• vandaptusinh
  • amthat2
  • benthayhocdao
  • huongdantusinh
  • tamthuphattu
  • amthat3
  • lopbatchanhdao
  • tinhtoa2
  • quetsan
  • vandao2
  • ttl3
  • toduongtuyetson
  • ttl1
  • tranhducphat
  • amthat1
  • thanhanhniem2
  • thanhanhniem1
  • tinhtoa1
  • khatthuc1
  • phattuvandao3
  • ThayTL
  • daytusi
  • thanhanhniem3
  • chanhungphatgiao
  • phattuvandao1
  • lailamtoduong1
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc
  • Tranh đức Phật
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
JGLOBAL_PRINT

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần D)

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

D

Danh (ĐườngVề.9) (trong DANH SẮC) là tưởng uẩn còn gọi là tưởng thức (cái BIẾT trong giấc mộng).

Danh (ĐạoĐức.2)(10Lành) là danh vọng quyền cao chức tước. Danh là một điều cám dỗ lòng người. Trong đời này con người ai cũng thích khen, khi được người khác khen tặng, ca ngợi mình thì lòng hân hoan, vui mừng, sung sướng, v.v... Ðó là “danh”. Hiếu Danh có nhiều góc độ, hiếu danh ít nhiều là do sự khéo che đậy, nhưng bản chất hiếu danh thì không có người nào khác người nào. Khi bị chê thì buồn bã không vui, mất thiện cảm với người chê; khi được khen tặng, thì có vẻ vui mừng, có thiện cảm ngay với người khen. Trạng thái mừng vui, buồn bã khi được khen hay chê, đó là tâm ham danh. Do lòng háo danh, khiến dễ bị người khác lợi dụng bằng sự khen, tặng, thăng quan, tiến chức, v.v... Cho nên, người háo danh, ham lợi là những người dễ làm tay sai cho kẻ khác, cho giặc. Khi đất nước bị chiến tranh xâm lược, những người dân bán nước phần đông là những người tham danh, đắm lợi, còn lại một số người bị giặc tuyên truyền đánh lạc hướng theo chúng mà thôi. Người ham danh, đắm lợi là những người thích vào luồn ra cúi, hầu hạ kẻ trên người trước, thường dùng những lời nói nịnh bợ ton hót. Những tiếng xưng hô vâng vâng, dạ dạ thật là ngọt ngào. Những hành động họ làm như vậy là họ đã làm hại họ, họ làm cho người khác coi rẻ họ, xem thường họ, khinh bỉ họ. Họ đã đánh mất bản chất của một con người có đạo đức tự trọng, họ đã biến họ thành một tên nô lệ, một tôi tứ trung thành và còn tệ hơn nữa là một con thú vật nuôi trong nhà. Rõ ràng tâm háo danh là làm hại chúng ta, làm mất bản chất đạo đức tự trọng làm.

Danh hiệu Đức Hạnh và Trí Hạnh của Phật (CầnBiết.4) 1- Như Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn”.

Danh sắc (ĐườngVề.1)(CầnBiết.3)(12Duyên) Danh Sắc là thân và tưởng thức của con người. Thân ngũ uẩn có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là thân; Thọ là các cảm thọ của thân và tâm; Tưởng là tưởng thức; Hành là các hoạt động của thân, tâm và tưởng; Thức là cái biết của thân, tâm người đã tu chứng đạo. Danh sắc gồm có bảy cái biết: 1- Nhãn thức. 2- Nhĩ thức. 3- Tỷ thức. 4- Thiệt thức. 5- Thân thức. 6- Ý thức. 7- Tưởng thức. Cho nên nói Danh Sắc tức là nói bảy cái thức này. Danh Sắc chỉ là Thân Tâm của chúng ta mà thôi.

Dâm dục (10Lành) là nhân sanh tử luân hồi, là ma chướng ngăn trở bước đường tu giải thoát. Lòng dâm không trừ thì không ra khỏi trần lao, muốn giải thoát mà không đoạn lòng dâm thì tu ngàn kiếp cũng không bao giờ giải thoát.

Dẫn đạo vào tâm (ThiềnCănBản) là không Như Lý Tác Ý, là nghe nhiều, học nhiều kinh sách mà không có thực hành, hoặc có thực hành thì cũng chỉ là hình thức, lấy lệ, tâm tham danh, thích lợi.

Dẫn tâm vào đạo (ThiềnCănBản) là Pháp Như Lý Tác Ý, Pháp Hướng Tâm. Dẫn tâm vào chân lý giải thoát của đạo thì tâm giải thoát của đạo.

Dẫn tâm vào trạng thái thanh thản (ThiềnCănBản) là dẫn tâm tập nhập Sơ Thiền; dẫn tâm nhập Sơ Thiền là để lập đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng; lập đức nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng là để ly dục ly ác pháp. Tâm có bằng lòng thì tâm mới xả được. Tâm có an vui hạnh phúc là tâm nhập Sơ Thiền; tâm nhập Sơ Thiền là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Dép (OaiNghi) là để giữ gìn vệ sinh đôi bàn chân sạch sẽ, đi chân khôngdép dễ bị những chất bẩn, phân của các loài vật và rác mục... dễ làm cho chân lở loét ngứa ngáy, đau nhức. Không mang dép, đi chân trần trực tiếp va chạm những chất độc dưới đất dễ đem vào cơ thể những bệnh tật, đó là thiếu đức phòng hộ và bảo vệ cơ thể. Không được có hai đôi dép.

Diệt (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.7)(CầnBiết.3)(TâmThư.1)(ThiềnCănBản) là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại. Diệt cũng có nghiã là đóng lại, làm cho ngưng hoạt động, dừng lại.

Diệt các hành (12Duyên) Muốn diệt các hành là phải giữ gìn tâm Bất Động bằng pháp Như Lý Tác Ý và thông suốt Giới Luật Đức Hạnh.

Diệt cảm thọ (12Duyên) là diệt cả hai ÁI (ái lạc và ái khổ). Khi duyên ái bị diệt thì tâm ham muốn ưa thích không còn. Diệt duyên cảm thọ phải có đầy đủ ý chí và nghị lực, chỉ dành cho người có ý chí dũng mãnh kiên cường, chẳng hề nao núng trước cái chết và các cảm thọ đau đớn.

Diệt duyên Ái (12Duyên) Khi Cảm Thọ diệt thì Ái diệt. Do các Cảm Thọ có mà Ái mới có. Chúng ta phân biệt và cảm nhận được các Cảm Thọ. Ái có hai: 1- Ái Lạc có nghĩa là ưa thích, ham muốn, thương mến, dính mắc, chấp trước, luôn luôn chạy theo tìm cầu những dục lạc, khoái lạc, sung sướng v.v... 2- Ái Khổ có nghĩa là không ưa thích, sợ hãi, ghét bỏ, lo lắng, buồn phiền, khổ sở, tránh xa, không chấp nhận, không ham thích, v.v... Diệt Cảm Thọ là diệt cả hai Ái. Khi duyên Ái bị diệt thì tâm ham muốn ưa thích không còn.

Diệt duyên Cảm Thọ (12Duyên) có hai phương pháp diệt duyên Cảm Thọ: 1- Tâm bất động. 2- An trú tâm trong Hơi Thở bằng Định Niệm Hơi Thở hay pháp Thân Hành Niệm. An trú tâm trong Hơi Thởhoặc bằng tâm bất động, pháp nào hợp với đặc tướng của mình thì tu tập sẽ có kết quả tốt đẹp. Nhưng muốn diệt duyên Cảm Thọ thì người ấy phải có đầy đủ ý chí và nghị lực. Nếu không đủ sức chịu đựng những cơn đau xé ruột xé gan thì nên vào các cửa khác. Diệt duyên Cảm Thọ chỉ có người có ý chí dũng mãnh kiên cường chẳng hề nao núng trước cái chết, trước các cảm thọ đau đớn thì mới vào được.

Diệt duyên Lục Nhập (12Duyên) Muốn diệt duyên Lục Nhập thì phải biết cách phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và ngăn chặn sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Muốn giữ gìn sáu căn, sáu trần, trước tiên phải phòng hộ và sau đó mới ngăn chặn. Phòng hộ thì có Hạnh Độc Cư, còn ngăn chặn thì có pháp Như Lý Tác Ý. Nhờ hai phương pháp này thì duyên Lục Nhập bị diệt.

Diệt duyên Sanh (12Duyên) Muốn diệt duyên Sanh thì có ba giai đoạn: 1.- Phải buông xả sạch tất cả vật chất chung quanh ta, chỉ còn sống một đời sống như Đức Phật ngày xưa. 2.- Phải chọn một chỗ thanh vắng yên tịnh như: một gốc cây có bóng mát, một đống rơm, một mái nhà tranh, một bụi tre, v.v... rồi ở đó một mình, khi đi, khi đứng, khi ngồi hoặc khi nằm đều tập Tỉnh Giác, đi thì biết bước đi, còn nằm, ngồi hay đứng đều biết hơi thở ra hơi thở vô. 3.- Tỉnh Giác được như vậy thì chúng ta tiếp tục tu tập dùng sức Tỉnh Giác xả từng tâm niệm và các ác pháp bên ngoài khi chúng tấn công vào thân tâm, trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Đây là giai đoạn xả rốt ráo cho nên phải dùng pháp môn Như Lý Tác Ý, lúc nào cũng phải nhớ Tác Ý.     

Khi tu chứng đạo thì bấy giờ là diệu dụng của tâm thanh tịnh; dùng ý thức thanh tịnh điều khiển làm chủ Sanh, Già, Bệnh, Chết. Nếu vào cửa duyên Sanh thì phải buông xả hết như Đức Phật vì thế Ngài từ bỏ ngai vàng, cha, mẹ. vợ, con và thân bằng, quyến thuộc, chỉ sống ba y một bát đi xin ăn hằng ngày. Nhờ diệt duyên Sanh này mà Ngài mới đoạn tận mọi sự khổ đau.

Diệt Duyên Vô Minh (12Duyên) Muốn đoạn trừ khổ đau thì phải đoạn trừ Vô Minh. Muốn đoạn trừ Vô Minh thì phải triển khai tri kiến, phải học Giới Luật Đức Hạnh và Nhân Quả. Diệt Vô Minh bằng ngưng các Hành. Hành diệt thì Vô Minh diệt. Vậy diệt các Hành như thế nào? Khi muốn diệt trừ Vô Minh thì phải thông suốt những oai nghi giới luật đức hạnh. Học tập Giới Luật Đức Hạnh xong thì Vô Minh tự diệt trừ. Vô Minh tự diệt trừ, đó là triển khai sự hiểu biết của đạo Phật, nhất là về Nhân Quả, thông suốt Nhân Quả thì Vô Minh đã diệt.

Diệt Duyên Xúc (12Duyên) Diệt duyên Xúc bằng cách phòng hộ sáu căn, tìm cách tránh sáu trần bằng phương pháp sống Độc Cư một mình. Khi sáu căn phóng ra tiếp xúc sáu trần thì Tác Ý cho sáu căn quay vào trong thân. Câu tác ý rất đơn giản như sau: 1- Mắt phải quay vào thấy sự Bất Động trong thân, không được nhìn ngó ra ngoài. 2- Tai phải quay vào nghe sự Bất Động trong thân, không được nghe ra ngoài. 3- Mũi phải quay vào ngửi trong thân Bất Động không được ngửi những mùi hương bên ngoài. 4- Thân phải cảm giác sự Bất Động trong thân, không nên cảm giác nóng lạnh đau nhức bên ngoài. 5- Miệng phải quay vào cảm nhận sự Bất Động trong thân mình, không được cảm nhận nêm nếm những mùi vị bên ngoài. 6- Ý phải quay vào trong thân cảm nhận sự Bất Động của thân tâm không được cảm nhận vọng tưởng lăng xăng hay bất cứ một pháp trần nào tác động vào. Tất cả những phương pháp tu tập trên đây đều là pháp Phòng Hộ Sáu Căn diệt được duyên Xúc. Do Xúc diệt thì Cảm Thọ diệt. Muốn duyên Xúc diệt thì phải tu tập tâm luôn luôn ở trong trạng thái tâm Bất Động.

Diệt Ðế (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.9)(ĐườngRiêng)(Tạoduyên) Diệt là tiêu diệt, trừ diệt, Ðế là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu một cách rõ ràng không có mờ mịt, trừu tượng, ảo tưởng bằng tưởng tri.

Diệt Ðế là trạng thái tâm đã đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp, là đã giải thoát hoàn toàn tức là người đã làm chủ sự sống chết của mình. Diệt Ðế là trạng thái tâm lý thật sự không còn khổ đau của kiếp người, tức là diệt tận gốc đau khổ, là trạng thái tâm Vô lậu, nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Trạng thái chấm dứt mọi khổ đau đó là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, là một sự thật. Trong tâm bất động như vậy có một niềm vui an lạc mà không có dục.Khi thân tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm đã giải thoát. Chân lý thứ ba Diệt Ðế là trạng thái “bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”, khi ngồi im lặng rồi lắng nghe thì thấy tâm hiện ra trạng thái đó ngay liền, nhưng nếu chỉ còn có một niệm tham, sân, si, mạn, nghi khởi lên thì ngay tức khắc trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự đó liền mất.

Diệt Ðế là Niết Bàn, là trạng thái tâm diệt dục, chân lý thứ ba trong sự tu tập đi trên đường giải thoát. Người tu giải thoát không có đi về đâu, không có cõi Niết Bàn để đi. Trạng thái tâm ly dục ly ác pháp là cảnh giới của người đã giải thoát ở đó. Một trạng thái giải thoát thật sự rất cụ thể, rõ ràng, không mơ hồ, trừu tượng, mà mọi người ai cũng nhận ra được bằng ý thức của mình.     

Diệt đế là chỉ cho tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ; là một đời sống bình an và hạnh phúc không còn khổ đau nữa. Ðó chính là mục đích giải thoát của Phật giáo rõ ràng và cụ thể. Diệt đế là trạng thái diệt hết nguyên nhân sinh ra mọi thứ khổ đau, cho nên khi nào tu tập đoạn diệt hết tâm dục tức là diệt hết lòng ham muốn, diệt hết lòng tham muốn tức là tâm bất động. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là vô tướng tâm định. Trong vô tướng tâm định không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Do ba lậu hoặc này không có nên gọi là vô tướng tâm định. Vô tướng tâm định tức là tâm không phóng dật.

Diệt Ðế là chân lí, vì - Thứ nhất là kinh thường nhắc đến Bốn Chân Lí của Phật giáo. - Thứ hai là kinh đã xác định Diệt Ðế là diệt hết lòng ham muốn. - Thứ ba là kinh đã chỉ định trạng thái hết lòng ham muốn. Ðó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. - Thứ tư là trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Bốn điều này nếu người nào chưa tu cũng nhận ra được, đó là một trạng thái thật sự của con người, chứ không phải là cảnh giới bên ngoài. Bởi vậy ba cấp và tám lớp tu học của Phật giáo giúp cho mọi người ly dục, từ bỏ ác pháp, diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi để dẫn đến trạng thái Diệt Ðế như trên.

Diệt ngã (ThiềnCănBản) Diệt ngã là lấy lỗi người tự sửa lỗi mình, hoặc ngừa lỗi mình để tiến tu, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp. Trực tiếp ngay lỗi mình, cũng phải tự quán xét, tự nhận ra lỗi mình, tự nhận ra điều sai quấy để sửa mình, để diệt ngã xả tâm. Diệt ngã là khi nghe bài học thử thách của ai, tưởng đó là của mình, nên lấy đó quán xét lỗi mình và vui vẻ nhận lỗi ấy để xả tâm.     

Muốn tu tập ba đức, ba hạnh để ly dục diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp thì phải khai triển tri kiến nhân quả, phải suy xét tư duy thấu đáo nhân quả. Pháp quán về nhân quả rất cần thiết vì càng quán về nhân quả thì tri kiến giải thoát (tu huệ) càng phát triển, càng triển khai thấy rõ đường đi lối về của nhân quả. Thông suốt Pháp chưa được dạy, và thông suốt hơn nữa những điều đã được dạy, gọi là thấu rõ đường đi lối về của nhân quả. Khi thấu rõ đường đi lối về của nhân quả thì tâm chúng ta mới xả được mọi chướng ngại pháp, mọi nghiệp lực, nhờ đó tâm mới được thanh thản an lạc và vô sự, mới được gọi là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Tu hành như vậy mới gọi là hộ trì và bảo vệ chân lý.

Diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp (TâmThư.2) Tất cả các pháp xả tâm chỉ có giới luật đức hạnh diệt ngã xả tâm là con đường tu của Phật giáo, ngoài giới luật đức hạnh thì không có pháp nào diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp tốt nhất. Trong đạo Phật chỉ có giới luật là pháp xả tâm không bị ức chế mà thôi, còn tất cả pháp khác tu tập đều bị ức chế tâm cả. Khi học ở lớp xong, về thất sống độc cư không giao tiếp nói chuyện với ai hết, sống một mình để gạn lọc tâm tư, nếu tâm còn nhiều vọng niệm thì thực hiện tri kiến giới luật đức hạnh xả tâm bằng pháp môn tứ chánh cần (ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp), còn nếu tâm ít vọng niệm thì thực hiện bằng pháp môn tứ niệm xứ (Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu) và tu tập pháp chánh niệm tỉnh giác 30 phút vào buổi khuya khi mới thức dậy hoặc khi bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, v.v… tu tập như vậy là để giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Có ly dục ly ác pháp mới nhập được thiền định. Bởi vậy đạo đức hiếu sinh là một pháp môn giúp cho tu sinh tu tập định vô lậu, chứng đạo quả bồ đề.

Diệt nghiệp (Tạoduyên) là làm chủ thân tâm.

Diệt nghiệp đoạn ái (Tạoduyên) Diệt nghiệp là làm chủ thân tâm; đoạn ái là chấm dứt tái sanh luân hồi.

Diệt niệm (Tạoduyên) diệt niệm của Tiểu Thừa là diệt niệm ác, còn niệm thiện không diệt, cho nên Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, hoặc: “Thấy lỗi mình không thấy lỗi người”, để vào Bất Ðộng Tâm Ðịnh.

Diệt tầm (Tạoduyên) (nhưng chưa diệt tứ) do tu tập giới luật. Diệt tầm tức là không vọng khởi, không phải diệt tầm tứ theo kiểu Nhị Thiền.

Diệt Tầm Tứ (Tạoduyên)(MuốnChứngĐạo) là diệt ý thức của mình không cho nó hoạt động, khi đó thì trời sét đánh không nghe, bởi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Như vậy khi nhập Nhị Thiền thì ý thức phải ngưng hoạt động hoàn toàn, giống như một người đang ngủ say. Muốn làm được việc này thì phải tu đúng pháp Tứ Niệm Xứ, nhờ vậy mới có những thần lực diệt Tầm Tứ. Muốn diệt Tầm Tứ phải ra công tu tập ngày đêm không biếng trễ. Những người tu đúng pháp Tứ Niệm Xứ có Định Như Ý Túc thì nhập các loại thiền định này dễ như trở bàn tay, nhập tới Tứ Thiền hay bất cứ một loại thiền định nào cũng dễ dàng, họ chỉ truyền lệch là thân tâm họ nhập thiền định đó liền.

Diệt tầm tứ ác (CầnBiết.5) phải tu tập phòng hộ sáu căn, thiểu dục tri túc, ăn ngủ không được phi thời, tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, tu Định Vô Lậu (ly dục ly ác pháp), Tu tập Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Muốn diệt tầm tứ (ác và thiện), chỉ có Tứ Thần Túc thì diệt tầm tứ rất dễ dàng, ngoài Tứ Thần Túc diệt tầm tứ rất khó khăn.

Diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền (Tạoduyên) Diệt tầm là tâm không; diệt tứ là thân không. Khi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, rời sét đánh không nghe vì đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra.

Diệt tầm tứ thiện (CầnBiết.5) phải tu Định Niệm Hơi Thở, định diệt tầm giữ tứ, tu tập pháp hướng tâm, tu tập định diệt tứ. Muốn diệt tầm tứ, chỉ có Tứ Thần Túc thì diệt tầm tứ rất dễ dàng, ngoài Tứ Thần Túc diệt tầm tứ rất khó khăn.

Diệt Tận Ðịnh (ĐườngVề.6) là một loại thiền định bất động cả thân lẫn tâm vì khi nhập thiền này thì các cảm thọ và các tưởng đều diệt cho nên thân ngồi bất động.

Diệt thọ tưởng định (ĐườngVề.3) thì thân tâm như cây đá, thân giống như người chết nhưng không hoại diệt nhờ từ trường định của diệt thọ bảo vệ, trong lúc nhập Diệt Thọ Tưởng Ðịnh không có lậu hoặc. Nhập Tam Thiền không thể vượt qua năm ấm được, chỉ có nhập Diệt thọ tưởng định mới vượt qua năm ấm.

Diệt trừ bản ngã (ĐườngVề.5) là điều quan trọng trong Phật giáo. Nếu không diệt bản ngã thì không bao giờ có giải thoát. Để diệt bản ngã hành giả phải hành đúng pháp tức là phải tu tập đúng Bát Chánh Ðạo, ngoài Bát Chánh Ðạo thì không có pháp nào tu tập diệt ngã được. Ðức Phật đã xác định Bát Chánh Ðạo có những pháp môn tu tập rõ ràng và cụ thể. Khi chúng ta thường tác ý quán theo lời dạy của Ðức Phật thì bản ngã của chúng bị diệt: “Thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta” hoặc về thân ngũ uẩn: “Sắc uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Thọ uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Tưởng uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Hành uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Thức uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Ðức Phật còn dạy diệt ngã trong kinh: "Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri". Khi nhận ra sáu căn, sáu thức này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì ngay đó bản ngã đã được diệt và bản ngã đã được diệt thì sự giải thoát là ở chỗ đó. Diệt sạch được bản ngã là vị đó đã chứng đạo, đã tu xong, chứ không phải còn ở trên đường đang tu tập nữa. Một người tu sĩ hay cư sĩ khi diệt trừ được ngã thì tâm họ như đất dù ai có đổ các chất bẩn trên đất thì đất cũng không buồn phiền, và nếu ai có đổ vàng ngọc trên đất thì đất cũng chẳng mừng vui. Người diệt được ngã là người sống trong trạng thái tâm không phóng dật. Khi tâm không phóng dật thì tâm định trên thân, tâm định trên thân là tâm bất động, tâm bất động là trạng thái “Diệt Ðế”, tức là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật.

Diệt trừ tâm ngã mạn (ĐườngVề.5) Khi bản ngã khởi lên thấy mình hơnngười thì phải tự quán xét mình và tác ý: “Mình hơn người này, nhưng còn nhiều người khác hơn mình, mình phải bỏ cái tâm ngã mạn đó đi”. Và khi thấy người hơn mình thì không sanh tâm ganh ghét đố kị. Khi quán xét và tác ý như vậy thì người đó dần dần sẽ xả được tâm ngã mạn. Bản ngã càng nhỏ bé thì con đường tu càng tiến bộ. Người tu mà xả được bản ngã thì không thấy mình hơn người, không thấy mình đạo cao chức trọng.

Diệt tứ (Tạoduyên) muốn diệt tứ phải tiếp tục nương Ðịnh Niệm Hơi Thở để diệt tứ bằng pháp hướng tâm nhập Nhị Thiền. Cần lưu ý: khi nào hết vọng tưởng mới tu pháp hướng tâm diệt tứ, nghĩa là diệt tứ bằng cách nương vào hơi thở dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp Môn. Nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp hướng tâm diệt tứ, thì tu hành hoài công vô ích. Vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục, ly ác pháp chưa sạch. Tâm ly dục, ly ác pháp chưa sạch là tâm còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công, chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành, và về sau còn tai hại rất lớn vì bệnh thần kinh. (Tu giới luật ly dục diệt tầm, tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập Mục Ngưu Ðồ của Thiền Tông, trâu quên còn người. Hay với kinh sách phát triển “độ hết chúng sanh thành Phật”). Kinh sách phát triển không thể tương ưng với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu giới luật ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn, thanh tịnh, thường trống không, lặng lẽ, nhưng rất tỉnh giác, sáng suốt, và ý tứ làm chủ cuộc sống, nên tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ, hơn thua, v.v... Còn kinh sách phát triển khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị thiền sư nào đó cứ ôm ấp chữ “như” trong đầu, nên qua sông quên mặc quần áo.

Diệu Hạnh (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.1)(3Qui5Giới) là những oai nghi tế hạnh của một tu sĩ, là những hành động ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp của Tứ Chánh cần; Diệu Hạnh là những hành động từ, bi, hỷ, xả của Tứ vô Lượng Tâm.

Diệu Pháp (TrợĐạo) diệu pháp không phải là pháp cao siêu vĩ đại mà chỉ là một pháp thuyết về con người khiến cho mọi người hiểu biết (giác ngộ) rõ ràng, thuyết đến đâu khiến cho mọi người hiểu biết (giác ngộ) rõ ràng đến đó không có một chỗ nào không biết. Pháp môn Tứ Diệu Đế nói rõ sự chân thật của một kiếp làm người: Toàn bộ thân tâm con người là một khối khổ, thân tâm con người là pháp vô thường.

Dung thông (10Lành) nghĩa là phải tùy thuận lại đối tượng để giải quyết tâm lý mình một cách rất tế nhị và phi thường. Ðó là một pháp môn mầu nhiệm và cần thiết cho những ai muốn hưởng được hạnh phúc chân thật trong cõi thế gian này. Mười điều lành là pháp môn dung thông vạn hữu với tâm mình. Nhờ pháp môn này mà vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ mới tùy thuận lẫn nhau, mới chung sống với nhau, mới hoàn mãn sự giải thoát nơi tâm hồn mình. Thể hiện như vậy, vạn hữu không còn là chướng ngại, nó là tâm mình, tâm mình là vạn hữu. Chúng ta phải hiểu Mười điều lành, Tâm mình và Vạn hữu đều là Ðịnh và Dụng của một thể tánh vũ trụ. Thế nên từ động đến định, từ tịch đến chiếu thảy đều là nguồn giải thoát trong lòng hỗ tương nhân ái của mỗi chúng sanh.

Duy Thức Tông (ĐườngVề.1) biến Phật giáo thành khoa tâm lý học.

Duy trì mạng căn và tiếp tục sống (PhậtDạy.4) để duy trì mạng căn và tiếp tục sống thì phải tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Pháp môn Tứ Niệm Xứ còn gọi là pháp môn quét tâm. “1- Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu. 2- Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu. 3- Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu. 4- Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”.Khi thân tâm không có chướng ngại pháp thì trạng thái ấy là trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự, là trạng thái của tâm Tứ Niệm Xứ. Trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự không còn có tâm tham, sân, si hay những sự phiền muộn khổ đau nữa. Phật pháp không dối người, chỉ có con người không chịu tu tập nên không làm chủ sự khổ đau của kiếp người mà thôi. Khi có một niệm ác tác động vào thân tâm thì quan sát thấy ngay liền. Lúc bấy giờ dùng pháp môn như lý tác ý mà quét niệm ác đó ra. Đẩy lui được bệnh (niệm ác) thì thân tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự.

“Duy trì mạng căn tiếp tục sống” tức là đức Phật đang giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đó là phương pháp duy trì mạng căn và tiếp tục sống. Như vậy rõ ràng đức Phật dùng pháp môn này mà làm chủ sự sống chết, bệnh tật thì chúng ta cũng tu tập pháp môn này sẽ cũng làm chủ được sự sống chết, bệnh tật và kéo dài tuổi thọ của chúng ta, sống chết tự tại như Phật ngày xưa.

Duyên bên ngoài (TrợĐạo) gồm có: 1./ Sắc là tướng mạo, hình sắc của vạn vật trong vũ trụ, 2./ Thinh là âm thanh, tiếng nói, tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên, tiếng la hay tiếng hét, v.v... 3./ Hương là mùi thơm, mùi thơm nồng nực, mùi thối, hay mùi thối khó chịu; 4./ Vị là vị ngọt, bùi, cay, đắng, mặn, lạt; 5./ Xúc là va chạm, sờ mó, rờ rẫm, xoa bóp.

Duyên Lục Nhập diệt (12Duyên) thì duyên Xúc diệt. Từ duyên Xúc diệt thì duyên Thọ diệt. Từ duyên Thọ diệt thì duyên Ái diệt. Từ duyên Ái diệt thì duyên Hữu diệt. Từ duyên Hữu diệt thì duyên Thủ diệt. Từ duyên Thủ diệt thì duyên Sinh diệt. Từ duyên Sinh diệt thì duyên Già, Bệnh, Chết diệt. Từ duyên Già, Bệnh, Chết diệt thì duyên Vô Minh diệt. Từ duyên Vô Minh diệt thì duyên Hành diệt. Từ duyên Hành diệt thì duyên Thức diệt. Từ duyên Thức diệt thì duyên Danh Sắc diệt. Từ duyên Danh Sắc diệt thì duyên Lục Nhập diệt.”, cửa lục nhập bị diệt là phá tan mọi sự khổ đau của con người.

Duyên nghiệp buộc ràng (ĐườngVề.2) duyên nghiệp cứ buộc ràng, không thể bỏ đi tu được, có ba nguyên nhân chính: 1- Nợ nhân quả quá nặng. 2- Thất kiết sử quá dầy. 3- Ngũ triền cái ngăn che. Đó là ba mạng lưới bao vây kiếp con người, mãi mãi trôi lăn trong biển sanh tử, luân hồi và khổ đau trong nhiều đời nhiều kiếp. Người cư sĩ muốn vượt qua bức tường nhân quả này thì nên: 1- Tu tập xả ly năm triền cái bằng đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng, 2- Luôn luôn trau dồi thân tâm trong mọi hành động thân, khẩu, ý bằng “Tứ Vô Lượng Tâm: Ðức hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả”, 3- Dứt bỏ 10 điều ác và cố tăng trưởng 10 điều lành, 4- Cần phải thông hiểu và nghiên cứu tường tận đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình, khổ người, 5- Hằng ngày phải nhớ dùng pháp hướng tâm như lý tác ý: “Tâm như đất, tham, sân, si phải đoạn diệt sạch”.

Duyên Sinh Pháp (12Duyên) già chết là pháp hữu vi, là vô thường, duyên sanh biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh. Và tất cả mười hai nhân duyên đều là như vậy. Khi hiểu mười hai nhân duyên thì trong quá khứ chúng ta chẳng có gì cả tức là không có đời trước. Khi ngộ được mười hai nhân duyên thì không có kiếp trước mà chỉ có kiếp hiện tại mà thôi. Vì mười hai nhân duyên đã xác định chúng ta có mặt trong hiện tại là do các duyên hợp lại mà thành chớ không có cái gì là chúng ta cả. Cho nên nếu không có mười hai nhân duyên hợp lại thì không có con người trên hành tinh này. Với đôi mắt Vô Minh nên có con người thật trong hiện tại, quá khứ và vị lai.

Duyên vô minh (12Duyên) Do từ duyên Vô Minh mà mười hai nhân duyên mới tập khởi được. Và vì vậy Sanh, Già, Bệnh, Chết mới có. Chính Sanh, Già, Bệnh, Chết là do duyên Vô Minh chứ không phải tự mình hoặc người khác làm ra Sanh, Già, Bệnh, Chết. Muốn sanh, già, bệnh, chết chấm dứt thì phải đoạn diệt hoàn toàn Vô Minh. Muốn đoạn diệt Vô Minh chúng ta phải chấp nhận sống đời sống phạm hạnh để tận trừ 12 nhân duyên. Muốn đoạn trừ Vô Minh thì phải triển khai tri kiến bằng cách học giới luật đức hạnh và nhân quả. Học tập giới luật đức hạnh xong thì Vô Minh tự diệt trừ. Người mà các hành ác diệt là người thông suốt giới luật đức hạnh.

Dùng chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác (PhậtDạy.2) là giới đức, giới hạnh, giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ. Khi tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác mà chỉ nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc.

Dục (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.6)(ĐườngRiêng)(CầnBiết.4)(ĐạoĐức.2)(GiớiĐức.1) là lòng ham muốn của mình, nó là nguyên nhân sinh ra muôn vạn sự đau khổ cho nên lòng ham muốn còn là còn đau khổ, do vậy phải dứt trừ lòng ham muốn. Nếu không xa lìa, từ bỏ lòng ham muốn thì không bao giờ tâm thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh thì không có đủ bảy năng lực Giác Chi để nhập các định chứng Tam Minh. Cho nên, tâm còn ham muốn dù sự ham muốn ấy nhỏ như hạt cát thì cũng khó mà tìm thấy sự giải thoát thân tâm mình. Tâm bất tịnh là tâm còn dục, là tâm không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh dù có ngồi thiền năm, bảy ngày, một tháng, hai tháng, một năm…thì thiền định ấy vẫn là tà thiền, tà định. Tâm ly dục ly ác pháp dù không ngồi thiền nhập định năm, bảy ngày thì tâm ấy cũng vẫn là tâm nhập định. Điểm sai khác thiền định của Phật và thiền định của ngoại đạo là ở điểm này. Tâm ta thường hay bị chướng ngại do các ác pháp bên ngoài tác động vào làm cho nó khổ đau. Mục đích ly dục ly ác pháp còn có nghĩa là ngăn ngừa lòng dục bên trong tức là không cho khởi lên lòng ham muốn, nếu nó có khởi lên lòng ham muốn thì phải quán xét tư duy để diệt nó ngay liền. Dùng tri kiến quán xét vào tâm của mình rất tỉnh táo từng phút, từng giây tác ý để ngăn và diệt lòng ham muốn. Nhờ pháp tu hành như vậy nên lòng ham muốn càng lúc càng giảm, càng lìa ra. Cuối cùng tâm dục lần lượt bị diệt mất.

Dục có hai phần: 1. Dục thiện (đạo đức); 2. Dục bất thiện (vô đạo đức). Phật giáo chủ trương diệt dục ác, tăng trưởng và nuôi dưỡng dục thiện, nhưng người sau không hiểu ý nghĩa này, nên tưởng giải cho Phật giáo chủ trương diệt dục, là diệt cả dục thiện và dục ác. Diệt cả dục thiện và ác, đó là một triết thuyết ảo tưởng của người sau, không thực tế, thiếu chân thật. Bản chất con người là dục, nếu diệt dục tức là diệt con người, mà diệt con người để làm gì? Có ích lợi gì? Phật giáo ra đời vốn giúp con người thoát khổ, chứ đâu phải ra đời dạy diệt con người. Diệt dục là diệt con người, làm cho con người thành như đất đá. Con người sống mà như đất đá thì còn nghĩa lý gì là con người nữa. Diệt con người thì còn gì là hạnh phúc của con người nữa (chữ hạnh phúc ở đây chúng tôi muốn chỉ cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự, chứ không phải theo nghĩa hạnh phúc của dục lạc trai gái lứa đôi, hay sự hoà thuận trong gia đình, cha mẹ nói con cái vâng lời, trên dưới hòa hợp không chống trái nhau). Bản chất con người là dục, vì thế con người không thể diệt dục mà chỉ diệt dục ác pháp, hay nói đúng nghĩa là diệt dục ác. Chính con người thường khổ đau là vì dục ác. Dục thiện là một bản chất tốt. Người ta làm thiện, muốn cho mình không khổ, người khác không khổ, ấy là dục tốt, dục không làm hại mình, không làm hại người là dục tốt; dục không tham, sân, si là dục tốt; dục không giết hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh là dục tốt; dục không tham lam, không vọng ngữ, không tà dâm, không nói thêu dệt, không vu khống người, không nói lời hung dữ, thô ác, đó là dục tốt. Ðạo đức nhân bản nhân quả là dục tốt. Muốn làm chủ sinh, già, bệnh, chết là dục tốt... Ở đây không diệt dục thiện vì dục thiện là đạo đức làm người, mà chỉ diệt dục ác, dục ác là không đạo đức, chỉ làm khổ mình, khổ người. Nếu con người muốn toại nguyện trong việc sống an vui hạnh phúc, thì duy nhất chỉ còn lòng ham muốn sống trong thiện pháp (tức là đạo đức làm người).

Như vậy, muốn thoát ra mọi sự đau khổ thì cần phải thấu rõ hành động nào thiện, hành động nào ác. Thấu rõ được hành động nào ác thì hành động ác không làm, mà luôn làm hành động thiện. Do sự vô minh không rõ thiện ác, nhân quả, mà chúng ta sống thiếu đạo đức làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Sự đau khổ trong thế gian này được đức Phật xem như là sự bẩn thỉu, ô trược, hôi thối, bất tịnh. Chúng do từ ác pháp sinh ra. Mặc dù dục là nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ nhưng có loại dục không đau khổ, đó là dục không làm khổ mình, khổ người; dục làm lợi ích cho người, cho mình, dục làm chủ sanh, già, bệnh, chết thoát khổ của kiếp làm người; dục chấm dứt luân hồi sanh tử. Ðó là những dục thiện mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tăng trưởng. Bởi vậy dục có thiện dục và có ác dục nên đức Phật dạy chúng ta diệt dục ác không diệt dục thiện. “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện” là nghĩa ấy vậy. Diệt dục thiện lẫn dục ác thì chúng ta trở thành cây đá còn đâu gọi là đi tìm sự giải thoát.

Trong kinh, Phật dạy Dục là “lòng ham muốn” do tâm dục của con người. Trong Tứ Thánh Ðế, Ðức Phật đã xác định “Dục” là nguyên nhân sanh ra muôn thứ khổ. Ví dụ: ăn là một dục lạc trong ngũ dục lạc: Sắc, danh, lợi, thực, thùy. Người đang ăn cảm thấy có dục hỷ lạc, nên thích ăn, nếu không có dục hỷ lạc thì họ không thích ăn. Vậy một tu sĩ ly dục “Ăn”, chỉ ăn ngày một bữa để sống, thì đâu có hỷ dục lạc bằng người ăn ba bữa phải không? “Dục” là nguyên nhân sanh ra muôn thứ khổ của loài người, nên gọi là Tập Ðế. Tập Ðế là nơi tập trung các thứ khổ. Khi đã ly được tâm dục đó thì nỗi khổ của con người đã thoát. “Diệt Ðế” là diệt hết tâm ái dục tức là diệt hết dục, diệt hết dục tức là Niết Bàn. Vậy Niết Bàn có giải thoát không? Ðã nói Niết Bàn mà không giải thoát sao? Phật đã xác định và thấm nhuần lý “dục” là lòng ham muốn, sự ham muốn ác pháp (Tập Ðế), nên Ngài chủ trương ly dục, diệt dục. Nếu không xa lìa, từ bỏ lòng ham muốn ác pháp thì cuộc đời tu hành chỉ hoài công vô ích mà thôi. Nếu không ly dục thì không bao giờ tâm thanh tịnh. Tâm ly dục ly ác pháp dù không ngồi thiền nhập định năm, bảy ngày thì tâm ấy cũng vẫn là tâm nhập định. Cho nên, Phật giáo lấy giới luật tu tập mà thành thiền định. Phạm giới, bẻ vụn giới, dù ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng hai tháng... vẫn là thiền tưởng mà thôi.

Dục ái (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là lòng yêu thương; trong dục ái có sự yêu thương của nam nữ. Nếu tâm dục ái hết thì con người giải thoát, không còn đau khổ nữa. Muốn từ bỏ tâm dục ái thì chỉ có con đường duy nhất của đạo Phật, ngoài con đường ấy ra, thì không còn có con đường nào khác nữa.

Dục bộc lưu (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn.

Dục của tâm (TruyềnThống.1) là sắc dục, thùy miên, hôn trầm. Cho nên, người ăn nhiều dễ sanh ra buồn ngủ, lười biếng, dâm dục; nhưng nếu ăn ít quá thì cơ thể thiếu những chất bồi dưỡng, sanh ra yếu đuối, dễ bị bệnh tật và nhiều điều khác nữa. Ăn ngày một bữa là đủ cho cơ thể có một sự sống tốt đẹp. Người đời tưởng ăn nhiều là khoẻ mạnh, nhưng thật ra, ăn nhiều cơ thể phải làm việc nhiều để tiêu hóa thức ăn. Cơ thể tự động làm việc nhiều thì người mau già, tuổi thọ bị giảm.

Dục giới (Phậtdạy.3) thế giới của loài người và loài thú vật trong cõi thế gian này, thường sống trong dục (ham muốn).

Dục hữu (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Dục: lòng ham muốn; hữu: có. Dục hữu là nói tâm trạng của tất cả loài người và các loài động vật trong vũ trụ, nhất là loài người và các loài động vật trên hành tinh này đều có sự ham muốn (thích dục) Cõi dục giới có nghĩa là thế giới của loài người và loài thú vật trong cõi thế gian này vì loài người và các loài động vật đều có sự ham muốn (thích dục) giống như nhau, nên thường sống trong dục (ham muốn). Nói dục hữu là nói tâm trạng của tất cả chúng sanh trong vũ trụ nhất là loài người và các loài động vật trên hành tinh này.

Dục Như Ý Túc (ĐườngRiêng) là ý muốn cái gì thì thân tâm làm theo cái nấy.

Dục tầm (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là ý niệm về dục khởi lên, là lòng ham muốn khởi lên trong ta, bất cứ một sự ham muốn điều gì đều là dục tầm. Ví dụ: Chúng ta đang tu tập giữ gìn tâm không phóng dật, thì bỗng dưng khởi niệm thần thông: nếu tu tập có thần thông mình sẽ phóng hào quang hoặc tịnh chỉ hơi thở cho phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình biết, để loan tin thì chắc chắn người ta sẽ theo đạo Phật nhiều và như vậy chúng ta sẽ chấn hưng Phật giáo rất nhanh. Những niệm khởi như vậy gọi là dục tầm. Nhờ có xa lìa dục tầm ta mới thấy được tâm thanh thản, an lạc và vô sự; tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp là tâm nhập Sơ Thiền, là tâm lìa tham, sân, si. Tâm lìa tham sân, si là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh ấy là thiền định của đạo Phật

Dục tham (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là lòng ham muốn.

Dục tham ám ảnh, dục tham chi phối (PhậtDạy.1) Dục tham là lòng ham muốn; ám ảnh là hiện ra lởn vởn trong trí day dứt không yên; chi phối là tác dụng điều khiển. Nghĩa chung của câu tham dục ám ảnh là lòng tham muốn hiện ra lởn vởn trong trí day dứt không yên, nghĩa câu tham dục chi phối là lòng tham muốn tác dụng điều khiển, sai khiến. Nghĩa chung là khi ngồi lại một mình nơi thanh vắng thì lòng tham muốn khởi lên day dứt, tác động điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất tự chủ. Người đời không biết tu hành nên dễ bị tâm tham dục sai khiến, khiến cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.

Dục tham triền cái (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là cái màn ngăn che lòng tham muốn, khiến cho ta không thấy, nhưng lòng tham muốn vẫn còn nguyên. Năm triền cái Dục tham, Sân, Hôn trầm thùy miên, Trạo hối, Nghi này là năm pháp ngăn che làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do đó, nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc để thực hiện Bốn Thiền và Tam Minh. Muốn đoạn tận năm triền cái này thì chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận năm triền cái.

Dục thủ (CầnBiết.4) Dục là lòng ham muốn; thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ dục thủ có nghĩa là bảo thủ, cố chấp vào lòng ham muốn của mình, hay còn có nghĩa là không buông bỏ lòng ham muốn.

Dũng (3Qui5Giới) diệt được những gì cần phải diệt.

Dừng cái ý (ĐườngVề.5) có nghĩa là ý khởi niệm gì thì không duyên theo ý niệm đó, nếu duyên theo ý niệm đó là hành động theo dục, nó sẽ đưa đến hại mình, hại người và hại cả hai. Ví dụ: Trong Tu viện, Thấy người làm sai một điều gì thì không được nói, không được nhắc nhở họ, chỉ có thể nói cho Thầy biết để sửa đổi họ mà thôi. Do đó, tâm không duyên theo cảnh mà khởi động, tại vì mình còn đang tu tập.

Dự kiện (PhậtDạy.1) nghĩa là những cơ sở để tìm tòi, là những điều coi như biết trước, đã dự phòng trước, đức Phật khuyên chúng ta đừng tin một cách hời hợt đối với những dự kiện, tại vì những dự kiện chưa hẳn đã mang lại lợi ích thiết thực cho mình, đừng vội tin mà hãy tư duy kỹ lưỡng.

Dự lưu (PhậtDạy.4) khi tu tập có những kết quả nho nhỏ.

Dự tính làm phước lành (hành), dự tính làm phi phước lành (hành), dự tính làm bất động lành (hành) (12Duyên) một người tu sĩ còn bị vô minh chi phối làm việc thiện thì tâm (thức của người ấy)hướng về việc thiện, chớ không thể hướng về giải thoát được, cũng như dự tính làm phi phước lành làm một việc bất thiện thì tâm (thức của người ấy) hướng việc bất thiện, chớ không thể hướng về sự giải thoát. Làm việc thiện thì hưởng phước báo của việc thiện, làm việc ác thì phải thọ chịu quả khổ đau của việc làm ác đó. Nếu một người tu sĩ còn vô minh, mà đem hết sức mình ra làm những việc thiện để cầu được phước báo nhân thiên; để cầu hưởng được những công đức lợi lạc cho mình, cho người; để được sự an vui giải thoát, điều này không bao giờ có.

Dựa vào Như Lai (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.2)(4BấtHoại)(CữSĩTu) nghĩa là sống giống như Như Lai, có nghĩa là tất cả oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn, uống, mặc y, mang bát, v.v... đều có mặt Như Lai đang theo mình từng bước, từng việc làm, từng oai nghi tế hạnh. Ðó là niệm Phật đúng nghĩa.

Dựng lại Chánh pháp của Phật (TâmThư.2)(Tạoduyên) làm sống lại pháp Phật Sakya Gotama giảng dạy ngày xưa, hôm nay được những người phật tử học và tu tập. Có ba giai đoạn: Giai đoạn một: Thầy viết sách đả phá cái sai, dựng lại cái đúng của Phật giáo. Thầy phải chịu đựng suốt 25 năm (2005). Ðến hôm nay duyên đã đủ mới có Thanh Quang trợ giúp Thầy xin phép in ấn. Xin phép in kinh sách là điều quan trọng hàng đầu trong vấn đề chấn chỉnh Phật giáo. Giai đoạn hai: Kinh sách có giấy phép thì phải có người đứng lớp dạy tức là nhân sự. Thời gian đào tạo nhân sự quá ngắn nhưng các con cố gắng sẽ thành công, vì lúc nào cũng có Thầy ở một bên vừa giúp các con đứng lớp thuyết giáo và thân giáo do giới luật đức hạnh xả tâm nên các con đủ lòng tin của mọi người. Giai đoạn ba: Khi đã có nhân sự thì vấn đề Trung Tâm An Dưỡng xin phép không phải còn khó khăn nữa.

Dòng chuyên tu (ĐườngVề.6) các tu sĩ đang tu hành chưa xong, chỉ lo chuyên tu, sống hằng ngày ăn một bữa để thực hiện chiều sâu của Phật pháp.

Dòng Thánh (Phậtdạy.3) là quả Tu Đà Hoàn tương ưng với quả Sơ Thiền ly dục ly ác pháp.

Dòng tiếp hiện (ĐườngVề.6) Khi các tu sĩ dòng chuyên tu tu hành đã xong, thì rời khỏi tu viện, nhập thế làm việc và giữ chức vụ, vai trò điều hành xã hội để thực hiện giữ gìn an ninh đất nước và sản xuất, lương thực, thực phẩm, v.v…, giúp đỡ cho dòng chuyên tu có thực phẩm sống hằng ngày ăn một bữa để thực hiện chiều sâu của Phật pháp.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH 

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai; 

***