• amthat1
  • tinhtoa2
  • vandaptusinh
  • lailamtoduong1
  • ThayTL
  • lopbatchanhdao
  • phattuvandao1
  • huongdantusinh
  • amthat2
  • phattuvandao3
  • amthat3
  • tinhtoa1
  • thanhanhniem1
  • tamthuphattu
  • daytusi
  • thanhanhniem2
  • vandao2
  • toduongtuyetson
  • benthayhocdao
  • chanhungphatgiao
  • thanhanhniem3
  • ttl3
  • quetsan
  • khatthuc1
  • ttl1
  • tranhducphat
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc
  • Tranh đức Phật
JGLOBAL_PRINT

Gương Đồng Trong Tu Viện (tiếp 2)

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT

Bài đọc thêm 2

THẦY THIỆN THUẬN và MINH TÔNG

TRÌNH BÀY SỰ TU TẬP

LỜI THẦY THÔNG LẠC

Ở trong Tu viện của chúng ta, có những sự việc vừa xảy ra, nên bây giờ Thầy xin nhắc lại.

Thầy Thiện Thuận không phải là người tu chơi, thầy là người quyết đem hết sức của mình để làm chủ sanh tử, chấm dứt sự đau khổ trong đời sống thế gian này, cho nên khi về đây, thầy Thiện Thuận hết sức năng nổ tu hành.

Qua những lần trình bày với Thầy, Thầy thấy thầy Thiện Thuận là một người nhiệt tâm tu hành, tuy rằng một lần học hạ ở đây biết Thầy, được Thầy chỉ dạy pháp hướng tâm tác ý, rồi sau đó về trụ xứ thầy nỗ lực tự tu tập lấy, không được ở gần Thầy. Nhưng dù xa Thầy, thầy thực hành và rất mừng là thầy đã thấy pháp tác ý có hiệu quả.Thầy tác ý hướng tâm tới đâu thì có kết quả tới đó, thầy bảo các hành ngưng là nó ngưng, thầy bảo như thế nào nó nghe như thế nấy. Cho nên với nhiệt tâm tu hành như vậy mà được gặp pháp tác ý hướng tâm thì chắc chắn phải có sự hiệu quả của nó rồi.

Nhưng vì Thầy công việc rất là nhiều, không có thời gian để kiểm tra thầy Thiện Thuận chặt chẽ. Cho nên trong đêm vừa qua, thầy Thiện Thuận có một sự kiện xảy ra, bây giờ xin thầy Thiện Thuận trình bày sự việc đó để cho quý thầy khác rút kinh nghiệm trên bước đường tu tập của mình, để tránh khỏi những hậu quả không hay cho bước đường tu. Thân tâm chúng ta là bộ máy rất quý, nếu lỡ cái bộ máy đó hư hoại thì khó mà sửa. Một máy móc nào, trong các máy vật chất hiện tại này, cũng có thể sửa chữa được, nhưng về con người, nhất là hệ thần kinh bị trở ngại hư hỏng, thì chắc chắn rất là khó, nếu bị trở ngại nặng thì kể nhưsuốt đời bị tàn tật, trở thành người điên khùng, không thể nào cứu chữa được.

Trong đất nước của chúng ta hiện giờ có nhiều người tu sai, bị trở ngại nhưng bản thân và người thân của họâm thầm chịu đựng trong đau khổ. Biết con mình tu sai, bây giờ nó bị điên thì họ chẳng biết ai chịu trách nhiệm, họ chẳng đổ thừa ai được hết. Nhưng trách nhiệm đó là của ai? Thầy xin báo rằng trách nhiệm đó là của những người tu hành chưa tới, chỉ lấy Phật pháp hoặc lấy những điều sai lệch, rồi tự nghĩ ra để dạy người, đưa người ta đi đến chỗ đau khổ như vậy. Cái lỗi đó là lỗi của các bậc tà sư ngoại đạo, không am hiểu được Phật pháp, không am hiểu được pháp của mình, chỉ tưởng tượng qua kiến giải rồi dạy người, khiến cho người ta tu học, để đến nổi tạo nên những con người dở chết, dở sống. Những người dạy đạo không tự mình tu cho đạt kết quả đó đã tạo ra con đường đi để cho bao nhiêu người mất cả thời gian, bỏ vợ,  bỏ con rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, điên chẳng ra điên, khùng chẳng ra khùng, ương ương gàn gàn, đụng đâu cũng bài bác, đụng đâu cũng kích bác người ta, thì đó là cái tai họa rất lớn cho đạo Phật hiện giờ. Chúng ta chẳng biết làm sao, chỉ còn biết âm thầm thương xót cho những kẻ vô tình, đã quyết đi tu mà sa vào con đường lạc nẽo...

Bây giờ Thầy xin nhường lời lại cho thầy Thiện Thuận.

Thầy Thiện Thuận trình bày

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy Bổn Sư, Viện Chủ Tu Viện Chơn Như!

Kính thưa quý thầy và toàn thể đại chúng!

Con là Tỳ kheo Thích Thiện Thuận, trụ trì chùa Hiệp Thành, ở xã Tân Hiệp, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Trong mùa an cư năm nay, con đã đủ duyên lành về đây tu học thiền định với ThầyViện Chủ, vì mùa hạ năm nay là mùa hạ cuối cùng để Thầy đi ẩn bóng. Cho nên chúng con hết sức cố gắng năng nổ tu tập, để đền đáp lại công ơn trời biển của Thầy.

Hôm nay nhân ngày ThầyViện chủ thuyết giảng đạo, được sự chấp thuận của Thầy Viện chủ cho phép con được trình bày lên đại chúng về kết quả của con tu tập trong một tháng qua và cũng kể lại phương pháp trị liệu tẩu hỏa nhập ma của Thầy Viện chủ mà vừa qua con đã bị. Trong kinh Lăng Nghiêm cũng có nói về Ngũ ấm ma, đồng thời có nói những nguyên nhân nào mà bị xảy ra hiện tượng này, nhưng đây là trường hợp thực tế đã xẩy ra cho con, con xin được trình bày để chúng ta rút kinh nghiệm tu tập và giúp người tu sau này tránh được tình trạng nguy hiểm ấy.

Bây giờ chúng tôi xin nói về kết quả tu trong thời gian 33 ngày qua.

Hiện giờ đây, cái thứ nhất là chúng tôi coi như đã làm chủ được hơi thở, nghĩa là tịnh chỉ được hơi thở, muốn hơi thở chậm thì nó chậm, muốn hơi thở nhẹ thì nó nhẹ, mà muốn hơi thở ngưng là nó ngưng. Cái thứ 2 là chúng tôi tịnh chỉ được các hành, nghĩa là muốn cho hành hoạt động là cho, mà muốn hànhngưng vận động là ngưng. Cái thứ 3 là làm chủ được giấc ngủ. Nghĩa là hiện giờ muốn ngủ thì chỉ cần ám thị thôi. Tại lý do nào biểu ngủ là nó ngủ? Nguyên nhân là cái ý thức đang canh giữ hơi thở nên ám thị cho thân ngủ thì thân ngủ thôi. Do ý thức của chúng ta canh giữ hơi thở nên nó thức hoài, muốn thức giờ nào thì thức thôi, và đồng thời trong khi ngủ không có chiêm bao.

Và xin nói luôn cái trạng thái hiện giờ để cho chúng ta có kinh nghiệm trước.

Sau khi dừng các hành thì có cảm giác lạnh toàn thân. Sau cơn lạnh đó nó ấm trở lại. Nhiều đợt ngồi thiền nghiêm túc thì nó có một trận đau nhức thân trở lại, nghĩa là phá cái thọ lần thứ 2. Bởi vì trước kia, sau khi mình bước vào đoạn Nhị thiền lên Tam thiền là mình phá cái thọ trước, mình chấp nhận cái đau, trận đau dữ tợn trước, cái đó là cái đau. Còn qua trận thứ 2 nữa, đó là sau khi mình đã qua được những cơn lạnh, nóng xong thì đến một cơn đau nhức thứ 2 nữa. Nghĩa là tê nhức, nó cũng dữ dội như lúc ban đầu. Sau nhiều lần ngồi thiền nữa, thì một trận cuối cùng để hết đau nhức thì hơi thở nó mới tống lên cái huyệt đạo ở sau lưng để thông suốt, khi nó thông được thì đau nhức không còn, nó rất là nhẹ. Rồi hơi thở coi như không còn thấy thở nữa, rồi cái đau tiếp tục đưa lên huyệt ở trên đầu, thông luôn ở trên đầu. Rồi sau đó thì chúng tôi mới xả ngồi thiền để đi kinh hành. Đi kinh hành một chặp thì tự nhiên có một luồng hơi ở dưới bụng, nó nặng nặng, quặn quặn ở dưới bụng rồi nó quận lên tới trên miệng, mình thì cứ ngậm răng lại, chúng tôi mới đứng lại để ngồi thiền định tâm lại thì tự nhiên ở dưới bụng nó quận lên một hồi, nó đưa lên rồi nó đi thông lên huyệt ở trên vai, ở sau lưng, chỗ mình với không tới đó, rồi nó đưa thẳng luôn lên tới đỉnh đầu, mà không biết xẩy ra chuyện gì, tui cũng chưa nắm. Khi cả 3 huyệt đạo từ ở dưới rốn, dưới bụng rồi nó thông lên,thì thở ra thở vô nó rất là thông. Hiện giờ nó như thế, mà tình trạng này chưa báo lại với Thầy viện chủ.

Đó kết quả trong 33 ngày qua là như thế.

Tiếp theo, được sự tận tình chỉ bảo của Thầy Viện chủ, chúng tôi đã nhập định được, đi vào cửa Tam thiền và thấy rất nhiều sự vi diệu trong thân chúng ta như thế. Nghĩa là ta làm chủ cái thân ta hoàn toàn, coi như là đối với sự sống chết đã làm chủ rồi, cả thân và tâm. Đó chỉ là mới cửa thứ ba thôi. Nghĩa là hiện nay chúng tôi đã làm chủ được thân tâm.

Trong quá trình tu tập đạt được kết quả đó, chúng tôi cũng gặp nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn.

Trước tiên chúng tôi cũng xin nói điều thuận lợi trước.

Khi vào hạ, vào rằm tháng tư, bắt đầu hạ thủ công phu nhập thất cho đến bảy ngày sau thì chúng tôi đã nhập được Sơ thiền. Rồi đến ngày thứ mười tám thì nhập được Nhị thiền. Rồi đến ngày hai mươi chín là nhập được Tam thiền. Sau khi rút kinh nghiệm sở dĩ đạt kết quả mau như thế, theo chúng tôi nghĩ nó rất đúng với lời dạy của Thầy Viện chủ đã giảng hôm trước. Ngoài ra Thầy Viện chủ cũng đã dạy muốn nhập Tứ thiền thì phải chuẩn bị trước một số hành trang như sau:

1.- Trước tiên hành giả phải tu Mười điều lành, nghĩa là hành Thập thiện đó. Phải tập nhuần nhuyễn và giữ gìn giới luật. Nghĩa là phải trường chay và tiệt dục. Đó là điều thứ nhất.

2.- Điều kiện thứ hai là phải tu Tỉnh giác chánh định. Nghĩa là lúc nào cũng tỉnh thức trong mọi hành động: tôi đi biết đi, làm việc biết làm việc, tôi ăn biết tôi ăn. Nghĩa là tỉnh thức hoàn toàn.

3.- Thứ ba là phải tu Định vô lậu.

4.- Thứ tư, phải xả bỏ hết tài sản của thế gian - tài sản nhỏ tài sản lớn. Chùa chiền, hay là tất cả các vật chất, phải bỏ xả hết.

5.- Thứ năm là chúng ta sau khi nhập thất là phải tu Hiện tại An lạc trú chánh định, nghĩa là tu bám chặt trên hơi thở.

6.- Điều thứ sáu là phải sống độc cư, coi như mình tịnh khẩu hoàn toàn.

Nếu hội đủ sáu điều kiện này thì chúng ta sẽ hoàn toàn nhập vào Sơ thiền rất mau. Bằng chứng cụ thể là chúng tôi vừa qua. Trong sáu điều kiện này thì ở chùa trong mấy năm qua đã thực hành có.

Thứ nhất: Về trường chay, giữ giới tiệt dục, vì là một Tỳ kheo thì đã giữ giới rồi, tu mười điều lành và trường chay tiệt dục rồi.

Thứ hai là tỉnh giác. Ở chùa thì chúng tôi lúc nào cũng tỉnh giác, tu trong các hành động: tôi đi biết đi, làm việc biết làm việc, tôi ăn biết tôi ăn. nghĩa là tỉnh thức hoàn toàn. Chúng tôi thường thường tu thiền biết vọng. Khi vọng nổi lên là nhìn thấy nó. Khi nhìn tận cùng của nó, mình phát hiện ra nguyên nhân ở chỗ nào rồi mình gạt ra.

Thứ ba là phải đọc kinh sách, truy tìm thêm giáo lý, đó là tịnh. Để mình dẹp mọi cái tham sân si mạn nghi. Đó là Định vô lậu.

Thứ tư là xả tài sản. Trước khi vào Tu viện, chúng tôi đã tìm người để giao lại chùa với một quyết tâm nỗ lực là không bao giờ trở về để làm trụ trì nữa. Nghĩa là xả bỏ hết ngôi chùa, đồng thời giảm bớt lần mọi quan hệ, mọi tình cảm.

Thứ năm là được Thầy Viện chủ dạy phương pháp quán niệm hơi thở để bám chặt hơi thở.

Thứ sáu là sống độc cư như vậy trong bảy ngày là vô Sơ thiền liền.

Thì đó là những điều kiện mà một hành giả muốn đạt được sự làm chủ sống chết phải trang bị trước. Còn nếu chưa trang bị được sáu điều kiện này thì coi như tu cũng mất thời gian thôi. Đó là về mặt thuận lợi mà chúng tôi chuẩn bị trước.

Còn về khó khăn, theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thì vừa qua chúng tôi đã bị tẩu hỏa nhập ma, tức là đã bị ma tưởng ấm nhập vào. Chúng tôi nghĩ là do có ba nguyên nhân.

Nguyên nhân thứ nhất là ngồi thiền ráng chịu đau quá. Chúng ta cố sức ngồi thiền. Khi ngồi thiền bị đau quá rồi ráng hết sức ngồi cho lâu để tập cái giò cho nó quen, thì như vậy chúng ta đã lầm, ngồi như thế đã lầm rồi. Chúng ta phải biết rằng khi nào đúng lúc chịu đau. Đó là khi chúng ta ở cái khoảng từ Nhị thiền tiến lên Tam thiền để phá cái thọ thì lúc đó chúng ta mới chịu đau, chấp nhận chịu đau. Còn trong lúc này chưa nhập Sơ thiền hay chưa gì đó mà chấp nhận chịu đau thì mình tu sai. Hoặc giả mình tiến lên Nhị thiền rồi, mình chấp nhận ngồi chịu đau thì mình sẽ bị ma tưởng ấm nhập vào thôi. Bởi vì chính bản thân tôi trong lúc đi vào Nhị thiền, thì trong đêm ngày thứ mười tám, sau khi thấy hơi thở mình quá nhẹ đi, rồi thấy cái thân người mình bay bổng lên khỏi giường. Thấy rất là thích thú, có hỷ lạc cho nên chịu ngồi như thế. Sau thời gian khoảng chừng hai mươi phút thì tới cơn đau của cái giò. Nó đau dữ tợn buộc phải kềm. Kềm khoảng chừng 20 phút thì tự nhiên nó bung giò ra. Nó bung giò ra thì trong lúc đó ma tưởng ấm nhập vào liền. Đó là đêm thứ mười tám.

Lý do sao ma tưởng nhập được là tại khi chúng ta vừa bung giò ra có một tư tưởng là nghĩ mình phải làm như thế nào cho nó bớt đau. Lúc đó ý thức của chúng ta không có định trong hơi thở. Nó không định tâm chỗ hơi thở cho nên tưởng thức nó nhảy vô liền. Chính lúc mình suy nghĩ cách để cho hết đau thì lúc đó tưởng thức nó vô. Nó vô thì bắt đầu nó mới bắt gân, rồi nó vần, nó vò đủ thứ. Rồi có những cái nó bắt mình xá lạy, rồi bắt ấn Chuẩn Đề, rồi làm đủ mọi động tác đặng cho nó hết đau. Chúng tôi bị như thế kéo dài từ ba giờ khuya cho tới tám giờ sáng mới xả ra được, lúc đó trời sáng rồi. Do đó sau khi xả ra thì chúng tôi chạy tới thưa Thầy viện chủ để thông báo liền. Thầy viện chủ cho biết chúng tôi đã bị tưởng ấm ma nhập vào (do đó Thầy Thông Lạc dạy chúng ta đừng bao giờ QUÊN HƠI THỞ, phải ôm phao HƠI THỞ).

Do chúng tôi chưa có được kinh nghiệm là lúc mình xả ra rồi tưởng ấm thừa cơ, tưởng ấm nhập vào lúc đó. Nếu bị tưởng ấm nhập vào thì chỉ có cái là phải bình tỉnh trở lại thôi, đặng rồi tiếp tục. Đây là điều thứ nhất mà chúng ta phải nhớ: đừng có ngồi thiền mà kềm đau quá. Khi mình ngồi mà thấy nó đau thì xả bỏ ra. Còn trong lúc chúng ta xả thiền thì phải luôn luôn ở trong chánh niệm, ở trong tỉnh thức. Nghĩa là tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng có một cái mống nghĩ gì khác nữa hết. Nếu lúc đó chúng ta quên đi cái tỉnh giác chánh niệm này thì tất nhiên tưởng ấm sẽ nhập vào ngay. Vì trong lúc đó thân thể mệt mỏi uể oải rồi, chân nó cũng đau nhức nữa đó, do vậy ý thức đã rời ra rồi, hay nó lơi lỏng rồi, thì rất dễ có móng niệm, có móng niệm lên là tưởng ấm nó nhập vô liền, rất nhanh, trong vòng một niệm thôi.

Vấn đề thứ hai là chỉ cần có một ý niệm thần thông. Đấy, vấn đề này cũng rất là quan trọng đây. Nghĩa là chúng ta chỉ có một ý niệm về thần thông thôi, một thần thông bay hay một thần thông như thế nào đó. Một suy nghĩ, một niệm thôi là ma tưởng ấm nhập vào liền. Cũng như sau khi xả thiền xong thì cái đêm, hình như là đêm thứ hai mươi sáu, hai mươi bảy gì đó, sau khi tiến lên giai đoạn cửa Tam thiền. Nghĩa là làm chủ được các hành. Sau khi tịnh chỉ được hơi thở rồi, mới tiến vào để tịnh chỉ các hành, thì chúng tôi ngưng hoàn toàn các hành, các hành ngưng hoạt động để cho nó lạnh từ dưới giò lên. Sau khi nó lạnh tới xương sống. Lạnh tới xương sống thì Thầy Viện chủ dạy cứ cho tiếp tục lạnh lên hết toàn thân.

Sau đêm đó, vào lúc khoảng ba giờ sáng, chúng tôi ngồi thiền để cho lạnh lên toàn thân hết rồi mới xả ra. Sau khi xả ra toàn bộ hết rồi thì tính đi kinh hành, nhưng có một luồng ma lực nào đó tự nhiên thâm nhập vào hai chân mày. Nó xoáy xoáy, coi như là phải nhắm mắt lại luôn. Nhắm mắt lại nó cũng xoáy mà không biết xoáy đó là chuyện gì. Do chúng tôi lầm tưởng là chắc có lẽ mình ngồi thiền hai con mắt mình nó làm cho thông qua lại, nó làm cho thông lỗ mũi và thông luôn miệng. Chỉ nghĩ vậy thôi, thế mà tự nhiên bắt đầu nó xoáy xuống mũi, xoáy xuống miệng rồi nó làm cho mình la lên đặng cho thông. Đó, rồi cứ như thế mình la hoài, la càng lớn càng tốt làm như mê nên mình phải la. Do đó cho nên không còn tự chủ được nữa. Mà cũng may lúc đó có thầy Mật Hạnh và Thầy Viện chủ phát giác kịp. Thầy Viện chủ vô thất, bỏ tay lên vai chúng tôi, sau đó chúng tôi mới hoàn toàn tỉnh lại. Tỉnh lại rồi tác ý bảo ngưng, không cho la nữa, thì lúc đó mới hết. Sau khi hết xong, chúng tôi xả thiền xong mới ngủ trở lại.

Xin tạm dừng lại để nói cái ý thứ ba.

Nguyên nhân thứ ba mà để bị ma nữa là không biết trước được những trạng thái của cơ thể sẽ đổi khác khi chúng ta tịnh chỉ được các hành. Nghĩa là một người thiền sinh chúng ta phải biết trước những cảm giác thay đổi sau khi chúng ta tịnh chỉ được các hành. Bởi vì lúc bấy giờ khi lạnh toàn thân hết thì máu trong cơ thể ta, hồng huyết cầu trong cơ thể ta đã thay đổi hết rồi. Coi như là nó xả trượt hết rồi, ta thành một con người mới rồi. Do đó nên các thiền sư hồi xưa có nói: “Rắn thành rồng không đổi vảy”. Hay là câu “Bước qua đầu cầu trăm trượng mà có dám bước hay không” đó. Do đó, chúng ta phải biết trước những trạng thái này, cái trạng thái sau khi chúng ta tịnh chỉ các hành. Nghĩa là chúng ta đã làm chủ được các hành rồi, làm chủ được hơi thở rồi thì nó sẽ có những trạng thái khác. Bởi vì chúng ta làm chủ nó thì phải ra lệnh cho nó làm, giống như một người tướng cầm quân vậy đó. Nếu chúng ta làm tướng mà không điều khiển được quân lính thì quân lính náo loạn hết. Tất nhiên tan rã hàng ngũ. Con người chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta làm chủ được thân, làm chủ được hơi thở, làm chủ được các hành, nếu lúc bấy giờ chúng ta không hiểu biết trước cách xử trí các tình trạng xẩy ra thì chúng ta sẽ khủng hoảng lên.

Chúng tôi xin nhắc lại cái đêm đó. Sau khi bị tưởng ấm ma xong, chúng tôi tiếp tục nằm ngủ cho đến khoảng mười một giờ khuya chúng tôi giật mình thức dậy, thì thấy sao mà toàn thân đều cứng. Nó cứng không phải theo cái kiểu lạnh tê cứng mà nó cứng theo cái kiểu mình thấy có thể nhúc nhích được. Do không có hiểu trạng thái này cho nên chúng tôi khủng hoảng lên. Tưởng đâu là các hành ngưng hoạt động cho nên mới ra lệnh cho các hành hoạt động trở lại, thì bắt đầu nó vận động trở lại. Thấy máu nó vận chuyển. Thấy như có tiếng nổ lụp bụp từ lỗ chân lông rất là nhiều. Lúc này chúng tôi khủng hoảng nên sợ quá. Vì sợ quá nên chúng tôi bảo các hành ngưng hoạt động, vì các hành ngưng hoạt động cho nên nó lạnh toàn thân, rồi ra lệnh các hành hoạt động trở lại. Thành thử cứ làm như thế liên tục, từ lạnh cho tới vận hành cơ thể liên tục.

Đến ra lệnh cho hơi thở. Làm cho hơi thở mất bình thường. Nghĩa là biểu ngưng, biểu thở nhẹ, biểu thở chậm; rồi ra lệnh đủ thứ hết. Cho nên tất cả trong thân đều náo loạn. À, lý do là không biết, không có kinh nghiệm những trạng thái này. Mình có thể điều chỉnh được tất cả những cái rối loạn đó. Điều chỉnh được hơi thở, điều chỉnh được các hành, nhưng mà mình điều chỉnh không đúng. Thành thử nó náo loạn tất cả các nội tạng hết.

Lúc bấy giờ chúng tôi sợ quá, không còn tự chủ nữa nên mới chạy ra ngoài báo lại với Thầy viện chủ. Lúc bấy giờ Thầy viện chủ mới bảo là cứ cho các hành hoạt động bình thường, và hơi thở thở bình thường. Thì chúng tôi cảm thấy yên ổn trở lại và nhờ ngồi gần Thầy dường như nó có một từ lực gì đó làm cho mình cảm thấy yên ổn. Và ngồi nói chuyện với Thầy để bàn qua sự việc một hồi, thì Thầy mới khuyên lúc xẩy ra trạng thái rối loạn đó, nên tu Định vô lậu. Tu Định vô lậu nghĩa là giữ lại hơi thở bình thường, nhưng lúc bấy giờ chúng tôi đâu có còn bình tỉnh nữa đâu để tìm lại hơi thở bình thường. Lúc đó bị khủng hoảng quá đi, cho nên quên mất hơi thở bình thường. Đó là hơi thở bình thường lúc ban đầu chúng ta học thiền đó. Nghe chúng tôi trình bày vậy, Thầy viện chủ mới bảo chúng tôi nên đi kinh hành. Nhờ đi kinh hành chúng tôi mới tập trung tư tưởng lại. Trong khi đi kinh hành, vừa đi vừa quán tưởng vô thường, rồi vô ngã, rồi quán tưởng về thân bất tịnh, quán tưởng về tài sản thế gian giả tạm, quán tưởng đủ thứ để chúng ta quên đi cái chuyện khủng hoảng, để trở lại sự bình tỉnh thì tất nhiên là hơi thở điều hòa trở lại. Từ chỗ đó chúng tôi mới cảm thấy con người nhẹ dần, nhẹ dần xuống.

Đi kinh hành như vậy một hồi rồi đi về. Khi về nghỉ ngồi một chỗ, không đi kinh hành nữa mà ngồi một chỗ một mình thì nó bắt đầu làm trở lại. Bởi vì lúc đó các hành nó vận chuyển trở lại thì cái hơi thở của mình nó cũng hồi hộp trong đó, cho nên hơi thở bất bình thường, thành thử cảm thấy toàn thể châu thân lúc nóng lúc lạnh đủ thứ mà khủng hoảng lên nữa. Cho nên chúng tôi ra gặp Thầy viện chủ một lần nữabáo lại. Thầy viện chủ cũng dạy cách giải quyết y như thế đó. Do đó, chúng tôi đi kinh hành suốt một đêm, đi suốt luôn tới sáng thì nó cảm thấy yên ổn.

Khi đến sáng lại thì Thầy viện chủ đưa cho một quyển kinh bảo đọc. Khi đọc quyển kinh thì tâm chú ý vào đọc kinh. Đọc, đọc một cách kỹ lưỡng thì nhờ cái tâm chú ý vào đọc đó cho nên mình không có nhớ cái chuyện hơi thở và các hành nữa. Do đó, chúng tôi bình tỉnh trở lại, rồi từ đó hơi thở điều hòa, trở lại hơi thở ban đầu lại, cứ thở hơi thởban đầu.

Thở nhẹ như thế một hồi rồi tự nhiên ở dưới bụng, lúc này nó nặng bụng, nó nặng bụng dữ lắm. Bây giờ chúng tôi mới biết được lý do tại sao nặng bụng và nặng trên đầu. Không biết quý thầy có trạng thái nặng bụng này không, chứ bản thân chúng tôi thì có, những trạng thái khi đến cái cửa Tam thiền này. Cảm giácnặng bụng đó là do nó chứa; nó chứa tất cả những lòng tham sân si mạn nghi ác kiến; nó chứa tất cả lòng tham sống sợ chết; nó chứa những cái tham ái, tham dục, ham của tài sản thế gian; nó chứa trong bụng. Do đó khi thở lại hơi thở ban đầu rồi thì tự nhiên nó trào lên, nó tràn lên nhưng mà nó theo cái hơi thở rất là nhẹ, chứ không phải mạnh nữa, nó ra từ từ, từ từ. Trong lúc nó trào ra thì mình cứ quán, quán về tài sản thế gian, quán tất cả những cái tham sân si lòng ái dục. Quán cho nó tràn ra. Nó tràn ra chừng năm sáu lần, và cuối cùng, mình ợ lên được thì bụng nhẹ luôn, nó nhẹ cái bụng, nhẹ bụng.

Còn cái đầu thì vẫn tiếp tục nặng. Cũng chưa biết vì sao đầu nó nặng, thành thửmới đi kinh hành trở lại, rồi về xem kinh. Nhưng mà sau này, qua bữa sau mới biết cái đầu nó nặng cũng nên chữa cách đó, bởi vì chúng ta có cái lòng tham thì chứa trong bụng, lòng tham ái tham dục thì chứa trong bụng; còn trong tàng thức của chúng ta, trong cái thức A lại da là thức thứ 8 đó, thìlòng tham ái tham dục cũng chứa trong tàng thức đó. Cho nên chúng tôi mới thở cái hơi thở bình thường, nhưng khi thở bình thường như vậy thì chúng ta nhớ tập trungtư tưởngxả ra ở trên đầu, xả ra tất cả những cái lòng tham dục, tham ái, những cái tham sân si ở trong đầu cho nó tràn ra hết, cho nó ra hết. Ra, ra, mình xả ra cho hết. Xả ra nguyên một ngày thì cái đầu nhẹ luôn.

Thấy cái đó cũng rất hay. Do đó chúng ta nên biết cái bụng thì chứa những lòng tham, mà trên đầu thì chứa những chủng tử. Do đó chúng ta ráng nguyện xả ra, xả ra.Thân, bụng phải rỗng ra, đầu cũng phải rỗng rang. Tàng thức không chứa chủng tử gì hết, bụng cũng rỗng rang không chứa gì hết và đồng thời lập một đại nguyện sống y như cuộc đời tu hành chân tu của Thầy Viện chủ, nghĩa là phải sống phạm hạnh. Lập một đại nguyện lớn là phải sống 3 y 1 bát. Chỉ có con đường đó thôi, chúng ta mới đi vào thiền định của Phật được. Chứ còn nếu về tiếp tục trụ trì rồi cứ lo xây dựng chùa chiền này nọ, thì tất nhiên con đường tu tập giải quyết vấn đề luân hồi sanh tử, làm chủ được sống chết chắc không thành. Do đó cho nên chúng tôi mới lập cái nguyện lớn là phải sống theo hạnh của Thầy Viện Chủ Bổn Sư là chỉ 3 y 1 bát, vậy thôi.

Do đó, chừng 3 ngày sau thì thân hình chúng tôi nhẹ nhàng trở lại, rồi chúng tôi bình tĩnh trở lại mới bắt đầu ngồi thiền. Thầy Viện Chủ có nhắc là đừng có tác ý trong khi chúng tôi ngồi thiền. Mà lúc này khi ngồi thiền vô thiền rất nhẹ nhàng chứ không phải như hồi nãy, lúc mới ban đầu phải tập trung hơi thở. Bây giờ chúng tôi chỉ ngồi hít nhẹ một hơi là nó vô thiền, vô tới tam thiền luôn. Mà nó đi vô rất nhẹ, mà xả ra cũng rất là nhẹ nữa.

Đến đây chúng tôi cũng xin nhắc thêm một chỗ nữa. Trên đoạn đi từ Nhị thiền đến Tam thiền, hơi thở của chúng tađi sâu vô nó nhẹ đến mức độ mà đến Tam thiền nó quá nhẹ đi, nhưng cái huyệt sau lưng, chỗ mà vói tay không tới, tự nhiên nó bị lói, lúc đầu hơi nhỏ nhưng sau nó đau, rồi hơi thở không thông. Trong những lúc tu thiền thấy thở nhỏ, hơi thở nhỏ cho tới đó là hơi thở không thông, huyệt đó đau, thì chúng tôi xả thiền ra tưởng là bị gió nhập, nhưng khi chúng tôi nhờ chú y sĩchửa. Chú bóp, chú xoa dầu, nhưng không hết đâu, đó là do cái huyệt chúng ta chưa thông thôi, cứ ngồi thiền liên tục 2 lần sau nữa thì tự nhiên hơi thở nó nhỏ dần, nhỏ dần, rồi có một sức mạnh gì đó nó tống thông huyệt đó ra rất là nhẹ nhàng. Sau khi cái huyệt đó thông rồi, chúng ta nhậpvô Tam thiền rất là nhẹ mà rất là nhanh, chỉ trong vòng 5 phút thôi là vô liền, chứ khỏi cần phải ngồi mà kiểm tra hơi thở, khỏi phải làm đủ thứ chuyện như lúc mới ban đầu nữa.

Đó, những cảm giác mà chúng tôi thấy như trình bày trên, do 3 nguyên nhân đó. Đến đây, qua những kinh nghiệm của chúng tôi thực tập và bị vấp phải như vậy, nay xin trình lên Thầy Viện chủ và đại chúng biết rõ để chúng ta rút kinh nghiệm và giúp người đi sau khỏi phải sợ hãi và lúng túng khi gặp trường hợp bị tưởng ấm ma nhập vào.

Kính thưa đại chúng! Tưởng ấm ma nhập vào chúng ta là nó nhập khi chúng ta xả thiền ra, nó thừa cơ chúng ta lơ đãng, chúng ta không tu tỉnh giác chánh định cho kỹ đó, lơ xơ 1 niệm là nó vô liền ngay trong lúc xả. Do đó khi xả thiền phải nhớ, ngồi phải tỉnh giác, tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng mống niệm gì hết, đừng mống niệm thần thông nữa. Do đó cho nên phải lưu ý chỗ đó. Theo chúng tôi nghĩ cách tránh bị tưởng ấm manhập vào, chỉ có 3 cách:

1.- Một là khi xả thiền ra phải tỉnh giác, xả thiền chỉ biết xả thiền, chỉ biết xả thiền thôi đừng nghĩ gì khác hết, là tất nhiên tưởng ấm ma không bao giờ nhập vào được. Cái đó coi như mình làm chủ cảm giác rồi.

2.- Thứ 2 là khi đến cửa Tam thiền thì cơ thể thay đổi khác hết trơn, nghĩa là rắn đã hóa thành rồng rồi, mình nhẹ nhàng, mình thay trược hết rồi, nó rất là nhẹ nhàng, mà máu nó cũng đổi lại, hơi thở mình cũng đã khác rồi, mình đã làm chủ hoàn toàn. Chúng ta phải biết được những trạng thái đó. Tất nhiên là người đã tu tập xong hoặc là quý thầy được hướng dẫn kỹ những trạng thái đó trước, tất nhiên là hoàn toàn bình tĩnh, mà bình tĩnh thì mới chủ động được, chứ nếu không khéo thì trong lúc đó mình không chủ động, thì coi như sẽ đi đến cái chỗ là tưởng ấm ma nặng, là coi như sẽ điên khùng thôi. Điên khùng hoặc giả là hư hoại hệ thần kinh luôn, không còn tu hành được nữa đâu, bởi vì lúc đó nội tạng mình đảo lộn hết trơn rồi. Giống như hai người không biết cày mà bảo con trâu, người bảo ví, người bảo thá con trâu biết đi đường nào, nó không biết đường đi. Các hành và hơi thở của chúng ta cũng vậy. Mình làm chủ được nó là phải điều khiển một cách thuần thục, phải tinh xảo. Do đó mình biết cách như vậy, mình làm như thế thì tất nhiên rất là yên ổn.

3.- Thứ ba, chúng ta đi kinh hành, quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, v.v… xem kinh để lấy lại hơi thở bình thường ban đầu. Nghĩa là khi gặp những trường hợp trở ngại đó thì cứ đi kinh hành. Đi kinh hành và quán vô thường, vô ngã, hay bất tịnh. Rồi ngồi lại lấy cuốn kinh để tập trung xem, để lấy lại hơi thở lúc ban đầu thì tất nhiên là chúng ta sẽ quét sạch được những cái lậu hoặc mà nó nằm trong bụng, trong đầu của chúng ta. Và lòng tham dục, tham sân si mạn nghi ác kiến và tất cả những cái ham muốn và tài sản thế gian phải quán bỏ hết. Chúng ta phải quán xả bỏ hết đi thì từ đầu cho đến bụng mình nó rỗng rang, giống như cây trúc vậy đó. Rỗng rang không có chứa một cái gì hết thì chúng ta đi vào định rất là mau. Và điều quan trọng nhất nữa là phải lập một đại nguyện là sống đời sống chân tu ba y một bát. Đó là cái quan trọng.

Chúng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa nếu chúng ta muốn có thuận lợi để đi vào định thì phải hợp đủ sáu điều kiện. 1.- Một là trước phải tu Mười điều lành là thập thiện, giữ giới luật trường chay, tiệt dục. 2.- Thứ hai là tu Tỉnh giác định chánh niệm. 3.- Thứ ba là phải tu vô lậu chánh định. 4.- Thứ tư xả bỏ tất cả tài sản của thế gian. 5.- Thứ năm là tu Hiện tại An lạc trú chánh định. 6.- Thứ sáu là sống độc cư, tịnh khẩu. Nếu ai thành tựu được 6 cái này thì tất nhiên nhập thất chừng một tuần lễ là vào Sơ thiền rất nhanh.

Đến đây, qua kinh nghiệm thực tu thực thấy của chúng tôi, xin trình bày cho đại chúng biết. Cũng như có huynh Minh Tông cũng trải qua quá trình Tam thiền với những trạng thái này thì sẵn hôm nay xin trao đổi với nhau. Và đồng thời cũng xin qua ý của Thầy bổn sư Viện chủ bổ sung thêm một số ý kiến để chúng con tu tập thêm tốt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

LỜI THẦY THÔNG LẠC

Thầy xin nói rõ điểm này: Trong sự kiện xảy ra, đây là hoàn cảnh rất tốt cho chúng ta để rút tỉa kinh nghiệm từthực tế trong sự tu tập của thầy Thiện Thuận. Thầy Thiện Thuận xa thầy, chỉ có hạ này mới về đây tu học với Thầy mà thôi. Do sự nhiệt tâm tu hành, nhiệt tâm xả tâm, rồi thầy Thiện Thuận mặc dù bận rộn trong công việc duyên sự của chùa, nhưng thầy cũng không quên thường trau dồi các pháp tu. Do vì vậy mà thầy thiếu chuẩn bị cái tư thế để làm chủ mọi mặt, khi khả năng nầy đến quá nhanh chóng, thầy không biết cách ứng phó.

Còn Minh Tông theo sát Thầy gần ba năm nay, mỗi bước đi của nó Thầy theo dõi, tập luyện rất kỹ lưỡng, cho nên không đến nỗi lạc lầm như vậy. Thầy đã chuẩn bị cho nó mọi mặt. Từ bước đầu vào đây nó ngồi một giờ rưỡi hai giờ, Thầy dẹp xuống còn có mười lăm phút mà thôi. Nghĩa là Thầy chia làm bốn đoạn mười lăm phút cho nó tu tập. Từ cái ngồi kiết già cho đến cái ngồi trên ghế thường, cho đến cái đi kinh hành, rồi cho đến khi đứng. Tu trong bốn oai nghi. Do hướng dẫn cặn kẽ, kỹ lưỡng từng cái cho nên không xảy ra những sự cố như trường hợp của thầy Thiện Thuận. Từ đó cho đến giờ thì theo Thầy thấy nó tịnh chỉ được các hành rất tốt và rất yên ổn mà không bị lạc lầm. Vì luôn luôn Thầy đã dạy pháp hướng rất kỹ cho nó. Do như vậy mà Thầy biết rằng Minh Tông sẽ đi vào con đường thiền này từng bước rất là rõ ràng.

Sơ thiền như thế nào chắc chắn Minh Tông cũng nhận biết rõ, mà Nhị thiền như thế nào nó cũng biết rất rõ. Cơ thể nó thay đổi không phải như thầy Thiện Thuận. Bùng một cái dùng pháp hướng nên cơ thể rối loạn liền tức khắc. Còn cơ thể của Minh Tông từng ngày từng giờ nhẹ nhàng thay đổi. Nó thường trình bày cho Thầy nghe sự thay đổi: dường như thân con thay đổi bằng cách này, bằng cách khác, bằng cách nọ. Nó trình bày cho Thầy nghe kỹ lưỡng từng chút mọi sự thay đổi. Nhưng mọi sự thay đổi đều nhẹ nhàng, êm ái, không bị rối loạn.

Còn thay đổi của thầy Thiện Thuận một cách đột ngột, đó là sự rối loạn lớn khiến cho ma tưởng nhập. Cho nên chúng ta tu hành phải có bậc minh sư thì không bao giờ bị ngũ ấm ma. Tại sao vậy? Tại vì bậc minh sư biết được cái chỗ nào phải tu như thế nào, phải làm như thế nào. Vì vậy mà người đệ tử của họ rất vững vàng, không có lạc lầm. Nhưng nói là một điều. Quý thầy thử nghĩ khi quý thầy mà xa Thầy thì quý thầy sẽ gặp biết bao khó khăn. Cũng như thầy Thiện Thuận nếu không có Thầy trong đêm đó, và nếu như không có sự hướng dẫn của Thầy, thì chắc chắn không làm sao mà thầy Thiện Thuận tu tập cho được như ngày hôm nay, phải không?

Vì vậy trên đường tu còn những cái khó khăn mà không phải mọi người đều giống nhau hết đâu. Bởi vì đức Phật nói chúng ta có ba cái tướng: Hành tướng, Nhân tướng và Đặc tướng. Thí dụ như trong Hành tướng hơi thở của mỗi người, người hơi thở thì thở dài, người thì thở ngắn ở mực bình thường của nó. Đó là chưa nói tới những hơi thở khác. Trong Nhân tướng thì có mặt ai giống ai đâu. Người lùn, kẻ cao, người thấp. Đó là cái đặc tướng của nó. Cho nên tùy theo đặc tướng của mỗi người mà tu tập. Chỉ người thiện hữu tri thức mới nắm được đặc tướng của mỗi người mà giúp đỡ cho người tu vững vàng, không có bị lệch lạc, làm cho con đường tu của người đó càng ngày càng tiến, mỗi ngày mỗi thấy sự tiến bộ.

Cho nên hôm nay chúng ta là những người đủ duyên nhất, đã được học thực tế trên con đường tu tập thiền định. Không còn chỗ nào hơn chỗ này hết. Nghĩa là làm chủ được cái sống chết, làm chủ được cái cơ quan vi tế nhất của loài người - là cái thân của chúng ta, chứ còn gì nữa. Không có máy móc nào trên thế gian này mà bằng cái cơ quan cơ thể của chúng ta. Mà hôm nay chúng ta làm chủ được nó, làm chủ cả trí óc của chúng ta nữa. Để rồi tới đây quý thầy sẽ nhập Tứ thiền và quý thầy sẽ biết cái sự vi diệu vô cùng của nó. Không phải là Thầy quảng cáo cái thần thông đâu, mà tại vì cái bộ máy cơ thể của con người rất là vi diệu, khi chúng ta làm chủ được nó, khi chúng ta điều khiển được nó. Cho nên càng đi tới, chúng ta càng thấy con đường của đạo Phật thật tuyệt vời. Nó thật là tối thượng. Tại sao? Tại vì trong tâm chúng ta không tham muốn một cái gì hết. Xả ly tất cả chỉ còn ba y một bát nên chúng ta sử dụng được toàn bộ, chúng ta không hề dính mắc. Trái lại nếu tâm chúng ta còn chứa tham, còn ham muốn ở trong đó mà nó điều khiển được con người của chúng ta, thì thế gian này, trên hành tinh này chắc là con người bị hoại diệt. Nghĩa là Thầy nói cái tâm tham vọng của chúng ta còn mà chúng ta điều khiển được con người như vậy thì thế gian này sẽ bị hoại diệt. Người ta sẽ dùng nó mà làm những việc gì vĩ đại. Như các nhà khoa học đã tưởng tượng những con người vĩ đại sẽ thôn tính toàn cầu. Cái tâm tham vọng của chúng ta lớn lắm. Nhưng vì đạo Phật thấy được điều này nên dạy chúng ta xả ly tâm tham này mới thực hiện được cái vi diệu này. Cho nên nó chỉ vi diệu ở cái chỗ làm chủ được cái sự đau khổ của con người, chớ không phải thôn tính toàn cầu để làm bá chủ. Chúng ta có thể nói nếu chúng ta còn tâm tham muốn mà điều khiển được thân của chúng ta, có thể chúng ta thôn tính cả vũ trụ chứ chưa nói là toàn cầu.

Thầy nói trước những điểm này thì tới chừng đó các thầy sẽ chứng nghiệm, sẽ thấy điều đó. Cho nên đức Phật Thích Ca nói: “Những gì Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy mọi người chỉ như nắm lá cây trong bàn tay”. Thật đúng như vậy. Khi thực hiện tới đây Thầy thấy lời nói đó không dối người.

Qua sự trình bày của thầy Thiện Thuận, Thầy biết rằng Thầy dạy Minh Tông rất cẩn thận và kỹ lưỡng, cho nên hàng ngày có những chuyện gì thì ngay đó Minh Tông đến thất Thầy, thầy trò bàn bạc nhau rút tỉa từng kinh nghiệm cho nên trên bước đường tu của Minh Tông, không sai. Nhưng có lúc nó cũng nông nổi, Thầy dạy đừng có ngồi nhiều nhưng nó lại muốn ngồi nhiều để xem coi thế nào, do đó có lúc nó ngồi 5, 6 tiếng đồng hồ làm cho chân nó bị đau, bị khổ sở. Nhưng Thầy thấy đây cũng là sự thử thách mà thôi để rồi trên bước đường tu, chúng ta mới có những kinh nghiệm thực tế. Hầu như mọi người đều đang nghĩ rằng mình phải ngồi từ 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, 1 ngày, 2 ngày, nhưng Thầy luôn luôn dạy các thầy chỉ cần trong một phút mà nhập định được thì nó được, chứ ngồi nhiều nó chẳng ra gì.

Như điều kiện tiên quyết đầu tiên khi Thầy dạy quý thầy về Định niệm hơi thở hoặc Bốn thiền này thì Thầy muốn nhắc nhở quý thầy rất nhiều là phải ổn định hơi thở bình thường, để chừng đó khi chúng ta tịnh chỉ các hành, hơi thở ngưng thì phải trở về mực bình thường của hơi thở. Qua kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận thì mới thấy chỗ Thầy dạy căn bản rất căn bản. Nhưng hầu hết Thầy nói các thầy không nghe mà cứ nghĩ rằng phải chậm nhẹ hoặc là hơi thở thế này thế khác để cho nó vào định, cho nó hết vọng tưởng. Thầy đâu cần quý thầy loại hết vọng tưởng, mà Thầy chỉ cần quý thầy tu tập đúng, ổn định đúng hơi thở để rồi có chỗ quý thầy trở về. Chứ nếu quý thầy mà tập không đúng cái hơi thở bình thường thì quý thầy trở về không được.

Cho nên lúc nghe thầy Thiện Thuận nói, Thầy biết là thầy Thiện Thuận quên mất hơi thở bình thường của mình, bị rối loạn rồi, làm sao nắm được nó nữa. Cho nên chỉ còn cách giải quyết là phải dùng Định vô lậu để cơ thể tự nó trở về bình thường mà thôi. Bởi vì nếu chúng ta đặt tâm chỗ nào là ngay đó tâm đã thu nhiếp tại đó rồi, như vậy tâm khác bình thường rồi, không thể nào bình thường được. Bởi vì khi tâm thu nhiếp thì hơi thở phải chậm, phải nhẹ ra rồi, không thể nào bình thường được. Do đó làm sao giữ cho cái ý của mình chú tâm vào một việc làm gì khác, để cho cơ thể tự nó quân bình trở lại bình thường, nó mới lấy lại cái hơi thở bình thường. Vì vậy, phải đi kinh hành, phải đọc kinh sách, phải dùng định vô lậu. Còn nếu chúng ta tập nhuần nhã trong đó thì chúng ta biết hơi thở bình thường của chúng ta ở mức nào rồi. Do vì vậy mà khi gặp trường hợp đó, chúng ta chỉ cần sử dụng hơi thở bình thường và pháp hướng tâm nhắc vài ba lần thì cơ thể chúng ta trở lại bình thường, và trở về bình thường thì nó thư giãn toàn bộ thân của chúng ta, không còn rối loạn nữa. Bởi vì khi chúng ta sống với hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta đâu có rối loạn. Cho nên khi chúng ta nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta đã nắm được, còn không nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta như chỉ mành treo chuông trong bước đi tu tập thiền định. Cho nên Thầy dạy các thầy tu tập kỹ điều này, phải kỹ trong hơi thở bình thường, nhưng các thầy thì quá vội vàng mà quên đi cái mạng sống của mình là ở nơi hơi thở bình thường, chứ không phải ở trong định.

Đó, hôm nay Thầy lưu ý quý thầy như vậy. Còn bây giờ Minh Tông có ý gì để góp với quý thầy, để quý thầy thấy sự tu tập của mình thêm những kinh nghiệm tốt.

Minh Tông trình bày

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy.

Kính bạch toàn thể đại chúng.

Tại vì con không được chuẩn bị để có ý kiến cho nên khi được sự cho phép của Thầy và có sự yêu cầu của thầy Thiện Thuận, con cũng xin góp một vài ý kiến.

Cái thứ nhấtlà nói về vấn đề xả bỏ. Trước khi nhập thất tu hành thì chúng tôi cũng đã suốt gần sáu bảy năm theo Thầy để tu tập tại nhà. Trong thời gian tu tập tại nhà, chúng tôi cũng đã tu tập Định chánh niệm tỉnh giác rất lâu, và nhất là hồi trước chúng tôi cũng biết pháp tu Chánh niệm tỉnh giác của thầy Nhất Hạnh, cho nên chúng tôi cũng đã tu Định chánh niệm tỉnh giác của thầy Nhất Hạnhrất lâu.

Cái thứ 2, trước khi quyết định lìa bỏ gia đình để đi vào Tu Viện tu tập, chúng tôi không phải là người mặc kệ cho gia đình sống chết thế nào cũng được đâu. Chúng tôi phải chuẩn bịtới ba bốn năm. Chuẩn bị bằng cách nào? Tại nhà chúng tôi có sự sản xuất về ngành mình thích, bây giờ không tự mình hoạt động mà giao sự hoạt động đó lại cho người bạn đời của tôi và đứa con trai. Chúng tôi chỉ theo dõi như vậy trong vòng gần 3 năm để xem coi sự hoạt động đó tiến hành ra làm sao. Khi chúng tôi thấy những người đó có thể thay thế mình thì lúc đó chúng tôi mới quyết định từ bỏ. Đồng thời cũng chuẩn bị tư tưởng cho những người nhà, cho các con tôi, con tôi thì tới 5 đứa đang đi học, và người bạn đời của chúng tôi. Chúng tôi chuẩn bị tư tưởng cho họ, chúng tôi đem ra bàn bạc trong gia đình, coi thử họ có đồng ý cho tôi được nhập thất không, thì mọi người đều đồng ý. Gia đình tôi cứ nghĩ rằng chúng tôi nhập thất trong vòng 3 năm thôi, sau đó chúng tôi trở về lại. Nhưng bây giờ chúng tôi đã vào đây theo Thầy tu tập thì chúng tôi thấy rằng chuyện trở lại đời sống của người cư sĩ như lúc trước thì không thể nào, vì khi đã tu tập và trải qua đời sống độc cư, rồi đời sống của một kẻ xuất gia. Ví dụ như bây giờ tôi trở lại trong gia đình, chúng tôi không thể nào ăn trở lại ngày 3 bữa được. Bây giờ ăn một bữa thôi, nếu ăn nhiều, cảm thấy trong thân mệt mỏi. Ngủ cũng vậy, nếu bây giờtôi nằm ngủ quá 2 tiếng mà không thức dậy thì nó rơi vào mộng. Muốn cho nó không rơi vào mộng thì chỉ ngủ đủ cái mức độ của nó thôi, thì phải tỉnh dậy. Khi tỉnh rồi thì đâu có mộng được. Nhân cái chỗ ngủ này, chúng tôi xin nói đến cái chỗ làm chủ ngủ. Nếu chúng ta làm chủ được cái ngủ thì đương nhiên là chúng ta đã vượt qua được cái tưởng, vì chúng ta ngủ đủ thức của nó mà chúng ta tỉnh dậy thì mộng không thể xâm nhập vô được. Cũng như khi chúng ta ngồi thiền mà nếu như ý thức chúng ta luôn luôn tỉnh thì không thể nào có tưởng xen vô được. Đó là chúng tôi xin nói đến cái chuyện xả bỏ.

Bây giờ nói đến cái chỗ nhập các định. Chúng tôi thì không tu tập nhanh như thầy Thiện Thuận mà chúng tôi đi từ từ. Bây giờ nếu nói hết kinh nghiệm tu tập thì nó mất nhiều thì giờ của quý thầy lắm, cho nên chúng tôi chỉ nói đơn sơ thôi.

Muốn vô Sơ thiền, chúng tôi thường nghe theo lời Thầy giảng dạy cũng như theo trong kinh điển Phật dạy khi nhập Sơ thiền thì chúng tôi sử dụng hơi thở không có Tầm nhưng còn Tứ. Thở bình thường không có vọng tưởng nhưng còn tác ý.

Rồi tới muốn nhập Nhị thiền thì chúng tôi chỉ thở nhẹ lại một chút, điều khiển hơi thở cho nó nhẹ lại một chút mà không có tác ý nữa, tức là không Tầm và không Tứ thì đó là vô Nhị thiền. Đơn sơ vậy thôi. Sơ thiền thì mình cứ thở bình thường, mà không có vọng tưởng nhưng còn tác ý. Lâu lâu mình nhắc nó tức là mình tác ý, mình tác ý cho nó đi tiếp tục, chứ nếu mình không tác ý thì vọng tưởng xen vô, nhất là người mới tu thì cần phải tác ý. Cho nên mình tác ý thì vọng tưởng hết xen vô, tức là mình ở trong Sơ thiền, thanh thản mà đi, thì đó là Sơ thiền. Còn bước vô Nhị thiền thì chúng ta ngưng tác ý, thở nhẹ, không Tầm tức là không có vọng tưởng, mà không Tứ tức là không tác ý mà thở nhẹlại thì nó vô Nhị thiền.

Vô Tam thiền thì chúng tôi khác với thầy Thiện Thuận là tu tập rất lâu. Tại trước khi chúng tôi bước vô Tam thiền, thì tôi là người không nghe lời Thầy cho nên ngồi nhiều quá. Tôi ngồi cho đến khi tôi tăng lên đến 4 giờ, thì bắt đầu cái chân nó bị nứt ra thành vết thương. Mà bây giờ các Thầy cứ tưởng tượng cái vết thương của chúng tôi chỉ là một ghẻ nhỏ ởchân thôi, ở cái chỗ chéo cái chân lên đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà điểm căng thẳng nhất chéo chân lên thì nó trở thành cái vết thương, chúng tôi ngồi suốt như vậy trên cái vết thương có máu chảy rađócho đến bây giờ vẫn chưa có lành, sắp lành rồi, như vậy là gần 1 năm.

Qua buổi giảng của Thầy, Thầy chỉ nói câu rất ý nghĩa. Thầy bảo là cái quan trọng không phải ở chỗ ngồi lâu, mà quan trọng ở chỗ tịnh chỉ được các hành. Cho nên tôi ngưng ngồi, không có ngồi chéo nữa, không có ngồi kiết già nữa, mà chỉ ngồi dựa lưng vào ghế. Xin nói đến cái chỗ kinh nghiệm dựa lưng vô ghế này. Quý thầy đừng nghe nói là ngồi dựa lưng vô ghế cũng nhập định được. Ở chỗ này là phải biết lúc nào là ngồi dựa lưng vô ghế mà nhập định được. Quan trọng là ở chỗ pháp hành, ngồi dựa lưng vô ghế là nó buồn ngủ dữ lắm. Mà ai chưa phá được hôn trầm thì đừng ngồi ghế tu, chưa đủ thức tỉnh thì ngồi cỡ 10 phút, 15 phút, 20 phút là nó buồn ngủ. Thầy cho tôi ngồi ghế đúng vào lúc tôi ngồi ghế không còn bị lặn sâu vào giấc ngủ nữa, cho nên tới bây giờ thì tôi ngồi đến gần 5 tiếng liên tục dựa lưng vào thành ghế không nhúc nhích mà nó cũng không rơi vào ngủ. Đó là nói chút kinh nghiệm về vấn đề tu ngồi ghế.

Qua chỗ này chúng tôi rút kinh nghiệm là ngồi chéo là lúc chúng ta bắt đầu tu. Thầy nói câu, chúng tôi thấy rất là thấm thía: Ngồi chéo là để kiết cái thân lại cho vọng tưởng đừng xen vô lúc mới tu thôi, còn bây giờ chúng ta đã làm chủ được hơi thở, chúng ta đã có sức định thì ngồi chéo hay ngồi ghế hay là đi đứng hay nằm thì nó cũng như nhau. Không có quan trọng gì chỗ ngồi chéo đó. Chỗ ngồi chéo này quý thầy thấy rằng chúng ta dùng tư thế đó để buộc tâm lại, cho nó đừng có vọng tưởng ra. Còn khi chúng ta đã điều khiển được tâm không có vọng tưởng rồi, tâm ta mà ta đã điều khiển được nó rồi, thì tu trong cả bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Nhưng ngồi ghế cũng có cái lợi là chúng ta tập tỉnh mà nó không có bị gục.

Chúng tôi cũng xin góp thêm một chút xíu nữa: Vấn đề ngưng các hành và tác ý. Từ hồi nào đến giờ chúng tôi vẫn ám thị nhắc nhở nhưng nó không có kết quả. Sau này khi Thầy nhắc chúng tôi là tác ý cho mạnh, ám thị cho mạnh, ám thị cho cương quyết. Thì chúng tôi bắt đầu luyện tập cách ám thị cương quyết này, tức là ra lệnh cho mạnh thì mới ngưng được các hành. Các thầy cứ tưởng tượng rằng khi phổi ta đang thở, các cơ trong cơ thể chúng ta đang hoạt động mà chúng ta ra lệnh: Ngưng. Phải có sự tập trung năng lực tinh thần rất mạnh. Thầy bảo là: Đừng có nói nhẹ nhàng là hơi thở ngưng, các hành ngưng. Đừng có ra lệnh nhẹ như vậy. Phải ra lệnh mạnh: Các hành ngưng. Hơi thở ngưng. (chỗ này nghe băng mới nghe được dọng phải nhấn mạnh dọng ra sao) Sau lệnh đó là tự động tâm tập trung vô tụ điểm liền. Nếu các thầy chưa tập trung được cái tâm của mình vô tụ điểm thì sự ám thị đó không có kết quả. Cho nên sau khi ám thị rồi chúng ta bám hơi thở chậm liền, phải đưa hơi thở đi vào chỗ chậm liền, chậm liền. Bây giờ muốn vô Tam Thiền thì hơi thở nhẹ chậm ở mức độ nào? Muốn vô tới Tứ Thiền, mặc dù là chúng tôi chưa đạt tới Tứ thiền nhưng mà chúng tôi cũng thấy bóng dáng của Tứ thiền.

Chúng ta đừng nghĩ rằng vô một mạch từ Sơ thiền tới Tứ thiền liên tục đâu. Không. Khi vô Sơ thiền thì chúng ta nương hơi thở nào để vô Sơ thiền. Vô Sơ thiền được rồi muốn vô Nhị thiền thì chúng ta phải ra hơi thở trở lại, phải ra hơi thở bình thường lại chúng ta mới hướng tâm vô được Nhị thiền là thở nhẹ mà không có tầm, không có tứ. Đang không tầm, không tứ, muốn vô Tam thiền thì chúng ta phải ra hơi thở bình thường lại. Cho nên đức Phật mới bảo là vô tới Diệt Thọ Định Tưởng thì cũng phải nương hơi thở là ở chỗ đó. Vô Tam thiền rồi muốn vô Tứ thiền thì chúng ta phải ra hơi thở bình thường lại, phải tác ý ra hơi thở của khi đầu. Cho nên phải ở cái hơi thở bình thường đó trước khi vào các tầng định, giả sử vô Tam thiền hơi thở nó chậm ở mức độ nào, mà vô Tứ thiền thì hơi thở nó chậm ở mức độ nào. Mà ám thị cũng vậy, nếu chúng ta ám thị mạnh là tâm bị động, khi vô Tứ thiền thì phải ám thị nhẹ lại, nhưng nhẹ lại và nó chậm lại ở mức độ như thế nào để cho ý thức nó ngưng.

Nói đến đây chúng tôi cũng xin nói một chút kinh nghiệm về vấn đề ngưng được ý thức mà tưởng không thể xen vô đấy. Vì khi ý thức không hoạt động thì tưởng hoạt động. Chúng tôi cũng đã gặp trường hợp ý thức ngưng, tưởng thức xen vô, thấy thân mình bay lên, nó bay lên rồi hạ xuống ngồi lại, 3 lần như vậy nhưng mà tâm chúng tôi thật bình tĩnh, chúng tôi nói rằng đây là tưởng, ta không theo nó, ta chỉ theo hơi thở thôi, cho nên tưởng thức phải ngưng. Khi ý thức chúng tôi ngưng như vậy, chúng tôi vô trình cho Thầy liền, thì Thầy nói là: Đến lúc ý thức ngưng thì tưởng thức hoạt động mạnh, cho nên con phải xả tưởng. Xả tưởng là ở trong Tam thiền phá hỷ. Phá hỷ tức là xả các trạng thái tưởng, con phải phá 6 cái tưởng này, con đừng theo nó và đừng có một mầm mống gì về thần thông. Các trạng thái tưởng thì gồm có 6 cái tưởng: sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Các thầy nghe nói phá hỷ chứ chưa biết phá hỷ là phá cái gì.

Chúng tôi nghĩ rằng lúc ý thức của chúng tôi ngưng mà chúng tôi mống một cái gì là nó có cái đó. Chúng tôi mống thân bay là cái thân nó bay lên. Chúng tôi mống nhớ tới cái gì là nó nhớ tới cái đó. Nhưng mà đó là tưởng cho nên Thầy bảo không có được đi vào con đường đó. Đi vào con đường đó tức là đi vào con đường Định Tưởng. Chúng tôi thấy được là khi ngưng được ý thức, chúng ta rất dễ nhập vào 4 cái định tưởng được. Tôi hỏi thầy Thầy nói dễ dàng chứ không khó khăn gì. Nhưng nếu bây giờ con nhập vô định tưởng thì nó mất thời giờ, cái thứ 2 là nhiều lúc con đã vô đó rồi, con mê cảm giác hỷ lạc thì con không ra được. Do đó chúng tôi không có dám vào. Nhiều lúc chúng tôi cũng có khởi niệm trong đầu là vô thử coi cái định tưởng này nó ra làm sao? Định tưởng có bốn là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là trong kinh nói và theo lời Thầy dạy. Chúng tôi nghe vậy chúng tôi biết vậy và chúng tôi không dám vào, tại vì chúng tôi sợ bị mắc dính vào đó và nó mất thì giờ. Và quý thầy rút kinh nghiệm này của tôi để đi cho được nhanh. Chúng tôi đi chậm vì lý do thứ nhất là cứ bị lạc vào cái tưởng, cái chậm nữa là chúng tôi bị lạc vào vô ký. Nếu bây giờ mà cứ nằm mãi ở trong cái tưởng thì chúng ta cứ ở trong đó thôi, chứ nó đâu có tiến sâu thêm được nữa. Muốn tiến sâu thêm được nữa thì chúng ta phải ra hơi thở để dẹp cái tưởng đi. Dẹp cái tưởng đi và tác ý tịnh chỉ các hành cho nó ngưng hẳn hoàn toàn để nhập Tứ thiền.

Tôi nói như vậy chứ các hành nó ngưng rồi nó cũng phóng lại, ý thức cũng vậy. Cái ý thức của chúng ta nó ngưng, nhưng nó ngưng tới mức độ nào mà chúng ta đang tập luyện thì như tôi hiện giờ nó ngưng được 2 tiếng, 2 tiếng rưỡi mà 3 tiếng là nó bắt đầu sống lại. Nó sống lại rồi mà bây giờ tôi muốn đi tiếp thì phải tác ý cho nó ngưng tiếp tục.

Tại vì tôi không chuẩn bị cho nên không ghi lại được nhiều. Chỉ xin góp một vài ý kiến đó để làm vui lòng thầy Thiện Thuận và theo sự cho phép của Thầy.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

LỜI THẦY THÔNG LẠC

Quý thầy vừa nghe Minh Tông trình bày sự tu tập. Quý thầy thấy Minh Tông được Thầy chỉ dạy tận tình, có thời gian để chuẩn bị cho nên Minh Tông trình bày rất là kỹ, rất là quan trọng. Còn thầy Thiện Thuận tu tập cấp tốc quá cho nên thầy Thiện Thuận có những sự cố, nếu quý thầy tu tập theo kiểu của thầy Thiện Thuận, Thầy thấy là phải ở gần sát bên thầy chứ lơ mơ là tiêu, không dễ đâu.

Còn Minh Tông, các thầy nên nghe theo lời của Minh Tông mà tuần tự tu tập như Thầy đã dạy Minh Tông. Cho nên sau này khi Thầy ẩn bóng thì Minh Tông mà tu tập xong, có đủ duyên sẽ là người thừa kế cho Thầy. Vì trình độ văn hóa của nó thì trên Đại học. Và sự tu tập của nó, Thầy thấy từ ngày đến đây kỷ luật rất nghiêm chỉnh và nó cắt ly gia đình hoàn toàn. Thầy thấy ít có người cư sĩ nào làm được như nó. Cho nên Thầy hy vọng nó sẽ là người thừa kế của Thầy sau khi Thầy ẩn bóng. Thầy chờ cho nó tu xong.

Lúc này Thầy thấy rằng trong Tu viện chúng ta có nhiều người rất tin tưởng Phật pháp rồi. Đó là qua hình ảnh tu hành thứ nhất là Mật Hạnh, thứ hai là Minh Tông, thứ ba là thầy Thiện Thuận. Nhưng các thầy thấy sự nỗ lực đó không phải là do Thầy chuẩn bị cho họ nỗ lực đâu. Mà chính cái tư tưởng, chính cái tâm họ tha thiết nhiệt tình với sự giải thoát mà họ đã chuẩn bị cho họ, Thầy chỉ là một người bạn biết đường dẫn họ đi cho đúng thôi. Chứ còn cái tư tưởng đó họ phải chuẩn bị. Cũng như hiện giờ nếu quý thầy được chuẩn bị tư tưởng như vậy, và được Thầy dẫn đường, thì quý thầy sẽ đi dễ. Còn quý thầy chưa có chuẩn bị như vậy, dù Thầy có dẫn đường thì quý thầy cũng loành quành mà thôi, chứ không đi đâu được. Quan trọng là ở chỗ tư tưởng. Cho nên nếu Minh Tông không chuẩn bị tư tưởng cho mình dứt khoát tu hành thì phỏng chừng tu tập dù là 10 năm chưa chắc đã đạt được năng lực như bây giờ. Tại vì tư tưởng chưa dứt khoát, có ngồi đây cũng chỉ là vô ích, còn làm hao tốn của đàn na thí chủ. Và nếu thầy Thiện Thuận không chuẩn bị cho mình trong khóa hạ năm nay, thì chắc chắn muôn đời thầy không có dịp gặp Thầy, mà không có dịp gặp Thầy thì con đường tu của thầy Thiện Thuận lỡ dở. Đây cũng là cái duyên mà thầy Thiện Thuận có tâm tha thiết nhiệt tình, vì cách đây 6 - 7 năm đã có cái tâm muốn theo Thầy từ đó rồi. Nhưng cái duyên không đủ, cho nên thầy phải chuẩn bị 6 - 7 năm trời, cho đến hạ năm này là hạ cuối cùng thầy mới sắp xếp mọi việc. Nhưng thầy vẫn còn vướng bận chứ chưa phải buông xả hết. Cho nên thầy phải xả hết những chất chứa, rõ ràng là nó chướng ở trong bụng thầy, nó chướng lên đầu thầy. Nên thầy Thiện Thuận phải dùng Định Vô Lậu để xả ra một lần cuối cùng. Và cuối cùng thầy Thiện Thuận phát nguyện ba y một bát, hành trang của một vị du tăng khất sĩ, không còn là một vị trụ thế tăng nữa. Ở đâu cũng là nhà của họ, ở đâu cũng là nơi họ ở, chờ khi hết duyên là họ ra đi một cách không danh không lợi. Đó là thầy Thiện Thuận đã nhận thấy mục đích của những người tu sĩ đệ tử của đức Phật ngày xưa thực hiện phạm hạnh của họ đầy đủ như vậy.

Những lời hôm nay, những kinh nghiệm hôm nay rất quý giá. Mặc dù từ lâu Thầy chưa cho Minh Tông nói ra những lời này, bởi vì Thầy biết đâu có ai tin mà nói, nói ra thì làm sao người ta tin được. Nay nhân duyên có thầy Thiện Thuận về đây, sẵn đó Thầy mới gợi ý với thầy Thiện Thuận yêu cầu để huynh đệ rút tỉa kinh nghiệm cùng nhau tu tập. Chớ sự thật Thầy muốn chờ cho Minh Tông thực hiện xong mới mở miệng.

Đến đây Thầy xin chấm dứt.

***