ còn lại một trạng thái thoải mái an ổn và dễ chịu.
Khi đã có trạng thái thoải mái, an ổn và dễ chịu trên thân tâm rõ ràng thì quý phật tử tác ý nhắc đề mục 7 "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì tâm im phăng phắc ở trong một trạng thái đặc biệt. Cứ mỗi lần tác ý quý phật tử cảm nhận như tâm có một sự an ổn trong im lặng và mỗi hơi thở ra vô tràn ngập sự an ổn thân và tâm. Chính trạng thái tâm an tịnh này tạo nên năng lực đẩy lui các cảm thọ dù là cảm thọ thân đau nhức tận cùng như thế nào cũng bị đẩy lui ra khỏi thân tâm rất dễ dàng. Nhưng ở đây quý vị lưu ý: Việc tu tập này chỉ có những người có ý chí và gan dạ, còn kẻ phàm phu tầm thường thì không thể ôm pháp này vượt qua được. Khi tâm được An Tịnh thì không còn tạp tưởng, dù có những tư tưởng mạnh như thế nào đi nữa cũng đẩy lui được hết.
*****
MƯỜI HAI ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP TRONG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Mười hai đề mục Định Niệm Hơi Thở về sau là phần quán li tham, li sân, li si, li mạn, li nghi. Phần này rất quan trọng, nếu một người tu theo Phật giáo mà không li tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ có giải thoát.
Muốn li tham, sân, si, mạn, nghi thì quý vị phải tu tập đạt cho được trạng thái An Trú, An Tịnh của Định Niệm Hơi Thở. Khi tâm đạt được như vậy thì tất cả chướng ngại pháp đều bị diệt trừ, không những tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà tất cả các kiết sử. Cho nên khi tâm ở trong trạng thái An Trú, An Tịnh thì mới phá năm triền cái, thất kiết sử và tất cả ác pháp một cách rất dễ dàng, không còn khó khăn, mệt nhọc. Nếu không ở trong trạng thái An Trú, An Tịnh thì khó mà li dục, li ác pháp.
Cho nên chúng ta phải tu tập bảy đề mục đầu tiên của hơi thở để đạt được tâm An Trú, An Tịnh trong hơi thở. Khi nào tâm An Trú, An Tịnh trong từng Hơi Thở và thời gian tâm An Trú, An Tịnh phải từ một giờ cho đến sáu giờ thì mới tu tập 12 đề mục li tham diệt ác pháp. Mười hai đề mục Định Niệm Hơi Thở sau này dùng để tu tập li tham và diệt các ác pháp.
Từ đề mục thứ nhất cho đến đề mục thứ bảy là những đề mục đầu tiên của Hơi Thở, tu tập giúp cho thân tâm An Trú và An Tịnh. Còn 12 đề mục sau dùng để tu tập li tham và diệt các ác pháp.
Kết quả của những pháp Hơi Thở tu tập đầu tiên là cơ bản cho những pháp môn Hơi Thở tu tập sau này, nếu tu tập tâm chưa có kết quả An Trú và An Tịnh mà vội tu tập 12 đề mục sau thì chúng tôi e rằng quý vị chỉ là những người tu thử, tu chơi chớ chưa phải là những người có quyết tâm tu tập làm chủ sự sống chết và luân hồi.
Tu tập như vậy chỉ phí công sức quá uổng. Theo chúng tôi nghĩ và có lời khuyên quý vị đừng nên tu tập như vậy thì tối hơn hay sống như người bình thường, trông nom nhà cửa gia đình cho con cái còn có lợi ích hơn, chớ tu theo Phật giáo như vậy là phỉ báng Phật giáo quý vị có biết không?
Tội vô tình phỉ báng Phật pháp cũng phải trả quả như sau: Kiếp sau sinh lên làm người không bao giờ gặp Chánh pháp, không bao giờ gặp thiện hữu tri thức và nhất là khi sinh ra làm người chịu biết bao sự đau khổ. Nhất là không trí nhớ, để đâu quên đó, học hành không thuộc bài vở, vì thế cuộc đời trở thành người dốt nát.
8.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ NHẤT: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Khi thân tâm được An Trú, An Tịnh trong hơi thở vô, hơi thở ra thì quý vị tu tập qua đề mục thứ tám này bằng cách tác ý và quan sát Tâm Hành của mình xem nó nhận xét Thân Vô Thường có đúng nghĩa Vô Thường hay không?
Khi nó đã hiểu một nghĩa Thân Vô Thường thì chúng ta lại tác ý câu hai rồi quan sát nghĩa Vô Thường của câu hai xem nó có truy tìm Thân Vô Thường ở góc độ khác. Cứ theo đề mục Quán Thân Vô Thường này mà tác ý và quan sát thấy từng sát na Thân Vô Thường. Trong khi tu tập thỉnh thoảng chúng ta thường tác ý câu này: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nương vào hơi thở vô, ra và tác ý như vậy thì nó giúp cho quý vị có một nội lực mạnh mẽ, cảm thấy Thân Vô Thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập đề mục Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp tác ý Thân Vô Thường để diệt ngã xả tâm li dục li ác pháp.
Quán Thân Vô Thường có nghĩa là thấy thân thay đổi từng phút, từng giây là như thật, thân không còn chỗ nào là thường còn, bất di bất dịch. Cho nên biết thân vô thường là biết thân này không phải là Ta, không phải của Ta, không phải bản ngã của Ta. Do biết rõ như vậy nên Thân Kiết Sử bị đoạn dứt. Đề mục thứ tám này rất lợi ích phá vỡ Thân Kiết Sử tan tành. Cho nên hằng ngày theo đề mục Định Niệm Hơi Thở này tác ý: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nhờ tác ý nhắc nhở tâm thành một ý thức lực “Quán thân vô thường”thấm nhuần theo từng hơi thở vô hơi thở ra.
Muốn thấm nhuần được như vậy thì đề mục này phải siêng tu tập hằng ngày chia làm nhiều thời tu tập, mỗi thời tu tập 30 phút; mỗi 5 hoặc 10 hơi thở tác ý câu này một lần.
Câu này muốn tu tập có kết quả thì phải đạt được thân an tịnh của đề mục 5 và tâm an tịnh của đề mục 7.
Thân tâm đã an trú trong hơi thở thì nên tác ý câu: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Tác ý câu này thường xuyên thì thân kiến kiết sử sẽ bị diệt trừ. Đó là một kết quả không thể ngờ được, vì câu tác ý có một sức lực mạnh mẽ vô cùng khi tâm an trú được trên hơi thở. Còn nếu tâm chưa an trú, chưa an tịnh được trên hơi thở thì tác ý không hiệu quả. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với pháp quán Thân Vô Thường để phá vỡ Thân Kiến Kiết Sử. Khi phá vỡ thân kiến kiết sử thì thân tâm rất an lạc không còn chấp ngã.
9.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 2: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Thọ là cảm nhận đau nhức trong thân mà người ta gọi là Thân Bệnh. Thân bệnh là thân đau khổ, cho nên nói đến Thọ là nói đến bệnh khổ.
Đề mục thứ chín này tu tập quán Thọ Vô Thường với mục đích làm cho chúng ta không còn sợ hãi các Cảm Thọ. Nhờ có quán thọ vô thường hằng ngày nên tâm thấm nhuần Thọ Vô Thường thật sự. Nhờ thấm nhuần Thọ Vô Thường thật sự nên khi thân có bệnh thì tâm không dao động, không lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, xem các Cảm Thọ như không có, thọ như một niệm vọng tưởng khởi lên rồi tự lặng mất. Mục đích của đề mục này giúp cho những ai tu tập Quán Thọ Vô Thường để tâm họ luôn luôn bất động trước các Cảm Thọ. Muốn đạt được kết quả đó thì đề mục này cần phải siêng năng tu tập hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm không được biếng trễ và cũng không được bỏ qua một giây phút nào cả. Vì pháp môn tu tập này quá lợi ích cho kiếp sống của con người khiến họ làm chủ được các Cảm Thọ.
Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp môn tác ý “Quán thọ Vô Thường.” Quý vị biết rõ các Cảm Thọ thật sự Vô Thường thì quý vị không còn lo sợ khi thân có bệnh. Khi thân có bệnh mà không sợ thân có bệnh thì thân quý vị không bao giờ bệnh. Có thân mà không bệnh hay nói cách khác là làm chủ bệnh thì cuộc đời này là Thiên Đàng, Cực Lạc. Thường các tôn giáo xây dựng cảnh giới thiên đàng, cực lạc, đó là những thế giới ảo tưởng để dụ dỗ tín đồ chớ sự thật không bao giờ có cảnh giới thiên đàng cực lạc ngoài tâm con người.
Khi thân có bệnh, muốn bệnh chấm dứt thì thường tác ý câu này: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý như vậy thì tâm phải An Trú, An Tịnh trong hơi thở ra, vô thì bệnh tật tức khắc biến mất mà không cần uống một viên thuốc nào cả. Vì trạng thái An Trú, An Tịnh thì không bệnh tật nào xen vào được trong thân tâm, chỉ có người chưa An Trú, An Tịnh thì bệnh tật sẽ xâm chiếm thân tâm.
Ở đây, phương pháp Quán Thọ Vô Thường có ba đề mục trong Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở có một nội lực rất mạnh. Nhưng phải siêng năng tu tập hằng ngày ba đề mục này thì mới mong làm chủ được Sinh, Già, Bệnh, Chết.
10.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 3: “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Tâm của con người thật sự là Vô Thường, nếu chúng ta chịu khó quan sát thì sẽ thấy rất rõ. Tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ mà hay lăng xăng khởi niệm, niệm này chưa xong liền khởi niệm khác. Do quan sát kĩ như vậy chúng ta mới thấy tâm là Vô Thường thật. Do tính Vô Thường của nó như vậy nên khi chưa làm chủ được tâm thì chúng ta chịu khổ đau với nó không phải là ít. Do vậy hằng ngày chúng ta tác ý câu này: “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý xong thì chúng ta chịu khó quán xét Tâm Vô Thường ở nhiều góc cạnh khác nhau thì chúng ta càng thấy rõ tính Vô Thường của tâm. Do quán xét như vậy chúng ta sẽ không bị tâm mình lừa gạt mình và không bị tâm mình làm cho mình khổ đau nữa.
Người ở ngoài đời cũng như ở các tôn giáo khác trong đó có các hệ phái Phật giáo nước ngoài như Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông, v.v... đều cho tâm này là linh hồn, tâm này là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn Như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu, v.v... Đó là sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng, tâm chỉ là một xứ trong pháp môn Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Nếu quán thấy Tâm Vô Thường thì cũng thấy Thọ Vô Thường, thì cũng thấy Thân Vô Thường, thì cũng thấy các Pháp Vô Thường. Như vậy toàn bộ Tâm, Thọ, Thân, Pháp đều Vô Thường, mà đã vô thường thì đó là pháp khổ đau. Như vậy toàn bộ Thân Tâm của chúng ta là pháp khổ đau. Khi xét thấu như vậy thì lời dạy của Đức Phật Thân Ngũ Uẩn của con người là một khối Vô Thường, Khổ Đau. Trong thân người không có vật gì là thường còn bất biến. Thế mà kinh sách phát triển và Thiền Tông cho rằng trong thân con người còn có một vật Bất Sinh, Bất Diệt, ý này thật là sai và đi ngược lại với lời Phật.
Cho nên hằng ngày quán Tâm Vô Thường là để chúng ta không bị kiến chấp Linh Hồn, Phật Tánh lừa đảo mình. Từ những truyền thống Linh Hồn lâu đời của ông bà và ngoại đạo tà giáo đã ra công xây dựng để lại, tạo nên một cuộc sống mê tín cầu cúng.
Nhờ luôn luôn quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi không làm chúng ta bị dính mắc và đắm chìm trong dục lạc thế gian. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Có một số người giàu tưởng giải, chia tâm này ra làm nhiều phần gọi là duy thức học. Duy thức học để phân chia tâm mà lí luận chơi chứ chẳng mang đến sự lợi ích thiết thực nào cho cuộc sống của loài người. Cho nên Duy Thức Học chỉ là những học giả biên soạn để tranh luận, chớ sách Duy Thức Học chẳng có ích lợi gì cho sự tu tập giải thoát.
Nhưng ngược lại Định Niệm Hơi Thở sẽ giúp quý vị giải trừ các ác pháp và các chướng ngại nơi thân tâm của quý vị, khiến cho thân tâm quý vị sống được An Trú, An Tịnh, nhờ đó mà khổ đau không còn nữa. Chính tâm An Trú, An Tịnh nên thân tâm lúc nào cũng Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
11.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 4: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biêt tôi thở ra.”
Danh từ Pháp ở đây có nghĩa rất rộng: mọi vật xung quanh chúng ta đều là Pháp. Lời nói, suy nghĩ hay làm một việc gì đều là pháp cả, kinh sách Phật dạy cũng là pháp. Kinh sách ngoại đạo cầu siêu, cầu an, niệm bùa, niệm chú cũng đều là pháp. Chính những điều mà chúng ta đang học tập và tu luyện cũng đều là pháp. Đất đai ruộng vườn sông núi ao hồ biển cả đều là pháp. Trời đất trăng sao, không gian vũ trụ đều là pháp, ngoài hành tinh này không có vật gì là không phải pháp. Cho nên nói các pháp Vô Thường là nói chung tất cả vạn vật đều là vô thường. Trong vũ trụ này không có vật gì là thường còn. Người nào khéo sống trong tưởng mới nghĩ có vật thường còn như Thiền Tông và kinh sách phát triển.
Chính vì quán các pháp Vô Thường khiến cho chúng ta không bị dính mắc một pháp nào cả. Cho nên đứng trước các ác pháp dù trước cái chết hay bệnh tật khổ đau tận cùng chúng ta cũng thản nhiên mà không hề có chút sợ hãi nào. Bởi vậy quán sát xem xét các pháp Vô Thường có lợi ích rất lớn cho người tu tập theo Phật giáo, vì các pháp Vô Thường là một sự thật không ai dám bảo rằng chúng ta nói sai.
Có người bảo rằng trăng sao không Vô Thường vì khi chúng ta mới sinh cho đến bây giờ chúng ta là ông lão 100 tuổi mà trăng sao cũng vậy thì bảo nó Vô Thường sợ e không đúng. Chúng ta có cảm nhận thời tiết vũ trụ có khi lạnh có khi nóng, có khi mưa gió trái mùa; có khi mưa gió thuận mùa, đó là sự Vô Thường của vũ trụ, còn trăng sao là những vật quá lớn nên sự Vô Thường của chúng khiến chúng ta khó nhận ra, như các nhà khoa học dùng máy móc đo đạc đã xác định sự Vô Thường của trăng sao, chớ không phải chúng không Vô Thường.
Quán các pháp Vô Thường là quán một sự thật, chớ không phải dùng nó tu tập để xả tâm dính mắc của chúng ta. Chỉ vì chúng ta thấy các pháp Vô Thường là sự thật nên chúng ta xả tâm không dính mắc là một sự thật, chớ không phải ngụy tạo để xả tâm.
Đạo Phật tôn trọng sự thật nên những điều Phật giáo dạy người tu tập làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết là sự thật. Nói Thân, Thọ, Tâm, Pháp là Vô Thường đó là nói sự thật không dối gạt người. Nói các Pháp Vô Thường đó cũng là nói sự thật. Cho nên đạo Phật không bao giờ lừa gạt người, xin quý vị cứ nghiệm xem có đúng như vậy không?
Với đề mục Hơi Thở: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Nếu ai siêng năng tu tập vừa tác ý lại vừa quan sát các pháp Vô Thường khi nó đã thấm nhuần thì cuộc sống chúng ta chỉ còn ba y một bát như Đức Phật ngày xưa.
Đây là một đề mục tu tập hơi thở quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp Vô Thường. Một khi đã thấm nhuần các pháp đều Vô Thường thì chúng ta đều buông xả sạch. Chính vì chúng ta hiểu rõ các pháp Vô Thường nên không có pháp nào là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta. Khi chúng ta chưa hiểu các pháp Vô Thường nên cố gắng giữ gìn bảo vệ thân tâm và mọi vật, nhưng cuối cùng chúng vẫn là Vô Thường, cố giữ gìn nhưng chúng ta có giữ được vật gì?:
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Các pháp vô thường buông xuống đi!”
Với đề mục quán các pháp Vô Thường này, siêng năng tu tập, khi đã thấm nhuần rồi thì có ích lợi rất lớn cho cuộc sống chung đụng hằng ngày với mọi người. Chính thấy các pháp Vô Thường nên luôn luôn không bao giờ làm mình khổ, người khổ và cũng không làm khổ tất cả chúng sinh.
Trong cuộc sống hằng ngày tâm luôn luôn nhìn thấy các pháp Vô Thường nên không dính mắc, chắp trước một pháp nào cả, vì vậy mà không còn đau khổ. Thấy các pháp Vô Thường thì cuộc sống thay đổi rất lớn, không còn phiền não hay lo lắng sợ hãi hoặc giận dữ, v.v… Do hiểu biết các pháp Vô Thường nên thường nhìn và quan sát các pháp để tìm lỗi mình để sửa sai, do vậy nên không bao giờ tìm lỗi người. Nhờ tìm lỗi mình để biết sửa mình nên tâm không còn phiền não, khổ đau nữa. Chính vì tìm lỗi mình mới thấy đời là biển khổ đau, nhờ thấy biết như vậy nên Lòng Yêu Thương đối với mọi người càng lớn mạnh.
Trong đạo Phật dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”, đó là một tri kiến giải thoát của Phật giáo, nếu ai chịu khó áp dụng vào đời sống hằng ngày thì đời sống này là Thiên Đàng. Biết rõ điều giải thoát này thật sự nên chúng tôi xin quý vị hãy lo tu tập như vậy thì quý vị sẽ thấy sự An Trú, An Tịnh ngay liền. Khi một người biết tìm lỗi mình thì người ấy trở nên người thiện, người hiền, người tốt, người làm chủ được tâm mình. Cho nên quán các pháp Vô Thường là một điều lợi ích rất lớn. Vậy chúng ta hãy theo câu kinh trong sách này mà tu tập tác ý: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Đó là một phương pháp giúp quý vị thấm nhuần lí giải thoát chân thật của Phật giáo.
Khi biết rõ các pháp trên thế gian là Vô Thường thì quý vị phải siêng năng tu tập, nếu không siêng năng tu tập pháp môn này thì các pháp Vô Thường chỉ là lời nói suông, chứ tâm quý vị còn dính mắc đầy đủ, còn thấy các pháp là của ta, là ta. Và như vậy muôn đời ngàn kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẽo khổ đau. Và quý vị không bao giờ buông xả được, luôn luôn dính mắc, chấp đắm các pháp.
Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
12.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 5: "Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.”
Tiếp tục trên đường tu tập trong tay có 37 pháp môn, nếu ai có duyên với pháp môn nào thì tu ngay pháp đó thì cũng tìm thấy sự giải thoát hoàn toàn. Khi quán các pháp Vô Thường xong, thấy thân tâm mình An Trú, An Tịnh hiện tiền thì đó là chúng ta đã chứng đạo. Đến đây không còn tu tập nữa.
Như chúng tôi đã nói tu tập phải chọn pháp cho hợp với đặc tướng của mình, nếu mình không phù hợp với pháp môn quán các pháp Vô Thường thì chúng ta nên chọn pháp môn trực tiếp vào tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà tu tập như lời Phật dạy: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” Theo lời Đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham lam là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày quý vị thường tác ý câu: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra” rồi nương vào hơi thở nhiếp tâm An Trú, An Tịnh và quan sát xem tâm mình còn ham muốn một điều gì khác nữa không, nếu tâm ham muốn tu chứng đạo, đó là tâm còn ham muốn thì phải Quán Li Tham … như các đề mục trên đã dạy. Khi siêng năng tu tập thì ngũ triền cái: tham, sân, si, mạn, nghi sẽ bị diệt trừ một cách dễ dàng. Khi tâm tham đã được li ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Với đề mục “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” có lợi ích rất lớn cho sự tu tập diệt trừ năm triền cái. Nếu tu tập đề mục này thuần thục, chỉ mỗi lần tu tập trong 30 phút nhiếp tâm an trú trong hơi thở rõ ràng cụ thể không mờ mịt, thỉnh thoảng thường tác ý: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” thì kết quả li tham sẽ thấy rõ ràng. Từ đó về sau chúng ta cảm nhận mình rất rõ tâm ít tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ, tham vui, tham nói chuyện, tham danh, tham lợi, tham tiền bạc cho nhiều, nên việc bài bạc mua vé số đều chấm dứt.
Nhờ tu tập đề mục này mà sống độc cư trọn vẹn, phòng hộ sáu căn nghiêm chỉnh trong những ngày Thọ Bát Quan Trai.
Đề mục này tu tập có lợi ích rất lớn mong quý vị cố gắng tu tập hằng ngày để tìm thấy sự giải thoát nơi thân tâm của mình.
13.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 6: “Quán li sân tôi biết tôi hít vô; quán li sân tôi biết tôi thở ra.”
Sân là một ác pháp nếu không lìa ra khỏi thân tâm thì nó sẽ làm khổ quý vị vô vàn, vì vậy hằng ngày quý vị phải tu tập: Nếu một tâm sân đã được lìa bỏ thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này lìa bỏ được tâm sân thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Phải không quý phật tử?
Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm với chúng ta: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi đến tái sanh. Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỳ kheo là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.”
Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một pháp Li Sân là chấm dứt tái sinh.
Trong đề mục thứ 13 của Hơi Thở đã có dạy, xin quý vị xem lại sẽ thấy rõ ràng. Chỉ tu tập đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi trong một đời này mà thôi.
Nếu quý vị đã nhiếp tâm An Trú, An Tịnh trong hơi thởở các đề mục như: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì trong những đề mục này đã có li sân rồi, vì An Tịnh, An Trú được là tâm sân đâu còn nữa, nếu siêng tu tập những đề mục này cho thuần thục thì tâm sẽ được giải thoát và tâm sẽ như đất, như nước thì nóng giận còn ở đâu được nữa.
Quý phật tử có nghe Đức Phật dạy không? Chỉ có tâm sân bị diệt, bị từ bỏ thì con đường tái sinh sẽ chấm dứt. Một lợi ích quá lớn chỉ có tứ bỏ tâm sân là được chứng đao, là được giải thoát ngay liền; là được chấm dứt tái sinh luân hồi. Vậy mà không tu tập thì quá uổng. Phải không quý phật tử? Phải cố gắng nhớ tu tập hằng ngày “Quán li sân tôi biết tôi hít vô; quán li sân tôi biết tôi thở ra.” Chỉ có tu tập như vậy mà một kiếp sống khổ đau được diệt trừ mãi mãi, thật là tuyệt vời.
14.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 7: “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biêt tôi thở ra.”
Khi nào chúng ta cảm nhận tâm mình còn tham lam thì nên tu tập đề mục này: “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.”
Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán li tham…”,nhưng ở đây “Quán từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập li được tâm tham thì thôi, nếu thấy tâm không li được tham thì chúng ta tu tập đề mục từ bỏ tâm tham cho đến khi thấm nhuần thì chắc hắn tâm tham sẽ bị diệt trừ.
Như vậy quý vị thấy rất rõ ràng, muốn diệt trừ một ác pháp nào trong tâm của chúng ta đều phải tu tập từ pháp dễ rồi mới đến pháp khó, vì vậy tu tập đề mục thứ mười hai “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” Khiến cho tâm tham lìa ra, khi tâm tham được lìa ra thì kết quả giải thoát rất tốt, bằng nó Muốn chứng đạo phải tu pháp môn nào? 67 không chịu lìa ra thì quý vị tu tập tiếp đề mục thứ 14 từ bỏ tâm tham của Định Niệm Hơi Thở“Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.”
Nếu quý vị siêng năng chuyên cần tu tập đề mục này thì tâm tham sẽ bị từ bỏ không còn tới lui nữa.Từ li đến từ bỏ là một đoạn đường tu tập để diệt trừ lòng tham dục của chúng ta. Chính nó là gốc sinh ra muôn vàn sự khổ đau của loài người. Mong quý vị hiểu rõ những điều này để nhiệt tâm tu tập ngõ hầu được ra khỏi mọi sự khổ đau của kiếp làm người.
15.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 8: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.”
Ở trên là những đề mục tu tập quán xét suy tư để từ bỏ tâm tham, còn ở đây tu tập những đề mục quán xét để từ bỏ tâm sân. Cho nên trước khi tu tập đề mục này chúng ta phải tư duy quán xét cho thấu suốt lí vô thường của tâm sân, nhờ đó chúng ta mới từbỏ nó một cách dễ dàng, không còn khó khăn và trở ngại. Vì khi từ bỏ là nó đi luôn không còn trở đi trở lại nữa..
Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán li sân…”nhưng ở đây nó mạnh mẽ hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân…”Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này thôi cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Như đề mục trên đã dạy: lìa tâm sân chưa đủ mà cần phải tiếp từ bỏ nó. Muốn từ bỏ nó là phải hằng ngày tu tập đề mục thứ 15: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.”
Nếu một người siêng năng hằng ngày tu tập với câu pháp hướng này tâm sân sẽ được từ bỏ. Từ bỏ được tâm sân thì tâm quý vị sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự. Ở đây quý vị thấy có hai tâm mà cần phải tu tập xả li, từ bỏvà diệt trừ, đó là tâm tham và tâm sân. Có hai tâm này mà đã chiếm bốn đề mục tu tập của Định Niệm Hơi Thở:
1- Li tâm tham
2- Li tâm sân
3- Từ bỏ tâm tham
4- Từ bỏ tâm sân.
Bốn đề mục này quý phật tử tu tập nhuần nhuyễn rồi mới tiến tới tu tập đề mục thứ mười sáu.
16.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 9: “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biêt tôi thở ra.”
Trong tất cả các đề mục của Định Niệm Hơi Thở có những đề mục tu tập liên tiếp diệt trừ tâm tham, sân, si. Cho nên nhửng từ li tâm tham, từ bỏ tâm tham rồi đoạn diệt tâm tham là những bài pháp tu tập liên tục không gián đoạn.
Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham.”tức là làm cho nó không còn nữa, làm cho nó chết mất. Vì vậy ở trên chỉ có “li” và “từ bỏ” mà chưa làm cho nó tiêu diệt. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?
Kính thưa quý phật tử! Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người như trên đã nói, vì thế nó quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên Đức Phật chia ra làm ba pháp tu tập tập hay còn gọi là ba giai đoạn tu tập tâm tham. Và khi đến tu tập đề mục này quý phật tử phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể lôi thôi với tâm tham dục được.
Đây là một pháp môn quyết liệt diệt trừ tâm tham, vì chính tâm tham dục của loài người mà loài nguời phải chịu khổ đau vô vàn. Đề mục thứ 16 này là một pháp môn quyết định con đường tu tập của Phật diệt trừ tận gốc đau khổ. Vậy quý phật tử hãy cố gắng lên, đây là pháp môn cứu cánh thoát kiếp khổ đau của con người mà mọi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, không ai đi thay thế cho ai được.
Một phương pháp quá đơn giản “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra.” Cứ như thế nương vào hơi thở tu tập tác ý từ 1 phút đến 30 phút, sự tu tập ấy quá dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, chỉ còn có siêng năng tu tập là đạt kết quả mĩ mãn
17.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 10: “Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biêt tôi thở ra.”
Người nào có đặc tướng tâm hay sân giận thì nên tu tập pháp môn này. Đề mục này cũng có một sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lí gì là một tu sĩ Phật giáo. Phải không thưa quý phật tử?
Sân là một tính rất xấu và cực ác, lúc sân, nó có thể giết người, làm bất cứ một việc gì; lúc sân, nó cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu nào trong tâm. Biết tâm sân là sự khổ đau, là pháp cực ác nên tu tập phải chấm dứt nó ngay liền.
Chấm dứt được tâm sân là Niết bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì? Vì tâm sân diệt là tâm tham diệt; tâm sân còn là tâm tham còn. Trong hai tâm này diệt một tâm thì tâm kia phải diệt. Biết rõ điều này nên Đức Phật đưa vào Định Niệm Hơi Thở sáu đề mục liên tục để diệt trừ tâm tham và tâm sân.
Sáu đề mục này rất quan trọng xin quý phật tử lưu ý, để tu tập quyết định cho một đời tu hành của mình có thành công hay không thành công do sáu đề mục này. quý phật tử hãy gửi trọn thân tâm vào những pháp môn tu tập này. Bởi Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn ngăn ác diệt ác rất tuyệt vời. Nhưng hãy theo thứ tự đề mục của Định Niệm Hơi Thở mà tu tập. Đề mục này tu có kết quả rồi mới tu tập đến đề mục khác. Phải nhớ lời dạy bảo này: đừng tu tập đề mục này chưa có kết quả mà vội tu tập đến đề mục khác thì rất uổng phí công tu tập.
“Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra.” Đó là một câu tác ý nương theo hơi thở để diệt tâm sân một cách tuyệt vời. Nếu quý phật tử chuyên cần tu tập hằng ngày, rảnh giờ nào tu tập giờ nấy. Suốt thời gian tu tập một năm, tâm sân của quý vị sẽ bị diệt trừ. Tâm quý vị sẽ như đất, như nước không còn chướng ngại pháp nào làm quý vị sân được.
18.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 11: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.”
Khi tu tập đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm phải Định Tỉnh, nếu thấy mình đoạn diệt tham, sân, si, mạn, nghi mà tâm không Định Tỉnh tức là bị tưởng hôn trầm thùy miên vô kí. Khi bị những trạng thái này thì tâm sinh lười biếng thích ngồi nhiều lười biếng đi kinh hành, vì thế chúng ta nên trở về đề mục Hơi Thở.
Biết rõ trường hợp này thường xảy ra cho mọi người tu tập nên Đức Phật đã dạy câu tác ý: Quán Tâm Định Tỉnh theo phương pháp Định Niệm Hơi Thở: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.”
Đây là đề mục phá tâm si. quý phật tử phải cố gắng tu tập với đề mục này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có hôn trầm, thùy miên và vô kí đến thăm quý vị nữa. Nếu quý phật tử tu tập chưa nhuần nhuyễn thì quý vị sẽ bị hôn trầm, thùy miên đánh gục. Hôn trầm, thùy miên là một pháp cực ác đối với những người tu hành theo Phật giáo. Vốn nó không tha cho một người nào cả, ngay đức Phật còn bị hôn trầm, thùy miên, vô kí, v.v…
Nếu quý phật tử diệt trừ tâm tham, tâm sân ở các đề mục trên thì đến đề mục thứ 18 này tâm si cũng đã bị diệt mất. Vì thế khi tu tập đề mục này quý phật tử chỉ cần tác ý “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là tâm định tỉnh có ngay liền. Trước khi muốn tu tập một pháp môn nào đều phải sử dụng đề mục này trước để giữ tâm được tỉnh táo, không bị những trạng thái si mê xen vào trong lúc tu tập.
Đề mục tu tập này quá đơn giản, nhưng hiệu quả vô cùng “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” như vậy, thế mà quý phật tử không tu tập thì rất uổng. Mong quý phật tử lưu ý tu tập nhiều hơn để mang lại lợi ích cho mình cho người thật là an lạc vô cùng.
19.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 12: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.”
Khi đã tu tập 18 đề mục trên thì tâm quý vị đã quá nhuần nhuyễn nên với đề mục này chỉ cần tác ý là thấy ngay liền một trạng thái Tâm Giải Thoát. “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.” Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn thành viên mãn thì đến đề mục này là Tâm Bất Động hoàn toàn, có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm ở trạng thái không phóng dật như Phật ngày xưa. Xưa Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.”
Đây là đề mục thứ 19 của Định Niệm Hơi Thở. Một đề mục chỉ cho trạng thái Niết Bàn “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.” Khi tâm ở trong trạng thái bất động Niết Bàn thì tâm không phóng dật theo các pháp, nên tâm luôn luôn tự nhiên ở trên hơi thở ra, hơi thở vào. Cho nên câu tác ý “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” là chỉ rõ tâm bất động luôn luôn biết hơi thở ra vào nhẹ nhàng, êm ái mà không do dụng công chút nào cả, nếu còn dụng công để tâm biết hơi thở ra vào là chưa giải thoát.
Định Niệm Hơi Thở rất tuyệt vời, nếu người nào cứ theo đúng 19 đề mục của Định Niệm Hơi Thở này tu tập, mỗi đề mục đều có kết quả thì đến đề mục thứ 19 sẽ nhập vào chỗ Tâm Bất Động một cách dễ dàng. Chỗ tâm bất động là Niết Bàn, là cứu cánh của Phật giáo. Tác ý đề mục “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” này cũng giống như quý phật tử tác ý “Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự” vậy.
Đến đây 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở đã giảng xong, còn lại phần tu tập là phần của quý phật tử. Chúng tôi chỉ là những người hướng đạo chỉ đường cho quý vị đi, nếu quý vị có đi thì quý vị đến chỗ an toàn, còn không đi là quyền của quý vị, chúng tôi không có quyền bắt buộc một người nào cả. Phật pháp là của chung của mọi người không riêng của người nào cả.
Sau cùng chúng tôi kính chúc quý vị tu tập sớm đạt được như ý muốn.
*****
TÓM LƯỢT TU PHÁP MÔN ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Muốn thân được an ổn, thanh tịnh thì hằng ngày nên tu tập: Đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở, muốn tu tập cho có kết quả thì phải nương theo câu tác ý sau đây: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Tu tập như vậy thì kết quả đem lại thân được An Trú, An Tịnh, nhờ đó mà thân không bệnh tật, không đau nhức.
Khi tu tập An Tịnh Thân hành có kết quả tốt thì mới tu tập An Tịnh Tâm Hành, còn tu tập An Tịnh Thân Hành chưa có kết quả thì phải bền chí tu tập đến khi nào có kết quả An Tịnh Thân Hành từ 30 phút đến một giờ thì mới chuyển qua tu tập Tâm Hành.
Muốn tâm được An Trú, An Tịnh thì hằng ngày nên tu tập đềmục thứ7 của Định Niệm Hơi Thở, nhất là phải nương theo câu tác ý sau đây theo sự hướng dẫn của Đức Phật dạy cho chúng Tỳ kheo trong thời Đức Phật còn tại thế: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.
Khi tác ý như vậy thì tâm sẽ An Trú và An Tịnh ngay liền, đó là công phu tu tập đã đạt được kết quả làm chủ được tâm, nếu tu tập chưa đạt được vậy thì hãy tiếp tục tu tập câu tác ý này cho đến khi nào bảo tâm sao thì tâm làm theo như vậy.
Khi tu tập đạt được kết quả là làm chủ được tâm thì mới tiếp tục tu tập đề mục thứ9 của Định Niệm Hơi Thở: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.”
Như trên đã dạy: khi tu tập hai đề mục An tịnh Thân và An Tịnh Tâm đã An trú, đã An Tịnh thì mới nên tu tập đến đề mục li ác pháp thứ 3 này, nên nhớ kĩ lời dạy này thì sự tu tập mới có kết quả tốt.
Đây là ba đề mục rất quan trọng để diệt trừ các ác pháp và các cảm thọ, khiến chúng không còn tác động vào thân tâm của quý vị được nữa. Như vậy là quý vị tu tập đã giải thoát hoàn toàn
Ba pháp môn Hơi Thở này được xem như ba cây cổ thụ trong pháp Thân Hành Niệm. Nếu chia ra từng kết quả của mỗi pháp mà gọi là tu chứng thì chưa chứng đạo, chỉ có dụm lại kết quả của ba pháp môn này thì mới được gọi là chứng đạo. Nếu quý vị tu tập ba đề mục này có chất lượng đầy đủ thì không có bệnh khổ nào dám bén mảng vào thân quý vị được. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với pháp môn Thân Hành Niệm để diệt trừ các bệnh khổ nơi thân tâm của quý vị.
Lợi ích lớn cho đời người như vậy, xin quý vị hãy cố gắng tu tập cho thuần thục, đừng tu tập lấy có, vì chẳng giải quyết được những gì, còn phí thời gian và công sức của quý vị quá uổng.