• benthayhocdao
  • ttl3
  • thanhanhniem2
  • quetsan
  • khatthuc1
  • huongdantusinh
  • phattuvandao1
  • vandao2
  • ThayTL
  • phattuvandao3
  • tinhtoa2
  • tranhducphat
  • tamthuphattu
  • toduongtuyetson
  • amthat1
  • amthat2
  • tinhtoa1
  • chanhungphatgiao
  • lopbatchanhdao
  • thanhanhniem1
  • ttl1
  • daytusi
  • vandaptusinh
  • lailamtoduong1
  • thanhanhniem3
  • amthat3
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
JGLOBAL_PRINT

Pháp Tu Cư Sĩ

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 II.- PHÁP TU CƯ SĨ

Hôm nay Thầy ra công, Thầy cố gắng giảng giáo án. Khi giảng khác với khi viết sách, bởi vì giảng Thầy phải lặp đi lặp lại, nhắc đi nhắc lại rất nhiều, giảng rồi phải cô đọng lại và nhắc lại để cho quý vị nhớ; nên nhắc tới, nhắc lui. Những lời Thầy giảng ghi được trong băng, thì cái gì mà Thầy nhắc nhiều, cái đó nó làm cho quý vị thấm nhuần chứ không phải là thừa đâu, nó không thừa đâu. Khi viết thành sách thì những điều lập lại đó phải gạch bỏ hết bởi vì lặp đi lặp lại thì sách không thể làm vậy được. Khi đã viết cái nghĩa đó rồi thì phải đi tới cái nghĩa khác. Cho nên giáo án này viết ra mà in thành sách thì không có lặp đi lặp lại những lời nói của Thầy như ở trong băng đâu. Bởi vì Thầy nói ở trong băng lặp đi lặp lại là làm cho quý vị thấm nhuần được cái đạo lý của nó, nhấn vào chỗ nào đúng, chỗ nào sai để cho quý vị tu tập cái đó nhiều hay ít. Chỗ nào mà Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều tức là chỗ đó quý vị phải tu tập nhiều, còn chỗ nào mà Thầy lướt qua là cái chỗ đó nó không cần thiết lắm, chỉ để hiểu thôi.

Quý vị nhớ những lời nói của Thầy ở trong băng rất quan trọng chứ không phải thừa đâu. Những chỗ mà Thầy lặp đi lặp lại đó là cái để nhắc nhở cho quý vị tu hành nhiều cái chỗ đó, tập luyện nhiều cái chỗ đó hơn, chứ không nên coi thường những chỗ đó.

Đó là những cái Thầy trao lại. Những điều Thầy nói hôm nay là khi Thầy không còn gặp quý Thầy nữa, không còn gặp quý vị nữa. Khi đó quý vị nghe được những lời nhắc đi nhắc lại rất nhiều, chẳng khác gì đó như là lời của ông cha đã nói với các con phải lo làm ăn như vậy, như vậy thì mới sống được ở trong cõi thế gian này. Quý vị nghe được những lời nhắc đi nhắc lại của Thầy mới tìm được con đường giải thoát. Đó, quý vị phải nhớ.

Vì vậy hôm nay được những điều này thì quý vị phải nỗ lực thực hiện những gì Thầy nói, phải làm cho đúng, đừng làm sai. Bởi vì không còn con đường nào có thể đạt được sự làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi bằng con đường mà Thầy vạch ra cho quý vị đi. Nghĩa là từ trước đến giờ, hàng bao nhiêu năm chưa có ai thành lập được cái giáo án này. Mặc dù Hòa Thượng Thiện Hoa đã viết bộ Phật Học Phổ Thông, nhưng đó chỉ là giáo thuyết của Phật giáo từ thấp đến cao để chúng ta biết rõ ràng, đấy chỉ là giáo thuyết để chúng ta hiểu Phật giáo thôi, chứ không phải là cái giáo trình để chúng ta tu tập.

Còn Thầy viết giáo án này là giáo trình tu tập. Ngay từ khi vô giáo trình đầu tiên, thì một người cư sĩ đến với Đạo Phật phải thay đổi 6 nghề nghiệp liền. Các vị thấy rõ ràng cái hành động chúng ta phải thay đổi nghề tức là chúng ta tu đó, nó là bước đầu vào hành động. Còn cái kia khởi đầu, Hòa Thượng Thiện Hoa dạy cho chúng ta nghe, hiểu, biết lịch sử của Đức Phật, cho nên nó đâu có biến ra cái hành động tu của quý vị đâu. Rồi Tam quy, rồi Ngũ giới, Hòa Thượng Thiện Hoa chỉ nói như vậy thôi, chứ đâu biến ra hành động. Rồi dạy tới Thập Thiện, quý vị có thấy biến ra hành động được không? Đâu có dạy chúng ta áp dụng Định Vô Lậu như thế nào để tu Thập Thiện. Đâu có dạy Tứ vô lượng tâm thực thiện Thập Thiện như thế nào, trau dồi nó như thế nào. Đâu có dạy Tứ Chánh Cần để đoạn dứt ác. Dạy Tứ Chánh Cần thì Hòa Thượng Thiện Hoa dạy Tứ Chánh Cần, chứ đâu có nói áp dụng trong Thập Thiện, còn Thầy dạy rất rõ để cho quý vị biết áp dụng vào chỗ nào ở trong 10 điều lành này, vì 10 điều lành này là con đường cuối cùng giải thoát tham sân si. Vì diệt được tham sân si, là 3 độc, mà 3 độc diệt được tức là chúng ta đã sống ở trong Niết Bàn rồi.

Cho nên nghe nói đến Thập Thiện nghĩ là quá tầm thường, nhưng xét qua 3 cái độc tham sân si này, chúng ta thấy nó không tầm thường đâu, nó là cả một vấn đề, bao nhiêu Thiền định của Phật nhắm vào chỗ này để giải quyết nó, để đi đến con đường giải thoát hoàn toàn. Cho nên những cuộn băng mà Thầy giảng cho quý vị được thu như thế này là cả một gia tài quý báu của Phật đã để lại, mà từ xưa đến giờ nó là những bài kinh rải rác, không kết tập được cái thấp, cái cao, cái dễ, cái khó cho nên quý vị không biết con đường nào mà tu.

Hôm nay Thầy đã chỉ cho quý vị biết đường vào, biết cách thức tu tập, như nãy giờ quý vị đã nghe rõ rồi chắc chắn quý vị sẽ biết được đường lối mà quý vị sẽ tập cái gì trước, cái gì sau. Đây mới có giai đoạn 1 thôi, còn giai đoạn 2, giai đoạn 3 rồi giai đoạn 4, lần lượt tất cả các giai đoạn tu tập đều được Thầy bố trí, bố cục một cách chặt chẽ, vừa hiểu mà vừa tu, vừa học vừa tu, nó có cái thực hành, nó có cái trau dồi, nó có sự dứt bỏ ở trong đó; nó rất rõ ràng mà Phật đã dạy trong những bài kinh, Thầy thấy quá tuyệt vời.

Không có một tôn giáo nào thực tế và cụ thể như là giáo lý của Đạo Phật. Giáo lý của Đạo Phật dạy chúng ta thực hiện từ thân tâm của chúng ta chứ không phải dạy chúng ta mênh mông ở ngoài, không phải dạy chúng ta mê tín cầu khẩn, cúng bái mà dạy chúng ta thực hiện giải trừ ngay cái đau khổ trong thân tâm của chúng ta. Cho nên ở đây trên con đường tu tập, Thầy thấy quý vịlà những người có phước nhất ở trong cuộc đời này, được nghe những cái do từ kinh nghiệm tu hành của Thầy nói ra. Những kinh nghiệm tu hành của Thầy không sai một mảy của Đức Phật ngày xưa đã dạy các đệ tử của Ngài. Cho nên không bao giờ chúng ta lầm lạc được. Chúng ta có một cái bản đồ, có một lối đi, có một con đường tu tập thật sự rõ ràng bằng hành động của chúng ta. Chúng ta làm chủ được sự sống chết và chúng ta chấm dứt được tái sanh luân hồi của mình, cụ thể rõ ràng không còn mơ hồ nữa, không còn lạc lầm nữa. Thầy xác định điều đó là điều thực. Đạo Phật thực, rất thực, không có dối ai hết, không có gạt người, không nói như vậy mà không làm được. Muốn làm được thì phải tu tập cho đúng cách, chớ tu tập không đúng cách thì không đạt được.

Thầy ráng giảng như thế nào để cho quý vị hiểu rõ những pháp để tu, để diệt tham sân si của mình. Tất cả những cái này đều đúng con đường của Đạo Phật đã dạy, con đường đó là Thầy của quý vị, chứ không phải Thầy, Thầy chỉ là người có kinh nghiệm tu hành rồi góp nhặt lại những lời Phật dạy mà thành lập lại con đường đi, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, để cho quý vị đi được, chứ Thầy không có cái gì của Thầy ở trong này, hoàn toàn không có. Thầy chỉ kết tập lại cho đúng con đường từ thấp lên cao của nó thôi chứ hoàn toàn không có cái gì mới, toàn là của Phật dạy. Cho nên Thầy không có gì hết, Thầy chỉ có cái công giúp cho quý vị biết con đường đi, đi cho đúng và từ đó quý vị sẽ đi trên con đường đó, con đường đưa quý vị tới đích giải thoát không có gì khó khăn hết. Để rồi khi Thầy ẩn bóng, không có mặt Thầy, khi giáo án này ra đời, thì ngay từ bây giờ, quý vị là những người thực hành và những người tiếp tục kế tiếp sau này, thì quý vị cứ theo con đường này mà đi.

Tới khi Thầy giảng thiền định, bốn thiền của đạo Phật, thì Thầy giảng cũng rất rõ, để quý vị biết từng cái sai, cái đúng trên đường thiền định của mình để quý vị cảnh giác mà đi trên con đường đó. Dù lúc bấy giờ không có Thầy, nhưng quý vị vẫn đi được trên con đường đó, không sợ sai. Thôi, đến đây Thầy xin chấm dứt.

THẬP THIỆN

A.- GIỚI THIỆU THẬP THIỆN

Sau khi đổi nghề thì người cư sĩ phải tu tập cái gì, họ phải học cái gì? - Họ phải học thập thiện tức là 10 điều lành, họ phải sống đúng trong 10 điều lành này.

Quý vị đã nghe, đã biết cái nghiệp rồi chứ gì. Đó là những hành động tạo khổ đau, đưa quý vị đến khổ đau thế này thế khác mà kinh Phật đã dạy. Thầy trích ra những điều đó, rồi giảng thêm để quý vị thấy rõ về nghiệp. Giải đáp câu hỏi nghiệp từ đâu mà có. Chúng ta biết đại khái về nghiệp vì nghiệp nó rất nhiều chứ nó không phải chỉ có những phần đã giảng. Bởi vì nếu được thầy giảng về nhân quả luân hồi, nghĩa là nói về nhân quả thì Thầy phải đế cập đến các hành động, khi quý vị làm cái gì thì nó sẽ tạo cái nghiệp gì đến với quý vị; có cái nhân thì phải có cái quả của nó đến với hành động đó của quý vị.

Trước đây, tuy những bài nói nghiệp nhưng thực ra đó là nhân quả, cái nhân quý vị làm cái gì thì quý vị phải thọ lấy cái quả đó. Như cái nhân của mình ngạo nghễ, kiêu mạn thì mình sẽ sanh vào quả của nhân đó, tức là sinh vào nhà nghèo khổ, hạ liệt. Còn cái nhân của mình không có kiêu mạn, không có ngạo nghễ, không khi dễ ai hết thì cái nhân đó mình sẽ sinh được vào nhà quyền quý, cao quý. Từ đó chúng ta suy ra nhân quả. Nhân là do hành động thành thói quen, thói quen là quả của hành động, thói quen tạo thành Nghiệp.

Do biết được con đường như vậy, thì chúng ta là những người cư sĩ, chúng ta phải học thập thiện, tức là 10 điều lành. 10 điều lành này là của người cư sĩ. Đức Phật nói sống với 10 điều lành này sẽ tạo cho chúng ta cái hướng sanh về cõi trời. Thập thiện tức là những vị trời, đều là những người sống ở trong thập thiện hết, cho nên mới được sanh về cõi đó. Vậy muốn sanh về cõi trời là phải sống thập thiện. Vì vậy mà người cư sĩ còn tại gia, chưa xuất gia, thì phải tu học, tập luyện và sống cho đúng thập thiện. Nếu muốn thực hiện thập thiện cho đạt được thì pháp Tứ Chánh Cần quý vị cư sĩ phải tu tập. Người cư sĩ phải thấy được đường lối của đạo Phật. Nếu quý vị cư sĩ học hiểu được Thập thiện, mà quý vị không tu Tứ Chánh Cần thì quý vị chẳng hề thực hiện được Thập thiện, tức là người cư sĩ không sống được Thập thiện.

Ngoài ra, người cư sĩ phải giữ gìn Năm Giới của cư sĩ, nghĩa là người cư sĩ phải được trao, và phải thọ trì những giới của người cư sĩ nghiêm chỉnh, thì hạnh phúc của gia đình quý vị cư sĩ sẽ mãi mãi, sẽ suốt đời không còn khổ đau, không còn phiền não nữa. Nghĩa là vợ nói chồng nghe, chồng nói vợ nghe, con cái rất là hiếu thảo, không bao giờ có sự rầy rà ở trong gia đình.

Đó, đến đây thì quý vị thấy rất rõ, khi người cư sĩ học Thập thiện và muốn sống được Thập thiện thì người cư sĩ phải tu tập Tứ Chánh Cần. Trong Tứ Chánh Cần, quý vị thấy rằnggiai đoạn đầu của Tứ Chánh Cần thì đức Phật dạy người cư sĩ dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ. Qua giai đoạn tu tập của cư sĩ, rất cần thiết cho người cư sĩ, nghĩa là người cư sĩ phải dứt bỏ nghề bất thiện và sống trong mười thiện.

Tứ Chánh Cần như thế nào? Thầy giảng sơ, sau này Thầy sẽ giảng kỹ hơn khi dạy sống trong Thập Thiện này. Thầy sẽ giảng Tứ Chánh Cần để cho người cư sĩ biết cách thức tu, bởi vì đây là giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ phải tu, nếu không biết pháp tu làm sao tu cho được.

Muốn tu Tứ Chánh Cần thì Phật dạy trong bài kinh rất đơn giản, nhưng giải ra thì không phải đơn giản đâu, không đơn giản như quý vị hiểu đâu. Trong Tứ Chánh Cần, Phật nói: Các pháp ác chưa sanh thì chúng ta không cho sanh, mà đã sanh thì cần phải đoạn dứt, từ bỏ liền, không cho nó tăng trưởng. Các pháp thiện chưa sanh thì chúng ta cho nó sanh ra, khởi lên cho nó sanh ra, mà nó đã sanh ra được thì chúng ta tăng trưởng chúng. Đó là Tứ Chánh Cần. Đơn giản chúng ta hiểu như vậy. Nhưng sau này, Thầy sẽ giảng thêm cách thức để chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần. Bởi vì nói về thiền định thì Tứ Chánh Cần là Định Tư Cụ, là cái dụng cụ để tu thiền định. Cho nên ngay từ người cư sĩ mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần này là để chuẩn bị cho con đường tu thiền định của mình sau này, chớ không phải gì khác hết. Chính tu Tứ Chánh Cần này sẽ giúp cho người cư sĩ có một đời sống thập thiện, sống đời sống 10 điều lành. Mà sống đúng được 10 điều lành này sẽ làm cho đời sống người cư sĩ, gia đình người cư sĩ, bà con chòm xóm, làng xã, xã hội của quý vị rất là an vui và hạnh phúc.

Được học và hiểu Phật pháp đến đây, rồi sau những ngày áp dụng những bài học vào đời sống của quý vị, quý vị sẽ thấy kết quả an vui hạnh phúc chơn thật của đời sống con người. Khi quý vị đã áp dụng được bài học Thập thiện này rồi thì mới đến xin thọ Tam quy, Ngũ giới với một vị thầy đại diện cho ba ngôi Tam bảo truyền Tam quy, Ngũ giới cho mình. Còn nếu người cư sĩ chưa được học Thập thiện và tu Tứ Chánh Cần thì người cư sĩ còn vô mình mà xin thọ Tam quy, Ngũ giới coi chừng mình phạm những lỗi rất lớn. Bởi vậy khi một người cư sĩ muốn thọ Tam quy, Ngũ giới thì người cư sĩ phải được chuẩn bị đâu ra đó hẳn hòi rồi mới thọ Tam quy - Ngũ giới.

Nhưng hiện tại bây giờ Thầy thấy người cư sĩ muốn đến xin thọ Tam quy - Ngũ giới thì họ nghiên cứu kinh sách một cách rất bừa bãi… chứ chưa hiểu cách thức tu tập như thế nào. Cho nên người cư sĩ chưa giữ gìn được những cái hạnh, cái đức của người cư sĩ cho nghiêm chỉnh,đúng như một người đệ tử Phật. Họ nghĩ họ thọ Tam quy - Ngũ giới rồi bắt đầu từ đó mới tu tập sau. Nhiều khi người cư sĩ cho sự tu tập không thành vấn đề gì nữa hết. Nghĩa là thọ Tam quy cho có Tam quy, cho có hình thức chứ thiệt ra chưa hẳn là mình sống như Phật - Pháp - Tăng. Người cư sĩ thọ Tam quy là sống nương theo 3 ngôi Tam Bảo, thế mà không có theo ba ngôi Tam bảo sống. Ông Phật sống như thế nào? Mình sống được như ông Phật chưa? Chưa.Vậy mà người cư sĩ thọ Tam quy là thọ làm sao?

Còn thọ Ngũ giới thì sao? Thầy thấy có nhiều người cư sĩ khi hỏi họ giới thứ 5 này có giữ được hay không. Họ nói cái giới này con giữ chưa được vì con còn nghiền rượu. Thôi bây giờ cái giới này đểchừng nào con bỏ rượu rồi con mới giữ được, cho con từ từ tu cái giới này sau. Nếu bây giờ 5 giới đó mà người cư sĩ không chuẩn bị cho mình, đến đó còn hứa hẹn để cho mình tu từ từ sau thì chắc chắn là người cư sĩ này không bao giờ từ từ được hết và đồng thời họ cũng xem thường Tam quy - Ngũ giới của Phật.

Tam quy - Ngũ giới là điều lành, là pháp môn để đem lại đời sống cho người cư sĩ hạnh phúc và an vui trong gia đình của họ. Những gì của Phật pháp đều đem lại sự giải thoát, đem lại sự an vui cho người cư sĩ khi đến với Phật pháp sau khi thọ Tam quy - Ngũ giới rồi.

Thầy thấy phần lớn các gia đình Phật tử thọ Tam quy - Ngũ giới rồi, sống còn lộn xộn chứ chưa hẳn là có trật tự, chưa có hạnh phúc. Cha vẫn rầy mắng con, không có tìm hiểu con mình như thế nào. Con thì cãi lẫy cha mẹ, muốn đi chơi là đi, muốn ngang dọc như thế nào cũng không cần thiết cha mẹ. Vợ con ở nhà thì rầy rà, giận hờn, canh chẳng ngon mà cơm chẳng lành, đủ thứ đau khổ ở trong gia đình hết. Thế mà người nào cũng đến quy y Tam bảo - thọ Ngũ giới. Người nào cũng có pháp danh này, pháp danh kia rẫy đầy. Thế nhưng cái giải thoát, cái đem lại đời sống an vui cho họ thì không có. Cho nên Thầy thấy thiệt là quá đau khổ cho những người đệ tử của Phật trong giai đoạn này.

Cho nên khi được học giáo án này, muốn chấp nhận cho một người cư sĩ vào đạo, chúng ta phải trang bị cho họ những pháp môn tu hành nào, những cái gì chúng ta phải dạy cho họ trước. Sau khi người cư sĩđã thấm nhuần được, bấy giờ mới làm lễ cho họ thọ Tam quy - Ngũ giới thì chừng đó người cư sĩ đệ tử của Phật mới đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, đem lại sự không đau khổ cho mọi người trong gia đình họ. Nếu chúng ta trang bị cho người cư sĩnhững gì theo giáo án này đầy đủ rồi thì khi họ thọ Tam quy - Ngũ giới xong rồi, họ làm đệ tử Phật rồi, thì họ có xứng đáng đệ tử của Phật chưa? Rất xứng đáng. Họ đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, đem sự an vui cho chòm xóm của họ, không bao giờ họ còn say sưa chửi bới chòm xóm, không bao giờ họ còn giận giữ một con chó, con gà của chòm xóm khi chúng qua nhà họ mà họ làm thế này thế khác. Đó là những pháp môn, những sự thông hiểu, những hiểu biết cho người cư sĩ sắp sửa là đệ tử Phật mà chúng ta phải chuẩn bị cho họ trước khi cho họ thọ Tam quy - Ngũ giới làm đệ tử Phật.

Quý vị cư sĩ phải hiểu khi mình đã thọ Tam quy - Ngũ giới rồi mà mình còn những điều này thì đức Phật làm sao chấp nhận cho mình là đệ tử của Phật được. Đạo Phật không chấp nhận những người cư sĩ mà:

1. Chuyên tâm làm khổ người nghĩa là những người hở ra một chuyện gì thì mạ nhục, đánh đập người ta, lúc mình tức giận coi đầy tớ của mình không phải là con người nữa. Đó là cách thức mình làm khổ người. Chuyên tâm làm khổ người.

2. Chuyên tâm làm khổ mình như mỗi mỗi chút nào cũng rầu lo, cũng tức giận ở trong người của mình, thì như vậy mình có xứng đáng là đệ tử của Phật không? Người đệ tử của Phật không bao giờ tức giận, luôn luôn lúc nào cũng thấy sự phiền não tức giận mình là đã tự làm khổ cho mình. Do vậy, hãy xả bỏ cái rầu lo tức giận đó đi. Có như vậy, người cư sĩ sắp sửa trở thành người đệ tử chính thức của Phật sẽ không bao giờ tự làm khổ họ, hay làm khổ người.

3. Chuyên tâm làm khổ người, làm khổ mình nghĩa là làm cho người ta khổ, làm cho mình khổ. Ví dụ bây giờ một đứa con mình đã làm gì sai thì mình không nên tức giận, la rầy, chửi mắng đứa con, mà phải nên ôn tồn, nhỏ nhẹ khuyên bảo với những lời nói nghiêm trang cộng với gương mặt nghiêm nghị. Mỗi lời nói của mình phải vạch ra cho nó thấy những hậu quả tai hại sẽ làm khổ bản thân chính nó, và còn liên lụy làm khổ cha mẹ và anh em trong gia đình. Nhỏ nhẹ khuyên bảo “Từ nay con phải chừa bỏ những hành động đóvì là một điều tai hại làm buồn khổ cho cả gia đình. Tuy bây giờ chưa có gì xảy ra, nhưng những hành động của con vui chơi với bạn bè vô ý thức, hậu quả sẽ xảy ra to lớn, khổ đau cho gia đình chúng ta. Con hãy suy nghĩ kỹ lại đi, đừng bê tha với những người bạn bè hư thân, rượu chè, bài bạc, đua xe gắn máy cùng những gái buôn hương bán phấn mất nết hư thân. Hãy tìm bạn tốt mà chơi con ạ. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Con hãy nhớ lấy những câu tục ngữ này, còn nhỏ phải siêng năng học tập, sau này lớn lên mới trở thành người hữu dụng cho bản thân con và xã hội. Cha mẹ sẽ mất đi không thể sống mãi nuôi con. Con phải tự nuôi sống lấy, phải bảo bọc gia đình của con bằng chính bàn tay và khối óc của con”. Những lời dạy này đã không làm khổ người mà có những lời khuyên răn dạy bảo con đúng cách làm cha mẹ. Bởi vậy Phật không chấp nhận làm khổ người.

Như vậy, một vị thầy, đại diện cho Phật Pháp là một vị Tăng, khi một người cư sĩ muốn trở thành một đệ tử của Phật thì vị thầy phải trang bị cho họ đầy đủ những pháp môn tu, để đến khi họ trở thành một người đệ tử của Phật thì họ thấy rõ ràng đi vào đạo Phật có sự giải thoát cụ thể, có một đời sống rất là an vui hạnh phúc cụ thể, chứ không phải như hồi họ chưa biết đạo Phật, chưa đến với đạo Phật. Hiện giờ chúng ta thấy bao nhiêu Phật tử đến với đạo Phật, đã là đệ tử cư sĩ đạo Phật, cúng dường thì có nhưng hạnh phúc gia đình của họ thì có không. Họ cúng dường mãi, cúng dường mãi, bao nhiêu chùa tháp xây dựng lên vĩ đại mà cuối cùng gia đình họ, Thầy thấy hoàn toàn là tan nát, rầy rà chửi mắng đủ điều chứ chưa phải là hạnh phúc trong đó.

Đức Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm làm khổ người, làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình. Và chấp nhận những cư sĩ không làm khổ mình, không làm khổ người. Những người cư sĩ này mới chính là đệ tử của đức Phật, còn những hàng cư sĩ kia chưa phải là những người cư sĩ chân chánh. Những hàng cư sĩ chân chánh của đạo Phật cần phải hằng ngày trau dồi Tứ vô lượng tâm.

1. Tâm từ được trau dồi sẽ diệt sân hận.

2. Tâm bi được trau dồi sẽ diệt tánh hung bạo.

3. Tâm hỷ được trau dồi sẽ diệt lòng ganh tỵ

4. Tâm xả được trau dồi sẽ diệt hận thù.

Sau khi người cư sĩ tu tập thập thiện là tu tập 10 điều lành, thì bước qua giai đoạn người cư sĩ phải tu tậpTứ vô lượng tâm. Vì tứ vô lượng tâm tu tập là trau dồi cái tâm của mình trong tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả để đối trị với tâm sân, tánh hung bạo, lòng ganh tỵ, lòng hận thù. Đó là những điều người cư sĩ cần phải trau dồi, tu tập.

Người cư sĩ theo đạo Phật phải ước nguyện trọn đời sống:

1. Thân hành thanh tịnh. Nghĩa là người cư sĩ đã quyết tâm theo đạo Phật tu hành thì thứ nhất phải làm sao cho thân hành của mình được thanh tịnh. Mình phải hiểu như thế nào gọi là thân thanh tịnh.

2. Khẩu hành thanh tịnh. Tức là mình phải hiểu làm sao cho lời nói, cho miệng của mình luôn luôn trong sạch thanh tịnh.

3. Ý hành thanh tịnh. Nghĩa là làm sao cho tư tưởng, suy tư của mình được thanh tịnh.

4. Sinh sống thanh tịnh. Tức là cách thức làm ra tiền, ra của, ra vật dụng bằng cách trong sạch thanh tịnh, không có gian ác ở trong đó, không có xảo quyệt trong đó.

Người cư sĩ nguyện trọn đời của mình phải thực hiện 4 cách này thì mới làm cho thân tâm của mình được thanh tịnh và đời sống mới được giải thoát an vui. Nếu người cư sĩ sống được như vậy, từ đó mới chứng được tri kiến bồ đề, nghĩa là người cư sĩ sống được 4 sự thanh tịnh này thì từ trong đó, người cư sĩ sẽ phát triển những tri kiến giải thoát của họ. Đến đây, người cư sĩ còn phải tiếp tục tu tập Tứ Chánh Cần để dứt bỏ toàn bộ những điều ác, lìa xa những điều ác, từ giã, từ khước những điều ác. Nhờ Tứ Chánh Cần mà người cư sĩ xa lìa tất cả những điều ác trong tâm, cũng như trong việc làm của mình.

Kế đến phải tu tập Thiền định. Thiền định của người cư sĩ phải như thế nào? Đó là người cư sĩ phải tu Chánh niệm tỉnh giác định.

Người cư sĩ phải tu một loại định nào nữa? Phải tu Vô lậu định.

Đó là 2 loại định mà trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cần phải siêng năng, chuyên cần, nhiệt tâm tu tập để đem lại đời sống an vui và hạnh phúc, hòa thuận trong gia đình cũng như là mọi người xung quanh trong xã hội. Đến đấy Thầy sẽ dạy tiếp vì trong giáo án này người cư sĩ bắt đầu phải tu tập, học hiểu 10 điều lành mà trong kinh Phật dạy là thập thiện.

Bài giảng kỳ rồi là để cho quý thầy thông hiểu Nghiệp. Đối với đạo Phật, nghiệp được xem là tạo hóa sinh ra loài người và chúng sanh, nên nó thường sai khiến con người, vì thế con người là kẻ được thừa tự của nghiệp. Đời đời kiếp kiếp của con người tiếp nối nhau trong 6 nẻo luân hồi đau khổ đều do chính nghiệp mà ra. Biết vậy, chúng ta cần phải chấm dứt nghiệp. Chấm dứt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi, sanh tử và đau khổ. Muốn chấm dứt nghiệp thì chúng ta cần phải xem Nghiệp đang hành xử ở chỗ nào?

Trên thân chúng ta có 3 nơi mà nghiệp đang hành xử, 3 trụ sở đó là đâu? Làthân, miệng, ý của chúng ta. Hằng ngày đêm nghiệp thường đến 3 nơi này làm việc liên tục, nó làm việc gì ở đây, nó đến 3 nơi này để chỉ đạo điều khiển con người và tất cả chúng sanh làm điều thiện, hoặc điều ác. Vậy điều thiện như thế nào và điều ác như thế nào? Muốn biết được điều thiện và điều ác chúng ta cần phải tư duy, suy nghĩ. Con người sinh ra đời mang theo thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, nếu thân, khẩu, ý nghiệp thiện thì con người được hạnh phúc, ấm no, an vui, yên ổn, bằng ngược lại, thân miệng ý nghiệp ác thì phải thọ lấy bệnh tật, tai nạn, nghèo đói, phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét, sầu muộn, sợ hãi, v.v…

Như Thầy đã giảng trạch ở trên, nghiệp phân chia loài người và chúng sanh có tốt xấu, sang hèn, quyền thế, vua chúa, dân dã, quan quân, sĩ tốt, người nghèo, người giàu, người thông minh, người u tối, v.v…

Đến đây là 4 điều kiện của miệng của mình tạo thành hành động tạo nghiệp đem đến sự đau khổ cho chính đời mình. Những điều này từ cái thân của chúng ta có ba hành động thì chúng ta hãy cố gắng như Thầy đã dạy.

Trong điều kiện 1 của người cư sĩ phải thông suốt, thông hiểu những gì cần thông hiểu. Điều kiện thứ 2 là trau dồi, thì phải trau dồi từng hành động, từng ý tứ của mình. Trong mọi hành động của chúng ta như lấy của không cho, chúng ta cũng phải trau dồi hành động. Thí dụ khi mình đi ngang qua một đám dưa, mặc dù mình không tham, nhưng khi mình cúi xuống sửa giày thì người giữ dưa nghĩ mình đã hái dưa. Cho nên mình phải trau dồi những hành động kéo léo để tránh sự nghi ngờ của kẻ khác sanh tâm nghi ngờ tạo cái tội cho họ và đồng thời cũng tạo cho họ cơ hội đánh giá trị chúng ta là người không trau dồi được hành động của mình. Chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác là để có ý tứ trong khi đi kinh hành có hành động thiện hay ác đều biết rõ ràng, cho nên chúng ta phải trau dồi từng chút. Điều kiện thứ 3 là người cư sĩ phải dứt bỏ. Chúng ta biết rằng hành động giết hại chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh chúng ta phải đoạn dứt, không được cho tiếp diễn.

Như vậy chúng ta lấy ba hành động thân khẩu ý làm tiêu chuẩn trau dồi 10 điều lành.

Thân hành thì các cư sĩ phải dứt bỏ: 1.- Dứt bỏ giết hại chúng sanh. 2.- Dứt bỏ trộm cắp, không được lấy của không cho. 3.- Dứt bỏ tà dâm.

Khẩu hành thì các cư sĩ phải trau dồi: 1.- Không nói dối, phải luôn luôn nói lời chân thật, 2.- Không nói lời hai chiều, luôn luôn nói một chiều, nói đúng sự thật. 3.- Không nói lởi phủ phiếm. Nói gì phải đúng thời, đúng lý, không nói viển vông không đúng sự thật. 4.- Không nói lời hung dữ, phải luôn luôn nói lời ôn tồn, nhã nhặn, dễ thương.

Về phần ý thì thì các cư sĩ phải tu tập Định Vô Lậu, quán xét các pháp vô thường, bất tịnh, khổ, vô ngã để diệt ý tham, ý sân, ý si.

Và hằng ngày phải tu tập quán sát các pháp để thông suốt khiến cho tri kiến giải thoát của quý thầy được rộng ra, hiểu thêm, do tri kiến giải thoát mà hiểu ra các pháp vô thường, khổ, vô ngã, làm cho tâm si lần lần biến mất, và hằng ngày quý thầy còn phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, điều khiển để phá tâm si ám, buồn ngủ, lười biếng, bần thần, khó chịu. Có tu tập như vậy minh lần lần phát triển và vô minh mới bị tiêu trừ. Chính 10 điều ác này đã đưa con người đến khổ đau bất tận. chịu biết bao nhiêu gian khổ lại còn bị bịnh tật, tai ương, già chết. Thảm trạng của đời người là vậy, nhưng mấy ai đã biết. Nếu không có đức Phật mở lối dắt chúng sanh thì biết chừng nào ra khỏi sáu nẻo luân hồi đau khổ. Vì chính vô minh mê mờ không hiểu con người đã lầm chấp mọi vật trên thế gian này là thường còn, thường hằng. cho thân tâm của mình là cái ngã nên cố gắng bảo vệ, nuôi dưỡng và phục vụ nó một cách điên khùng, tạo nhiều điều độc ác, bởi vậy khi chúng ta lầm chấp cái thân này là thật, rồi những vật chung quanh như bàn ghế, nhà cửa,... tất cả đều cho là thật cho nên khi làm ra đồng nào thì chạy quanh mua sắm đầy nhà. Đó là cái sai lầm do hiểu lầm vật chất, chúng đâu có thường hằng và bản ngã của chúng ta đâu có, thế mà chúng ta cứ lấy những vật đó phục vụ cho cái thân, rồi khi vật đó mất mát thì buồn khổ, khóc than thương tiếc. Thử hỏi vật chất đó có gì tồn tại đâu mà tiếc. Hôm nay chúng ta mua vật này xài, rồi thời gian lâu sau bị cũ, bị hư, đem quăn bỏ không ai thèm lượm. Như vậy đâu có thường hằng. Nhưng lúc mới mua về nếu có đứa nhỏ nào chỉ làm trầy một chút là bị táng vào đầu liền, không nương tay và còn la mắng, coi của hơn mạng người.

Ở đây mới vừa rồi có người vì tiếc hai cái trứng gà mà treo con chó lên, cứ vài giờ đánh con chó đau kêu la thảm thương mà họ không thấy sự đau khổ của con vật vô tình ăn trộm hai cái trứng gà mà bị đòn nát thân. Thầy nghe cô Út nói họ bóp miệng chó đến độ máu chảy. Thật quá ác. Thảm trạng đó xảy ra là do người ta thấy hai cái trứng gà quá quí, nhưng nuốt qua khỏi cổ thì quí chỗ nào đâu. Thử hỏi ngày mai đi cầu ra thì còn gì đâu quả trứng gà, hay nuốt qua khỏi cổ rồi mữa ra thì còn ai dám nuốt vào nữa không. Con chó vì vô minh đi vào ổ gà, rồi ăn cắp mà bị đòn nát thân.

Chúng ta là những người tu, đừng nhìn vật chất là thường hằng. Cho nên Thầy thường nhìn những phẩm vật mà phật tử mua về cúng dường, Thầy thấy quá đau khổ. Như vừa rồi Thắng Tâm mua máy cưa về, Thầy bảo cô Út chịu lỗ chút ít, trả lại cho người ta, rồi bây giờ đem thêm về một máy nữa. Chúng ta chỉ xin họ cho chúng ta cơm ăn, họ lại không cho, mà cho chi những đồ vật nặng nề. Các con nghĩ xem cái cưa tay nhẹ nhàng, đem vào đem ra dễ dàng, chứ cưa máy nặng nề đẩy ra rồi đẩy vào để cưa mấy gốc cây là đủ mệt, thì tối ngồi thiền sao nổi. Bây giờ Minh Tâm mua cho chúng ta một máy ổn áp để khỏi cháy bóng đèn. Thật sự hết chỗ nói. Chỉ toàn vật chất đau khổ. Ngoài đời họ vui mừng khi có thêm vật chất, nhưng Thấy thấy trong chùa chỉ chật thêm thôi. Nhưng nói làm sao khi phật tử có tâm thành cúng dường mình. Thầy nói Thầy có đủ y áo để mặc, nhưng họ nói Thầy nên bỏ các y áo đó đi vì chúng thâm kim và cũ hết rồi, họ muốn cúng dương y áo khác cho Thầy. Nhưng Thầy thấy y áo vẫn còn chắc thì bỏ sao được. Họ có tiền rồi họ phí các thứ. Họ bảo mình cũng phí như họ, nhưng Thầy có đổ mồ hôi nước mắt làm ra tiền đâu mà phí, cho nên Thầy phải tiếc kiệm. Tu hành là buông xả, mà nay thêm cái này, mốt thêm cái khác thì làm sao buông xả đây?

Đó là những cái dục lạc sai biểu chúng ta cho nên chúng ta lầm chấp nó mà nuôi dưỡng nó một cách điên khùng để tạo nhiều điều ác cho chúng ta, bởi vì muốn mua sắm những vật dụng đó thì phải suy tính đủ cách, thí dụ cân đong đo thiếu, để từ đó tạo những tội lổi, gian xảo độc ác nhưng các vật đó đâu có thường hằng, rồi cũng hư hao. Cho nên phải bỏ hết, không còn để lại cái gì. Thậm chí có người còn mơ tưởng thuốc trường sanh hoặc tu hành luyện phép đểđược trường thọ sống lâu muôn ngàn tuổi. Cái thân là vô thường mà tưởng là thường nên muốn nó sống lâu muôn ngàn tuổi vì Phật nói sống nhiều kiếp được nên họ cố gắng ngồi thiền càng lâu càng tốt. Thật ra ăn mỗi ngày một bữa và hằng ngày phải đặt niệm ăn trước mặt để quán bất tịnh còn ham đau mà ăn. Cho nên đâu còn thích sống trong cuộc đời này, cho nên đủ duyên các con tu hành được chứng đạo thì mau mau nhập Niết bàn chứ con ham gì mà sống nữa, vì các con thấy Thầy ngũ trên cục đá mà ăn thì không cần ngon chỉ nuốt để sống thì con gì nữa mà ham. Còn ngoài đời người ta ăn thì phải ngon mà ngày thì ba bốn bữa, nghe có gì trong thế gian này ngon thì có tiền là chạy đi mua về ăn thưởng thức cho biết, còn người tu như mình thì đâu làm như vậy, ai cho gì ăn nấy để mà sống, chứ đâu đi tìm mỹ vị trên thế gian để ăn, cho nên không có ham thích sống chút nào hết, nhưng vì cái nhân Phật pháp còn cho nên phải duy trì tuổi thọ để hướng dẫn họ tu hành, cũng như bây giờ tuổi của Thầy đã ngoài sáu mươi (năm 1995) thì đã nằm trong hạn thượng thọ chứ đâu còn ở tuổi thọ nữa. Như cô Huệ Ân ở tuổi ngoài bảy mươi, nay đau đầu, mai nhức mình, nếu cô có sức thiền định thì cô đã bỏ cái thân này cho khỏe, sống đâu còn ích lợi cho ai nữa đâu. Tại chưa đạt được sức làm chủ nên cô còn giữ nó để thực hiện cho được. Vì vậy các con hằng ngày phải ráng cố gắng tiến tâm tu định vô lậu và tu luyện từng hơi thở, không cần kéo dài, chỉ chừng năm mười hơi thở, mà mỗi hơi thở đều có sự vận dụng cho chậm nhẹ và đồng thời hướng tâm nhắc trong 5, 10 hơi thở đó "Hơi thở hãy dừng đi, đừng thở nữa để ta làm chủ cái thân này cho được" phải dặn nó vậy, mỗi lần hít thở thì nhắc nó vậy, một ngày nào đó thì hơi thở ngưng mà mình không chết thì biết rằng mình đã làm chủ được cái chết rồi. Nhớ lời Thầy dặn mà cố gắng, cuộc đời còn không bao lâu nữa, tu tập phải đúng cách như vậy, không cần ngồi lâu, trong 5, 10 hơi thở mà nó ngưng được tức là mình đã làm chủ được hơi thở, làm chủ được sự sống.

Vạn pháp trên thế gian này đều vô thường, không có một pháp nào thường hằng. Nhờ Phật pháp chúng ta biết vạn pháp là vô thường, nhờ biết sự vô thường thì chúng ta có luyện thuốc trường sanh để kéo dài tuổi thọ nữa không? Chúng ta không làm điều đó vì đó là điều mơ tưởng của những người chấp ngã thường hằng, của những người không hiểu rõ các pháp. Chúng ta được Phật dạy cho chúng ta hiểu các pháp trên thế gian đều là vô thường, nay còn mai mất, tan hợp như đám mây lúc tan lúc hợp giữa trời, Khi chúng ta đã thấu suốt cái lý này thì chúng ta hãy tu tập Định Vô Lậu để chúng ta chứng được cái lý vô thường thì không còn dính mắc trong các pháp, không còn dính mắc trong các pháp thì tâm chúng ta vô lậu hoàn toàn. Các con không chịu tu tập cho chứng được cái lý vô thường. Chỉ cần hằng ngày đặt các pháp trrước mặt suy xét cái lý vô thường thì tâm chúng ta đạt được cái lý vô thường. Tuy bây giờ các con nghe thì hiểu được các pháp là vô thường, biết thân người là vô thường nhưng các con mới ngộ được cái lý mà chưa chứng được vô thường. Các con nói thì được, hiểu thì được nhưng chưa sống được lý vô thường cho nên các con đều bị dính mắc các pháp. Nếu chứng được lý vô thường thì các con không bị dính các pháp, cũng như Thầy rủ bỏ tất cả để ẩn bóng thì đó là Thầy đã chứng được lý vô thường. Nếu không chứng lý vô thường thì Thầy rất sợ, không biết vô rửng rồi ăn gì để sống, rồi đau ốm, bị thú dữ xé xác ăn,... bao nhiêu cái làm Thầy không thấy nó vô thường, nhưng Thầy đã chứng vô thường thì không ngại chút nào hết, mọi thứ vô thường thì chết cũng là vô thường. Vì vô minh không hiểu lý duyên hợp, Phật đã dạy chúng ta biết các pháp duyên hợp, có hợp mới thành, như máy này phải do nhiều vật hợp lại mới thành, cũng như thân người do đất nước gió lửa hợp thành hay cái nhà là do cây, cột kèo,... hợp lại thành. Cho nên có người hỏi tóc có phải là Thầy không? thì Thầy đâu phải là tóc. Thịt, xương, da, y áo cũng đâu phải là Thầy, tất cả mọi thứ trong thân Thầy không phải là Thầy, nhưng hợp chúng lại thì đó là Thầy. Đó là lý duyên hợp, mà khi biết ly duyên hợp thì chúng ta biết vạn vật trong vũ trụ này đều duyên hợp mà thành, không có một nguyên tử duy nhất của nó mà thành được. Khi hiểu được vậy, biết được vậy thì biết tất cả mọi pháp đều do duyên hợp mà thành, duyên tan mà hoại. Phật dạy cho chúng ta lý này trong 12 nhân duyên, chings do các duyên này hợp lại thành thế giới đau khổ, thế giới hữu hình, mà 1 duyên này tan hoại thì thế giới đau khổ không còn, thế giới hữu hình hoại diệt, không còn một chút gì cả, không còn gì gọi là vô hình trong đó. Con người không biết nên xây dựng thế giới linh hồn, mà đạo Phật xây dựng trên lý nhân duyên là lý duyên hợp làm cho thấy thế giới siên hình không có. Đó là điều đạo Phật xác định rất rõ ràng.

Họ vì vô minh không hiểu lý duyên hợp nên không thấy nghiệp lực của vạn pháp, không thấy nghiệp lực diễn biến trên lộ trình nhân quả, do nghiệp lực tạo ra nhân duyên của nó, trong nhân duyên này nghiệp lực thúc đẩy đi trong diễn biến của lộ trình nhân quả. Thí dụ như Thầy nghiện rượu rồi bắt đầu lần lần Thầy tạo ra nghiệp này nghiệp kia, nhân này nhân khác cho nên nó mới diễn biến trên lộ trình nhân quả. Mà diễn biến trên lộ trình nhân quả thì nó dẫn dắt con người chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác. Trong hiện kiếp như cô Diệu Hồng, cô Huệ Ân có tình thương đối với các con của các cô cũng tan hoại theo thân xác các con, nó mất tiêu hết, từng lớp từng lớp nó mất tiêu, lúc đó các con sanh ra làm một đứa bé trong môi trường nào đó thì các con đâu biết các con của mình hiện ở đâu, làm gì. Hoàn toàn đoạn lìa hết tất cả những tình cảm của các con đối với những người thân hiện giờ. Cho nên người đi tu đoạn dứt như người đã chết, do đó người ta mới thực hiện con đường giải thoát này, không đoạn dứt như vậy thì khó mà đi đến nơi đến chốn bởi vì nhân quả luôn luôn diễn biến từ kiếp này đến kiếp khác không bao giờ dứt, thân tâm này vừa tan hoại thì kế nối tiếp thân tâm khác như cây đuốc này vừa tắt thì nối tiếp cây đuốc khác, cứ mãi tiếp nối như vậy trong suốt thời gian vô tận mà không có một lộ trình nào giải thoát khỏi nó. Các con thấy chúng ta bị đi vào quỹ đạo của nhân quả nghiệp của các pháp duyên hợp nên chúng ta muốn ra không thể được, cũng như chúng ta thấy từ lâu nay mặt trời đi trong quỹ đạo của mặt trời, mà mặt trăng thì đi trong quỹ đạo của mặt trăng không bao giờ ra được. Chúng ta cũng vậy, từ thuở sanh ra cho đến nay, chúng ta đi trong quỹ đạo nhân quả, không bao giờ dứt được. Bây giờ chúng ta tu tập để dứt ra thì chúng ta phải nỗ lực, chứ tu lơ mơ thì chúng ta vẫn phải mãi mãi ở trong đó. Mỗi kiếp người sanh ra thì phải chịu bao đau khổ do quả báo những hành động thân khẩu ý của họ nghĩa là khi sanh ra mình chịu những quả báo kiếp trước của mình; những hành động trong kiếp này tạo ra những quả báo cho kiếp tới của mình, nhưng ai đâu biết được nghiệp báo mà chỉ luôn luôn than thân trách phận mình sao mình nghèo, người ta lên xe xuống ngựa con mình thì hẩm hiu sầu khổ. Những người đó không thấy nhân quả đang diễn biến trên vòng tròn nhân quả. Vì không hiểu nên người đời cứ chạy theo danh lợi và vật chất càng lúc càng tạo thêm nhiều điều ác và tội lỗi, mà người tu khi có danh lợi thì phải ẩn bóng.

Người cư sĩ muốn chấm dứt đời sống khổ đau của mình, vượt thoát khỏi cảnh sanh tử tại thế gian, tai nạn hiểm nghèo, bịnh tật nan y, những xung đột tỵ hiềm ganh ghét, sống nhỏ mọn hẹp hòi và tâm dối trá xảo quyệt,... trước tiên phải thông hiểu thập thiện, là 10 điều lành Phật đã dạy, sống ngược lại là 10 điều ác, chúng ta phải trau dồi thân tâm trong 10 điều lành này để dứt trừ 10 điều ác, nghĩa là người cư sĩ khi bắt đầu tu theo đạo Phật, thì trước tiên phải tu tập thập thiện, trau dồi đức hạnh, oai nghi tế hạnh của người cư sĩ trong 10 điều lành này. Cho nên người cư sĩ phải tìm hiểu những gì cần phải tìm hiểu, rồi trau dồi những gì mình cần phải trau dồi, đó là trau dồi thập thiện, rồi dứt bỏ những gì mình cần phải dứt bỏ. Trong sự trau dồi thì biết cái đúng cái sai. Sai thì dứt bỏ, đó là giai đoạn thứ ba dứt bỏ là mình phải dứt bỏ cái sai.Và khi đến giai đoạn thứ tư thì minh phải tu tập. Vậy thì muốn thực hiện mười điều lành này thì trước tiên mình phải tìm hiểu, sau đó mình phải trau dồi, rồi có lúc phải dứt bỏ cái gì mình phải dứt bỏ, nhưng có cái mình phải cần tu tập nó mới thực hiện được, mình mới sống được trong 10 điều lành này. Không phải ngườ icư sĩ chỉ nghe suông 10 điều lành mà phải hành, phải tập luyện, còn phải trau dồi, còn phải tu tập hằng ngày, còn phải dứt bỏ hằng ngày. Mà khi muốn dứt bỏ thì chúng ta phải tu tập pháp gì hay dứt bỏ thì phải tu tập pháp gì chứ đâu phải đơn giản, chẳng khác gì công việc của người làm mũi tên hay của người làm nghề mộc đóng bàn. Đó là trau dồi một vật dụng làm cho nó được đẹp. Chúng ta muốn trau dồi đạo đức của con người thì chúng ta phải trau dồi như thế nào để thân tâm chúng ta có đạo đức, mà chúng ta trau dồi trong 10 điều lành này rất rõ ràng chứ không phải chúng ta trau dồi theo kiểu chung chung thông thường, mà chúng ta lấy 10 điều lành này phân ra rõ ràng lấy đó trau dồi để rèn luyện, tu tập, dứt bỏ để chúng ta thực hiện được 10 điều lành của Phật dạy.

Thập thiện là con đường đưa con người đến hạnh phúc chân thật; giúp con người thoát khỏi tâm niệm thường tình thế gian. Thập thiện là con đường đạo đức nhân quả trở thành con người tốt trong xã hội hiện nay và mai sau, giúp tâm tánh con người không còn ác độc, xảo trá, gian dối, lừa bịp, biến con người trở thành điềm đạm, khiêm tốn, giản dị, có đầy đủ nhân cách làm người và còn đủ sức nhẫn nại vượt bao cam go thử thách trong cuộc đời. Thập thiện chuyển cảnh khổ, đói rét, bất toại nguyện trở thành cảnh an vui yên ấm hạnh phúc và tạo cảnh thuận duyên mãi mãi cho cuộc sông của con người. Thập thiện xây dựng cho chúng ta một cuộc sống đạo đức chơn thật, luôn luôn mọi cá nhân làm gương tốt cho người khác. Thập thiện biến cải kẻ hung ác sát nhân, trộm cướp, tà dâm trở thành người lương thiện, tâm hồn trong sạch, không còn lo sợ tù tội thế gian và ba đường ác. Thập thiện cải biến nghiệp ác thân khẩu ý trở thành nghiệp thiện thanh tịnh, không phạm phải lổi lầm lổi ác. Ngườicư sĩ không tu thập thiện ba nghiệp thân miệng và ý tạo đầy đủ 10 điều ác đó là tạo nhân quả khổ đau cho kiếp sống hiện nay và đưa đến ngày mai. Địa ngục là con đường đau khổ nhất trong 6 nẽo luân hồi, đâu phải đợi ngày mai chết mới đọa địa ngục, mà chính ngay trong cuộc sống hiện tại nếu ai đã làm đủ 10 điều ác chắc chắn họ phải chịu thọ một đời sống hoàn toàn khổ đau như trong địa ngục vậy. Các con cứ xem có một kẻnào ưa làm điều ác sát sanh, trộm cướp tà dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận và si mê có lúc nào người này được an vui đâu, dù họ ở địa vị nào trong xã hội bản thân và tâm hồn của họ vẫn đen tối và đau khổ bất tận. Trong lịch sử có nhiều gương cho chúng ta nghiệm xét.

Phật dạy chúng ta tu thập thiện cốt là để tạo phước báo được đầy đủ để cuộc sống của chúng ta hiện nay được an vui hạnh phúc và đời sau còn được thỏa mãn mọi nhu cầu trong đời sống dù bất cứ sanh nơi đâu, vì đã đủ duyên được nghe, đọc thấy hiểu biết lại được tu tập đó là một phước báu lớn của kiếp làm người. Vậy chúng ta đã được biết thập thiện đừng để luống một cuộc đời đen tối và đau khổ. Được kho báu đạo đức nhân quả như thế mà không biết dùng, đành để một cuộc đời nghèo khổ đạo đức, lang thang trong sáu nẽo luân hồi, khổ đau bất tận.

B.- NỘI DUNG THẬP THIỆN

Như trên Thầy đã dạy người nào muốn thoát khỏi thân bệnh, tâm bệnh, tai nạn này hoặc tai nạn khác và cầu mong gia đình được an vui đầm ấm, con cái hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận sống trong tình nghĩa yêu thương mặn nồng tràn đầy hạnh phúc thì hãy tu tập thập thiện. Thập thiện là 10 điều lành do thân, miệng, ý hành động.

1. Thân có 3 nghiệp thiện, ngược lại là 3 nghiệp ác.

Không giết hại sanh

Không trộm cắp

Không tà dâm

2. Khẩu có 4 nghiệp thiện, ngược lại là 4 nghiệp ác.

Không nói dối

Không nói thêu dệt

Không nói 2 chiều

Không nói lời hung ác

3. Ý có 3 nghiệp thiện, ngược lại là 3 nghiệp ác.

Không tham lam

Không sân hận

Không si mê

Bây giờ chúng ta giải thích từng phần của Thập thiện.

Phần 1: Thân

1.- Tai hại của làm điều ác

Thân chúng ta có 3 hành động ác:giết hại chúng sanh, trộm cắp, tà dâm.

Giết hại chúng sanh

Hành động thứ nhất là giết hại chúng sinh như tay chân của mình đánh đập hoặc làm đau khổ chúng sanh là do hành động của thân. Trên đường đi mà chúng ta vô tình đi không nhìn xuống đất thì chúng ta sẽ đạp phải những loài côn trùng, dế hoặc những loài vật nhỏở mặt đất thì chúng ta cũng vô tình mắc vào tội sát chúng sanh, huống hồ là chúng ta cố ý bắt những con vật giết đi, rồi làm thịt để biến nó thành những thực phẩm nuôi cơ thể chúng ta. Đó là những điều rất là ác. Cho nên cái thân của chúng ta có những hành động làm ác nhiều lắm.

Đó là hành động tạo thành cái nghiệp đau khổ, cái nghiệp giết chóc cho nên đạo Phật dạy chúng ta khi thọ thực thì tâm từ bi của chúng ta biến mãn khắp cùng chúng sanh, nghĩa là lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh. Khi miếng ăn là vật để nuôi thân chúng ta sống, thế mà trước khi ăn chúng ta đã thấy, nghe và nghi. Cái thấy, nghe và nghi đó giúp cho chúng ta trau dồi được tâm từ bi, tức là lòng thương yêu của chúng ta đối với muôn loài. Người đời không hiểu, họ ăn để sống, thế mà họ nghĩ ăn để cho sức khỏe họ được đầy đủ, dồi dào nên họ không nghĩ đến sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh trong sự ăn uống của họ. Vì thế thân họ hay làm những điều ác để biến chúng sanh thành những thực phẩm cho họ ăn. Do tâm ác độc này, từ đó họ tạo ra nhiều sự đau khổ diễn biến trong cuộc đời của họ.

Trộm cắp

Cái thứ hai cũng do hành động của thân, đó là lấy của không cho, tức là trộm cắp. Có người muốn ở không mà ăn, muốn rảnh rang mà sướng, cho nên họ nghĩ rằng tham lam lấy của người khác thì sẽ có thêm cho mình cái này cái nọ cái kia mà mình không phải ra sức lao động. Vì thế mới có trộm cắp tham lam do thân chúng ta làm. Ví như khi tâm chúng ta ham ăn một cái bánh, cái kẹo hoặc là một cái trái cây do chúng ta không dừng được, không ngăn được, không xả bỏ được cái ý đó nên thân mới hành động lấy cái bánh, mới trộm trái cây mà ăn. Đó là thuộc về loại trộm cắp. Do hành động trộm cắp đó của thân sẽ tạo cho chúng ta nghèo khổ và đói rách sau này.

Thân hành thứ 2 của chúng ta là không tham lam, không lấy trộm, không lấy của không cho, nhất định dù một vật nhỏ nhất chúng ta cũng không lấy.

Tà dâm

Thân chúng ta còn hành động một điều nữa là tà dâm. Đối với người cư sĩ thì Phật không cấm sinh lý con người, nhưng Phật chỉ dạy người đã có gia đình thì đừng có dan díu với người này người kia để tạo cho gia đình mình không yên ổn. Không có người đàn ông nào khi biết vợ mình tà dâm với người khác mà không ghen. Ngược lại khi người chồng của mình tà dâm với người khác mà người vợ biết lại không ghen. Mà sự ghen tuông là nỗi đau khổ có thể đi đến cái tai hại rất lớn là giết người.

Thân hành thứ 3 đối với người cư sĩ thì chúng ta không nên dan díu dâm dục với người làm cho gia đình tan nát, lòng trung nghĩa đối với nhau không còn nữa. Bởi vậy chúng ta là con người chúng ta phải tránh những hành động theo cách này để tạo cho gia đình được đầm ấm, hạnh phúc an vui. Còn riêng đối với tu sĩ đã xuất gia thì hoàn toàn phải đoạn dứt tâm dâm dục. Như Thầy đã dạy, tâm dâm dục là con đường sinh tử của con người. Ở đây, trong bài này, Thầy dạy cho người cư sĩ mới bước đến đạo Phật cho nên giữ gìn nghiêm túc tránh sự tà dâm để tạo cho gia đình mình một sự hòa thuận yên vui. Cần phải suy ngẫm cho kỹ điều này không khéo vì tâm sắc dục mà chúng ta tạo cảnh khổ cho bản thân mình và cho những người xung quanh mình.

Tóm lại

Vì thế thân có 3 hành động người cư sĩ chúng ta cần phải lưu ý, mỗi hành động chúng ta làm ra do thân chúng ta phải hiểu, phải biết thương yêu chúng sanh, đừng làm đau khổ, đừng đánh đập đau khổ chúng sanh.

Như vừa rồi có một con chó ở xóm này, nó chỉ ăn 2 cái trứng gà của một người, người chủ bắt nó trói lại rồi treo lên, cứ khoảng độ 2, 3 giờ đồng hồ lại đánh cho con chó 1 chập và cứ như vậy mà suốt ngày hôm qua con chó mỗi lần bị đánh đập là kêu la đau khổ. Nhưng người đời người tưởng như vậy là người ta đã nư cái giận và làm cho con chó không phạm phải điều đó nữa. Nhưng thiết nghĩ chúng ta nuôi dưỡng chúng, không cung cấp cho chúng đầy đủ cái ăn, chúng đói khát mới đi ăn trộm ăn cắp để mà sống, thì lỗi của người chủ chứ không phải lỗi của con chó, thế mà người chủ lại hành hạ con chó rất đau khổ.

Cũng như chúng ta trong khi đang khi ngồi trong thất tu hành, nghe tiếng con ếch con nhái bị con rắn cắn, tiếng kêu cầu cứu rất đau khổ, có thể chúng ta thản nhiên ngồi tu hành nhiếp tâm không lưu ý, nhưng đối với người tu sĩ đạo Phật không thể ngồi thiền trong 1 ngày mà thành đạo được, mà hãy thực hiện tâm từ bi. Khi nghe một chúng sinh kêu cứu, chúng ta nên vội tháo chân đi ra ngoài làm động cho con nhái thoát ra khỏi miệng rắn. Khi cứu một con vật thoát khỏi sự đau khổ, sự chết chóc là chúng ta thấy an vui trong lòng hơn là chúng ta ngồi thiền trong 1 giờ hoặc 2 giờ. Lòng thương xót chúng sanh khiến chúng ta không nỡ nghe tiếng kêu cầu cứu của con vật mà chúng ta vô tình. Cũng như chúng ta nghe 2 con mèo cắn lộn nhau, chúng ta biết chúng là con vật không trí tuệ, không hiểu được Phật pháp cho nên thường tranh nhau ăn, hoặc là tranh nhau điều gì đó chúng mới cắn lộn nhau, gây thương tích đau khổ cho nhau. Hay khi nghe con vật khác không đủ sức chống cự, kêu cầu cứu mà chúng ta nỡ đành tâm để cho chúng đau khổ. Như vừa rồi Thầy và Minh Tông ngồi trong thất đang hỏi cách thức tu hành thì nghe một bầy chó cắn hiếp con chó khác, tiếng kêu la của con chó kia làm Thầy không yên, Thầy vội chạy ra và đuổi bầy chó, cứu con chó đang bị chúng nỗ lực cắn xé.

Người tu sĩ chúng ta cần phải trau dồi lòng thương yêu của chúng ta trước muôn loài. Bất kỳ trong giờ nào, phút nào, trước cái đau khổ, trước cái chết của một chúng sanh, chúng ta đừng vì công việc của mình mà đành tâm để chúng sanh bị đau khổ, bị giết hại. Thân hành của chúng ta không những không giết hại mà còn nỗ lực giúp cho chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ và chết chóc.

2.- Lợi ích của làm điều lành

a.- Không sát sanh

Tại sao hành thập thiện lại tạo cho con người thoát khỏi bệnh tật, tai nạn, giận hờn, phiền não, đau khổ và yểu tử?

Như trên thầy đã giảng, con người do nghiệp sinh ra mà cũng chính con người tạo ra nghiệp để rồi con người chịu lấy những hậu quả của nghiệp. Nếu nghiệp ác tạo ra thì họ phải chịu lấy những sự khổ đau tai ương hoạn nạn hoặc yểu tử chia lìa, bệnh và chết. Nếu Nghiệp thiện được tạo ra thì họ được hưởng những hạnh phúc an vui.

Thập thiện tạo ra nghiệp lành. Vì thế chúng ta cần phải tư duy suy nghĩ chín chắn, tại sao không giết hại chúng sinh? Điều quả quyết là vạn vật sanh ra trong vũ trụ này không một loài vật nào không sợ chết, không sợ đau khổ và bệnh tật. Chẳng có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết, khỏi bệnh tật, tai nạn. Người đời thường nói thà nghèo mạnh giỏi còn hơn giàu sang đau ốm. Câu tục ngữ dân tộc Việt Nam ta: “Ăn được, ngủ được là tiên”. Ở đời không ân huệ nào lớn hơn ân huệ tha mạng chết. Loài vật sắp bị giết mà được tha thì nỗi lòng vui mừng không tả được. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: "Như khi chúng ta thả một con chim sắp bị cắt cổ nhổ lông, thả một con cá sắp đem chặt kỳ đánh vảy. Chim được sống vui mừng bay nhảy, cũng như cá khỏi chết hớn hở lội bơi.Thế mới rõ thoát nạn giết hại, chúng sanh nào không khấp khởi vui mừng. Nên chi không giết hại chúng sanh mà lại còn phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong thập thiện".

Suy bụng mình nghĩ loài vật, chúng ta có nỡ lòng nào giết hại chúng sanh chăng? Chúng ta còn ham sống sợ chết, lẽ đâu lại cướp sự sống của muôn loài. Đừng mượn câu: “Nhơn dưỡng vật, vật dưỡng nhơn” mà hiểu nghĩa cạn cợt để đôi tay của chúng ta vấy máu chúng sanh, để tâm hồn chúng ta ngày càng hung ác. Chúng sanh dẫy dụa trên thớt, dưới dao, tiếng kêu la thương đau quằn quại, tiếng kêu chẳng dứt; nhìn lại chúng ta lăn lộn trên giường bệnh trong cơn bệnh ngặt nghèo, cơ thể rã rời đau đớn vô kể. Xét cái đau của thân mình, thương cái đau của chúng sanh chẳng khác nhau. Vậy mà chúng ta nỡ lòng nào giêt hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, sát hại chúng sanh.

Khi đã hiểu thấu pháp môn thập thiện là pháp môn tạo ra nghiệp lành đưa chúng ta thoát cảnh lầm than của nghiệp ác. Cải tạo đời sống của chúng ta, từng hành động biết yêu thương muôn loài vì thế chúng ta đâu còn nhẫn tâm làm đau khổ chúng sinh, giết hại chúng sinh và ăn thịt chúng sinh được nữa. Muốn không sát hại chúng sinh chúng ta hãy chế ngự và khắc phục tâm mình đừng chạy theo những thực phẩm ăn ngon khoái khẩu mà tạo tội lỗi ác độc máu đổ thịt rơi như núi như biển, mà chẳng lấp đầy lỗ miệng của chúng ta. Thấu hiểu sự đau khổ của muôn người, muôn vật như chính sự đau khổ trong thân tâm mình, thì chúng ta phải cố gắng từng phút từng giây tỉnh thức để tu tập và tránh khỏi vô tình giết hại chúng sanh. Vì sát sanh là cái nhân tạo ra nghiệp bệnh khổ, tử vong, tai nạn, bệnh tử. Nợ máu xương này phải đền bù dù trốn đâu cũng không khỏi.

Kinh thập thiện nghiệp đạo dạy: Nếu ai không giết hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh thì sẽ được 10 điều lợi ích:

1. Tất cả chúng sanh đều kính mến.

2. Lòng từ bi biến mãn khắp chúng sanh.

3. Trừ sạch thói quen giận hờn.

4. Thân thể thường được mạnh khỏe.

5. Tuổi thọ được lâu dài.

6. Thường được người lành giúp đỡ.

7. Ngủ ngon giấc không ác mộng.

8. Trừ được sự thù oán

9. Khỏi bị đọa vào 3 đường ác.

10. Sau khi chết được sanh vào cõi hạnh phúc an vui.

Quả thực kẻ nào biết sự đau khổ chúng sanh như chính sự đau khổ cho mình thì người ấy không bao giờ giết hại, làm đau khổ và ăn thịt chúng sanh nữa. Thân người ấy sẽ ít bệnh, ít tai nạn, sống trường thọ, ít khổ đau.

Pháp môn thập thiện là lộ trình đưa con người đến hạnh phúc chân thật của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi xã hội. Nếu ai hằng ngày siêng năng tu tập trau dồi thập thiện thì ngay trong đời hiện tại thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được thơ thới nhẹ nhàng an lạc, tâm hồn lúc nào cũng an vui, thanh thản. Người cư sĩ đệ tử Phật phải thực hiện tu tập và sống cho được đúng 10 điều lành này. Vì thập thiện là giáo pháp căn bản đạo đức nhân quả của người xuất gia cũng như người tại gia. Không thể bỏ qua, đừng xem nó tầm thường. Thập thiện xây dựng đạo đức cho mỗi người và cũng chính từ đó xã hội mới đi đến chỗ tốt đẹp thanh bình và an lạc.

Muốn cầu đạo giải thoát ra khỏi nhà sanh tử thì phải hết sức thiết tha tu tập nhiệt tình, nhiệt tâm, trau dồi thân tâm sống đúng 10 điều lành này thì kết quả an vui hạnh phúc đến với quý vị ngay đây, tức thời.

b.- Không trộm cắp

Hành động của thân kế tiếp là không trộm cắp. Trộm cắp là do lòng tham lam, làm ít mà muốn được nhiều, muốnkhông làm mà có ăn,muốn không đổ mồ hôi mà có của cải, tài sản. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: "Người không gian tham trộm cắp là người yêu chuộng sự công bằng, thường trọng của của kẻ khác như trọng của của mình". Biết rằng tiền bạc là huyết mạch của con người nên ai ai cũng có tiền bạc mới có thể sắm ăn, sắm mặc, chỗ ở và tất cả nhu cầu cho cuộc sống.

Ta thường thấy nhiều người bị trộm cắp của cải thất vọng đến đỗi phải quyên sinh. Như vậy ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành, vì của cải của mình mất mình cũng biết tiếc, biết buồn khổ rầu rĩ, thì của cải người mất, người cũng biết than, biết sầu khổ. Vả lại chúng ta cũng phải hiểu, của phi nghĩa có giàu đâu, vào cửa trước ra cửa sau, tiêu hao như nước soi cát chảy, manh tâm giành giật cho lắm chết rồi cũng hai bàn tay không. Người không trộm cắp thì cuộc sống luôn được an vui, tinh thần không hồi hộp vì không sợ pháp luật, chẳng lo ngại ai thù oán.

Khi trong nhà, người này không trộm cắp của người kia thì mọi người đều sống hòa thuận, thương mến, còn ngược lại thì bất hòa, sống nghi kị lẫn nhau khiến cho gia đình sống như trong địa ngục. Người này để ý người kia vì thế lòng thương yêu tổn giảm, không còn nữa.

Ngoài xã hội người này không lấy của người kia thì nhà nhà khỏi đóng cửa, ra đường không lượm của rơi, giữa xã hội loài người đều là lương dân thì thế giới đâu còn chiến tranh tàn khốc.

Trộm cắp là một tánh xấu đời đời kiếp kiếp phải chịu cảnh nghèo đói, tai ương, vì nhân trộm cắp thì quả là nghèo đói. Nghiệp tham lam trộm cắp thì đời đời nghèo cùng khốn khổ. Biết như vậy chúng ta phải quyết tâm không bao giờ khởi ý trộm cắp tham lam của ai, dù trái cà, trái bí, cây đinh, sợi kẽm; nói cho cùng từ bụi đậu phộng không nhổ cắp đến bụi măng tre cũng không hề cắt trộm. Ta không bao giờ muốn bị mất của thì há nào lại lấy của của kẻ khác cho đành.

Kinh thập thiện dạy người không trộm cắp mà còn bố thí cho kẻ khác, giúp đỡ cho kẻ đang nghèo đói, thì sẽ được 10 quả báo phước lành:

1. Tiền của dư giả, không bị vua quan giặc giã cướp mất, không bị nạt lụt trôi lửa cháy và con cái không phá tán.

2. Được nhiều người kính mến và tin cậy.

3. Không bị ai lừa dối, gạt gẫm.

4. Xa gần đều khen ngợi, lòng ngay thẳng từ thiện.

5. Luôn lòng được an ổn không sợ mất mát hư hao.

6. Tiếng lành đồn xa.

7. Ở chỗ đông người không lòng khiếp đảm.

8. Tiền của, tánh mạng, nhan sắc, sức khỏe luôn được đầy đủ.

9. Tâm thường sẵn lòng bố thí cho người bất hạnh.

10. Khi chết thường sinh vào cõi an lành hạnh phúc.

Đó là hành động không tham lam sẽ được 10 điều lành như vậy.

Trong cuộc đời có hai góc độ tham lam: có người tham tốt mà có người tham xấu. Tham tốt như thế nào? Cố gắng lấy mồ hôi nước mắt của mình làm ra của cải, làm ra cho nhiều tiền nhiều bạc, đó là sự tham tốt. Còn có người tham xấu là lén trộm cắp của người khác về làm của cải của mình đó là lòng tham xấu. Người tham tốt thì vất vả suốt đời quần quật lao động bằng tay chân hoặc bằng trí óc. Người tham xấu thì chờ lúckẻ khác sơ hở mà lấy trộm của người. Người tham xấu bằng trí thì suy tư bằng những thủ đoạn gian ác, lấy trộm của người mà không bị pháp luật bắt tội trộm cắp.

Cho nên đối với hành động tham lam, hành động trộm cắp này nhiều hình thức chứ không phải một hình thức. Nhưng dù hình thức nào, dù là thiện thì cũng vẫnđem đến sự khổ đau cho bản thân của mình. Như người tham làm ra của nhiều thì đày ải thân tâm của mình phải suy tư tính toán làm cách nào, rồi phải chạy đông chạy tây giao thiệp bằng cách này bằng cách khác để có được nhiều tiền nhiều của, vẫn là đau khổ. Người đời sinh ra mang sẳn lòng tham thì chúng ta biết làm sao hơn. Nhưng chúng ta chọn lấy cái tham đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt của mình thì cái tham đó rất là quý. Còn cái tham mà không có mồ hôi nước mắt của mình, là tham xấu, chúng ta nên tránh.

Nhưng chúng ta nên nghĩ rằng có nhiều người tiền bạc rất nhiều mà vẫn còn tham tiền tham bạc, ngồi trên đống tiền cao như núi mà ăn chẳng yên, ngủ chẳng yên, thế mà người ta không thấy cái nỗi khổ đó. Mặc dù việc làm ra của cảirất là lương thiện, không có manh tâm gian ác trong đó, thế mà khi đã giàu có, họ không dám buông xả công việc để họ được 1 giờ một phút tâm hồn của họ sống an vui. Dù họ có cố gắng làm cho nhiều, tham cho nhiều, chất cho nhiều tiền bạc nhưng phỏng chừng chết đi, họ có giữ được đồng nào, có đem theo được đồng nào.

Khi có đủ phước tạo được tiền bạc nhiều chắc chắn chúng ta sẽ không xài hết được thì nên nhớ xung quanh chúng ta có nhiều người bất hạnh đang nghèo đói không cơm ăn áo mặc vì họ là người đã tạo nhiều nghiệp ác. Do vậy chúng ta hãy bố thí cho họ, giúp cho họ. Sự giúp và bố thí này sẽ giúp cho đời sống chúng ta hiện tại và mai sau, chuyển hóa được nghiệp khổ của chúng ta.

Thầy đem một ví dụ, như trong hiện tại Thầy có 1 người đệ tử. Đó là chú Chơn Tâm, chú từ một giáo viên cấp 2, tiền lương rất túng thiếu không đủ cung cấp cho gia đình sống trong cuộc sống hiện giờ. Thế mà phước chú đến, chú chuyển nghề giáo viên thành nghề mua bán vàng bạc đá quý, chỉ trong vòng 2 năm chú đã có một số tiền rất lớn. Chú thường về đây để hỏi Thầy pháp tu hành, Thầy khuyên chú nên dùng phần lớn tiền kiếm được đem ra bố thí và làm những việc lành. Chú nghe lời Thầy, lúc nào chú cũng đến thăm những trại mồ côi, những trại cùi, trại dưỡng lão, những nơi nghèo đói để bố thí. Trên bước đường làm ăn không phải lúc nào cũng suôn sẻ đâu. Vì thế chú gặp tai nạn, khi xảy ra tai nạn, chánh quyền xét thấy người này làm có tiền luôn giúp xã hội chứ không có lo lắng cho cá nhân mình. Cho nên Nhà nước thấy chú là 1 người rất tốt vì vậy Chánh quyền không bỏ tù chú. Nếu chú chỉ tích lũy sự có tiền này và chỉ lo riêng cho cá nhân mình, chắc chắn chú không thoát được tù tội, do vì người ta xét thấy hành động làm ra tiền mà không phục vụ cho riêng cá nhân gia đình mình lại đem giúp xã hội, người ta nghĩ người này làm ra tiền mà rất tốt. Trong 1 chuyến xe mà chú chở 100 ký vàng; 5, 3 chục ký lô vàng thì tâm rất hồi hộp lo sợ, chứ không như chúng ta không có tiền bạc. Vì thế mà Thầy thiết nghĩ người giàu tuy ngồi trên đống vàng mà rất đau khổ. Sau này Thầy khuyên chú nên nghỉbuôn bán vàng đi, đừng nên làm nữa, có bao nhiêu tiền bố thí cho người, chỉ dành dụm đủ sống mà thôi. Từ ngày đó chú nghe lời Thầy chú rất là an ổn không còn lo lắng, không còn sợ hãi nữa.

Nhưng tâm con người nó không phải đứng yên một chỗ, tiền bạc là sự cám dỗ rất lớn, làm chúng ta khó mà giữ tâm mình yên ổn như những bậc tu hành. Cho nên càng thấy sự làm ăn khá giả lên thì nên càng dè dặt, đời chúng ta coi tốt vậy chứ chưa được yên ổn cho đâu. Tại sao vậy? Đức Phật đã xác định tiền bạc châu báu là rắn độc. Khi trong tay chúng ta có nó, mặc dù nó không phải là tiền bạc phi nghĩa mà chính mồ hôi chúng ta, nhưng nghiệp quả khi có tiền bạc vẫn đem đến cho chúng ta nhiều tai nạn. Vì vậy ở đây Thầy nhắc các cư sĩ khi các con làm có tiền bạc nhớ đến những nỗi bất hạnh của người khác. Vì phước của mọi người cộng lại lớn hơn phước của chúng ta. Chúng ta chỉ có 1 cá nhân cho nên phước không thể nào có đủđể thọ hưởng sự giàu sang đó.

Cũng như một nhà vua khi ngài lãnh đạo trong một nước, ngài giàu sang, tiền bạc rất nhiều. Thế cái phước nhà vua đó được hưởng bao lâu? Nếu cái phước đó dài thì được 10 năm, 2 chục năm, nếu cái phước ngắn vị vua đó vừa lên ngôi trong 5, 3 hôm thì bị truất phế hoặc là bị giết. Thường chúng ta thấy phước của cá nhân rất nhỏ mà cái phước của mọi người rất lớn. Nếu vị vua lên nắm quyền giàu sang mà biết bố thí giúp cho dân nghèo thì nhà vua chắc chắn sẽ được ở ngai vàng bền lâu, còn nếu nhà vua lên chỉ hoang phí ăn chơi thì Thầy nghĩ trong lịch sử chứng minh điều đó rất rõ ràng, nhà vua đó ở ngôi không lâu.

Cũng như 1 người giàu có mà có lòng từ thiện thì sự giàu có đó sẽ được giữ vững không phải trong một đời của họ mà cả đến đời con cái của họ. Nếu sự giàu có đó mà chỉ một mình họ hưởng, thì sự giàu có đó làm cho phước báo của người đó tiêu mòn rất nhanh. Từ đó trong một đời người của họ chưa hưởng trọn mà của cải đã bị nước lửa, bị giặc giã cướp bóc làm cho họ trở thành 2 bàn tay trắng, nghèo đói như người khác.

Vì thế dù không tham lam trộm cắp mà khi có đủ duyên, có làm ra tiền ra bạc thì nhớ phước báo của mọi người lúc nào cũng lớn, phước của mình là nhỏ vì vậy mình cố gắng san sẻ cho những người bất hạnh trong xã hội, nhờ đó của cải tài sản của mình được bảo vệ yên ổn không hao mất. Nhớ những lời này là những kinh nghiệm trong đời Thầy, Thầy đã từng dạy một người cư sĩ và thường nhắc nhở nhiều người nữa về lòng bố thí nên cuộc sống của nhiều người cư sĩ được an vui hạnh phúc. Họ đã được sung sướng thoát được cảnh tù tội, thoát khỏi cảnh ghen ghét của người khác.

c.- Không tà dâm.

Phàm con người sanh ra đều do dâm dục, nhưng dâm dục là con đường sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Phật dạy: Lòng dâm không trừ thì không ra khỏi trần lao.

Muốn giải thoát mà không đoạn lòng dâm dục thì dù tu muôn ngàn kiếp cũng không bao giờ giải thoát được. Kinh thập thiện dạy người cư sĩ phải ngăn ngừa tà dâm chứ chưa phải tu rốt ráo như của bậc xuất gia. Hành động thiện của người cư sĩ đối với vấn đề sinh lý không cần phải đoạn trừ, chỉ đừng tà dâm, tức là không chung chạ ngoại tình với người khác, không phải người phối ngẩu, nhờ vậy cuộc sống chung của gia đình mới được an vui hạnh phúc, gia đình đầm ấm, làm ăn phát đạt. Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn.

Sự dâm dục thái quá đưa con người đi đến chỗ bệnh tật nan y, thọ mạng không được lâu dài.

Kinh Thập thiện dạy người không tà dâm là người trung tính giữ gìn tiết hạnh được 4 điều lợi:

1. Sáu căn đều được vẹn toàn. Nghĩa là người tà dâm thì 6 căn của họ khó được vẹn toàn, hoặc bị đui bị điếc, hoặc thân bị tật nguyền, hoặc là mắt, tai, lưỡi bất toàn. Nhiều khi có 6 căn mà lỡ 2 mắt đui thì đó là một điều bất hạnh cho chúng ta, lỡ 2 tai mà điếc thì đó là cũng một điều bất hạnh. Cho nên mỗi 6 căn phải được trọn vẹn đầy đủ. Tất cả những điều kiện sống họ giữ gìn được cái tâm đừng tà dâm thì họ sẽ có 6 căn được trọn vẹn.

2. Đoạn trừ hết thảy phiền não uế nhiễm. Người mà không có tà dâm thì họ dứt trừ tất cả những phiền não trong gia đình họ.

3. Ở đời được mọi người khen tiếng tốt.

4. Vợ con không ai dám xâm phạm.

***