• ttl1
  • thanhanhniem2
  • khatthuc1
  • quetsan
  • thanhanhniem1
  • lailamtoduong1
  • tranhducphat
  • vandao2
  • ttl3
  • thanhanhniem3
  • amthat2
  • ThayTL
  • lopbatchanhdao
  • phattuvandao3
  • amthat3
  • tinhtoa1
  • benthayhocdao
  • amthat1
  • phattuvandao1
  • chanhungphatgiao
  • vandaptusinh
  • tamthuphattu
  • tinhtoa2
  • toduongtuyetson
  • daytusi
  • huongdantusinh
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Am thất
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
JGLOBAL_PRINT

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần Đ)

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

Đ

Đa văn (CầnBiết.4) Ða văn là trình độ hiểu biết (kiến thức), nhưng không phải là trình độ học thức thế gian, học thức kinh sách, mà là trí thông minh, nghe, hiểu và tiếp nhận nghĩa lý thiện pháp cụ thể rõ ràng, luôn luôn phải nhớ nghĩ những điều thiện đã được nghe; thường lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong đầu những điều nghe, thấy, hiểu về thiện pháp. Nhờ đó mới tích tụ được những điều đã học mà không bao giờ quên. Như vậy, Ða văn là nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe, những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập.

 

Ðại Chúng Bộ (PhậtDạy.4) Ðại Chúng Bộ chỉ cho Phật giáo Ðại thừa, tức Phật Giáo Bắc Tông, phần lớn gồm những bậc Tân Tăng học giả tưởng giải tha lực, họ theo khuynh hướng tư tưởng phục hưng Vệ Ðà (bà La Môn) phát triển rộng về phương bắc, hơn 10 hệ phái, qua các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, dưới nhiều dạng Phật giáo khác nhau, bao gồm hơn 10 tông phái như: Thiền tông, Mật tông, Tịnh Ðộ tông, Luật tông, Duy Thức tông, Pháp Hoa tông, Hoa Nghiêm tông, Liên tông (ở Nhật), v.v... Riêng Thiền tông Trung Hoa cũng đã phát triển thành nhiều tông môn nữa. Nghi thức thờ phượng trong chùa thì cũng trăm thứ như: tượng Di Dà, Dược Sư, Di Lặc, Quan Âm, Thế Chí, Ðịa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Thánh, Thập Ðiện Diêm Vương, Tề Thiên Ðại Thánh, Hộ Pháp Già Lam, Thần Thiện, Thần Ác, Lê Sơn Thánh Mâu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ba, Chúa Xứ, v.v… Có nơi đưa cả những con vật như cọp, ngựa vào chùa thờ nữa. Nói chung là họ thờ Ða Thần Giáo. Họ biên soạn ra những kinh sách tưởng giải nương vào tha lực (mang nặng tư tưởng đa thần của 62 trường phái Bà La Môn mà thời đức Phật đã dẹp bỏ, nay có cơ hội phục sinh) lồng vào kinh sách Phật để phá giới và diệt giới luật Phật.

Ðại ngã (ĐườngVề.6) (kinh Bà La Môn) là bản thể của vạn hữu ví như nước biển. Khi một chúng sanh chết thì thể tánh ấy giống như giọt nước tiểu ngã rơi vào biển cả đại ngã thì chỉ còn là một khối nước đại ngã.

Ðại Thừa (ĐườngVề.8) là Phật giáo phát triển bị thế tục hóa và bị các tôn giáo khác đồng hóa.

Đại tử của nhà thiền (Tạoduyên) ở trong trạng thái đại định, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, nhưng mọi suy nghĩ phân biệt không khởi, có cơm thì ăn, có nước thì uống, chứ không còn thấy đói khát gì cả. Khi ngồi thiền, khi xả thiền đều từ thói quen của tay chân tự động, chứ không tác ý. Tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi và còn mạnh hơn lúc chưa tu, tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, uống thuốc, không biết cách nào làm chủ sự sống chết, nhưng tâm rất khôn khéo, lý luận che đậy bằng những lời lẽ mà ta thường gặp trong kinh sách Thiền Tông và Ðại Thừa: “Tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”, hoặc: “vô sở đắc”, hoặc: “còn thấy tu chứng là chưa chứng”, hoặc: “Em là em, Phật là Phật, em không phải là Phật, Phật không phải là em”...

Đạo Đế (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.2)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.2)(ĐườngRiêng) Ðạo là con đường đi, là phương pháp tu tập rèn luyện trau dồi để tu sửa lại thân tâm con người không hành động theo lòng ham muốn lầm lạc, sai quấy khiến cho mình khổ, người khác khổ và tất cả chúng sinh đều đau khổ. Ðế có nghĩa là sự thật, chơn thật, không sai, đúng như thật, không dối gạt, không lừa đảo. Ðạo Ðế là phương pháp tu sửa, rèn luyện thân tâm con người có đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người chân thật, biến cảnh sống thế gian thành cảnh giới Thiên đàng Cực lạc; là phương pháp tu tập có đủ tâm lực tỉnh thức làm chủ sanh, già, bịnh, chết thật sự, là con đường dẫn đến cứu cánh giải thoát khỏi mọi sự đau khổ của kiếp làm người, là con đường dẫn đến cọng trú với Phạm thiên mà các vị Bà La Môn từng mơ ước. Đây là con đường độc nhất, không còn một con đường nào khác hơn để dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn, dẫn đến sự làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết, giúp cho con người vượt ra khỏi qui luật nhân quả (Vô Lậu) và làm chủ kiếp sống của chính mình.

Ðạo Ðế là một chương trình giáo dục đào tạo người tu chứng thánh quả A La Hán vô lậu, tức những bậc tu chứng thánh quả A La Hán không còn ham muốn bất cứ một vật gì trên thế gian này nhất là họ không phiền giận bất cứ một người nào. Chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh nhân bản - nhân quả của Phật giáo này có tám lớp (Bát Chánh Ðạo), phân ra làm ba cấp tu học (Giới, Ðịnh, Tuệ): 1- Từ lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Tinh Tấn là giai đoạn thứ nhất tu tập Giới luật: thuộc về pháp môn Tứ Chánh Cần (Tứ Chánh Cần gồm có: Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác, Ðịnh Sáng Suốt và Ðịnh Niệm Hơi Thở. Ðịnh Niệm Hơi Thở gồm có 18 đề mục tu tập). 2- Lớp Chánh Niệm là giai đoạn tu học Giới luật trên Pháp môn Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ tu học trên Tứ Niệm Xứ, và Tứ Niệm Xứ tu học trên pháp Thân Hành Niệm. 3- Lớp Chánh Ðịnh là giai đoạn thứ ba tu tập THIỀN ÐỊNH, có tên là Tứ Thánh Định (gồm có: 1. Sơ Thiền, 2. Nhị Thiền, 3. Tam Thiền, 4. Tứ Thiền). Khi nhập Tứ Thiền xong thì ngay đó tuệ Tam Minh xuất hiện cho nên Tuệ Tam Minh không tu mà có. Phật dạy “Giới sanh Định, Định sanh Tuệ”.

Ðạo Ðế là một chân lý trong bốn chân lý của Ðạo Phật; là một chương trình giáo dục đào tạo tu tập giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết thật sự; là con đường dẫn chúng ta đi đến nơi giải thoát hoàn toàn; là tấm bản đồ chỉ rõ đường đi để chúng ta theo đó tiến bước mà không còn sợ lầm đường lạc lối. Ðạo Ðế là phương pháp dạy người tu hành giải thoát thật sự.

Đạo đức (ĐạoĐức.1) là sự phát triển trí tuệ của con người nhằm mục đích giữ gìn trật tự, an ninh xã hội và nâng cao phẩm cách con người. Mọi người sống đối xử với nhau phải có tình, có nghĩa, có những hành động cao đẹp và cao thượng, v.v... Nhờ đó, con người mới có khác hơn loài cầm thú; nhờ đó, con người thoát ra khỏi bản năng hung dữ ác độc của loài động vật; nhờ đó, con người mới trở nên những bậc Hiền nhân, Thánh triết; nhờ đó, con người mới có những năng lực mầu nhiệm trở thành Siêu nhân.

Ðạo đức bi tâm (ĐạoĐức.2) là mỗi hành động bao giờ cũng vuốt ve, an ủi và xoa dịu những vết thương đau của chúng sanh, từ loài thảo mộc đến loài động vật, khiến cho mọi loài đang sống trên hành tinh này đều được bình an, yên ổn. Ðức bi tâm còn có ý nghĩa nữa là luôn luôn nhìn và suy nghĩ về mọi sự, mọi sự việc, và về mọi đối tượng đều trong thiện pháp, không hề có một chút ác pháp nào.

Đạo đức bình đẳng (ĐạoĐức.1) đạo đức này xuất phát nơi những hành động sống hằng ngày từ những hành động thân, miệng, ý của mọi người. Ðó là đạo đức nhân bản - nhân quả, đem đến sự an vui cho mọi người, mọi vật chung quanh. Ðạo đức này không bắt buộc chúng ta phải phục vụ cho một giai cấp nào, cho một chế độ nào hay cho một hệ tư tưởng nào hay cá nhân nào. Ðạo đức này là một thứ đạo đức bình đẳng, luôn luôn phục vụ cho sự sống của muôn loài trên hành tinh này, không phân biệt màu da thứ tóc, không phân biệt chủng tộc, tổ quốc, quê hương hay đất nước riêng biệt nào cả. Ðạo đức này dạy con người không những thương con người, mà còn biết thương yêu các loài động vật và ngay cả cỏ cây. Ðạo đức này mang đến cho muôn loài sự bình an.

Ðạo đức của Phật giáo (PhậtDạy.1) là đạo đức nhân bản – nhân quả: sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, đạo đức làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi; biến cuộc sống loài người trên thế gian này thành cõi Thiên đàng, Cực lạc. Ðạo đức tự lực không dựa vào thần quyền.

Đạo đức giao thông (ĐạoĐức.1) Mọi người hãy học luật lệ và đạo đức đi đường, đó là trách nhiệm và bổn phận đạo đức làm người, thực hiện, học về luật lệ giao thông đường bộ, để biết luật lệ đi đường khi lái xe, cẩn thận khi băng qua đường, cẩn thận khi đi đường, cẩn thận giao thông khi đến ngã tư, ngã ba, ngã sáu, ngã bảy, v.v... cẩn thận giao thông khi đi bộ hoặc lái xe đến chỗ cua quẹo, cẩn thận giao thông khi gặp đường trơn, đường dốc, đường vòng, qua cầu, v.v... không phóng nhanh, không vượt ẩu, không qua mặt; cẩn thận trên những đoạn đường nguy hiểm, cẩn thận giao thông khi thấy biển đề đường nguy hiểm, đường gợn sóng, v.v...

Ðạo đức hiếu sinh (ĐạoĐức.1) là lòng thương yêu tất cả những sự vật đang sống trong môi trường sống. Hay nói một cách khác là chan hòa tình cảm thân thương của chúng ta đến từng cỏ cây, đất đá, núi sông, thời tiết nắng mưa, gió bão, v.v... cùng các loài động vật... đang từng giây, từng phút chúng cùng ta đang hít thở trong bầu không khí trong lành và đang rung động trong từng nhịp sống của nhau, sống quanh chúng ta. Con người cũng như tất cả các loài động vật khác đều có lòng yêu thương được thể hiện qua đạo đức nhân bản - nhân quả. Đạo đức hiếu sinh là sống không làm một loài vật nào khổ đau, sống không giết một loài vật nào cả; có nghĩa là không lấy sự đau khổ của vật khác mà nuôi thân mạng mình; có nghĩa là không lấy sự đau khổ của người khác vật khác làm sự vui cho mình. Đạo đức hiếu sinh là những hành động sống hằng ngày của con người, mà mọi người ai cũng cần phải học tập và trau dồi, để xứng đáng làm người.

Đạo đức làm người (ĐạoĐức.2) là cách nhìn đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, có tám cách nhìn là 1- Cách nhìn vào một sự kiện không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. 2- Cách suy nghĩ một sự việc không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. 3- Cách dùng lời diễn tả một sự việc không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. 4- Cách chọn lấy hành động và nghề nghiệp sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. 5- Cách thức nuôi mạng sống của mình không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. 6- Hằng ngày phải siêng năng thực hiện không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh thì cuộc sống mọi người sẽ được an vui hạnh phúc. 7- Thường đẩy lui các chướng ngại pháp trên mọi cảm thọ nơi thân, tâm của mình. 8- Thân tâm của mình bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Đạo đức làm Người, làm Thánh (PhậtDạy.4) sống không làm khổ mình, khổ người tức là dạy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện.

Ðạo đức làm Thánh vô lậu (ĐườngVề.9) là những hành động sống hằng ngày của một vị Tăng.

Đạo đức nhân bản - nhân quả (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.9)(ĐạoĐức.1)(ĐạoĐức.2)(TâmThư.2) Nhân là mỗi hành động thân, miệng, ý của chúng ta khởi ra; sự thọ chịu khổ hay vui của mỗi hành động kia là quả: Ví dụ, khi chúng ta nói: "Thằng khốn nạn", thì khi nói như vậy là "Nhân". Người bị mắng như vậy sẽ tức giận là "Quả", khi tức giận như vậy người ta sẽ chửi mắng lại hoặc đánh chúng ta là "nhân", chúng ta chửi mắng lại hoặc đánh là "quả", tức là thọ chịu sự đau khổ của sự mắng chửi hoặc bị đánh. Còn nếu chúng ta không nói lời thô ác đó, thì nhân không có nên quả cũng không.

Ðạo đức nhân bản - nhân quả là nói lên những hành động của con người từ thân, miệng, ý không làm khổ mình, khổ người. Hành động không làm khổ mình, khổ người là những hành động sống hằng ngày của con người đối xử với nhau, nó rộng rãi bao la và vô lượng vô biên không thể nghĩ lường được, không thể nói hết được... nhưng không ngoài thiện và ác.Đạo đức nhân bản - nhân quả chính là thiện pháp, là chân hạnh phúc của đời người. Đạo đức nhân bản - nhân quả là đạo đức luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Sống không làm khổ mình, khổ người gồm có: 1- Đạo đức hiếu sinh tức là lòng yêu thương và tha thứ mọi lỗi lầm của người khác. 2- Đạo đức ly tham, tức là tránh xa sự tham lam, gian lận, lừa gạt, lừa đảo, trộm cắp, cướp của giết người. 3- Đạo đức chung thủy, tức là tránh xa những tệ nạn mãi dâm, hiếp dâm trẻ em và bạo lực gia đình,…. 4- Đạo đức thành thật, tức là tránh xa những sự dối trá gian xảo, gây chia rẻ, li gián, nói xấu người, vu khống,… 5- Đạo đức minh mẫn, tức là tránh xa rượu chè, bài bạc, hút chích, xì ke, ma túy và cẩn thận trong khi lái xe giữ gìn đúng luật lệ giao thông.

Ðạo đức nhân bản - nhân quả là đạo đức gốc của con người. Ví dụ một lời nói làm cho người khác buồn khổ là mình thiếu đạo đức nhân bản. Cho nên, đạo đức nhân bản - nhân quả rất thực tế, không mơ hồ, trừu tượng như nhân quả của kinh sách phát triển vì kinh sách phát triển cho rằng nhân kiếp trước thọ quả kiếp này, nhân kiếp này thọ quả kiếp sau. Đó là một hình thức mơ hồ, trừu tượng, không logic, vì kẻ gieo nhân và người gặt quả không chủ thể, khiến cho người ta không đủ lòng tin.

Ðạo đức nhân bản - nhân quả được xây dựng trên nền tảng chân lý sống của kiếp người, chỉ có chân lý sống của kiếp người mới nói lên được sự thật của loài người, đạo đức đó sẽ đem lại hạnh phúc an vui cho loài người thiết thực, rõ ràng và cụ thể. Nếu lấy tư tưởng triết lý tôn giáo mà làm chân lý con người thì chân lý đó biến con người thành mất hết ý chí tự lực, tự cường, chỉ còn biết dựa lưng vào thần quyền, trở thành người mê tín, lạc hậu, thường sợ hãi trước những biến cố. Nếu lấy triết học làm chân lý của con người thì triết học đó sẽ đưa con người đi vào cuộc sống ảo giác, ảo tưởng trừu tượng, cuối cùng cũng chỉ là một cuộc thí nghiệm tư tưởng con người mà thôi. Người nào tin tưởng theo triết lý bằng thứ ngôn ngữ lý luận của triết lý đó, bỏ cả cuộc đời, phí công sức, phí tiền của, v.v... thì sẽ chẳng ích lợi gì cho mọi người, mà ngay chính bản thân người ấy cũng chẳng hưởng được gì. Những triết lý và những tư tưởng tôn giáo là những thứ hư tưởng không thật. Triết lý đưa ra phương cách sống thiếu thực tế, khiến loài người đến với nó thì gặp sự khổ đau, sự xung đột và có thể giết hại lẫn nhau. Tôn giáo đưa ra những giáo điều và phương pháp tu tập để đạt những năng lực phi thường, siêu việt (thần thông phép thuật), và hội nhập vào bản thể vạn hữu hay về với các cõi Thần, Thánh, Tiên, Phật, Niết Bàn, v.v... Những điều đó khiến cho con người ham mê, do ham mê nên phí công, phí sức, phí tiền của, nhưng chẳng làm ích lợi thiết thực gì cho mình, cho người, mà còn làm hao phí của cải tài chánh và công sức của mọi người một cách nhảm nhí vô ích. Các triết gia đưa ra những triết thuyết, mục đích để đem lại sự an vui, hạnh phúc, ấm no cho loài người. Nhưng vì là triết lý được xây dựng trên cuộc sống ảo tưởng hạnh phúc ấm no, cho nên triết lý không thực tế với bản chất của loài người. Vì thế, triết lý chỉ giải quyết và đáp ứng được những sự việc và hoàn cảnh trong hiện tại. Còn về tương lai thì triết lý đó không bắt kịp thời thế, vì thời thế luôn thay đổi theo định luật nhân quả nên triết lý phải được thay đổi liên tục để đáp ứng kịp với hoàn cảnh và sự phát triển của con người. Cho nên khi con người bắt đầu thực hiện và sống theo triết lý đó, tưởng là được hạnh phúc, ấm no, công bằng và công lý nhưng hạnh phúc, ấm no, công bằng và công lý đâu không thấy, mà lại thấy dẫy đầy sự bất công, sự đau khổ nhiều hơn. Có khi nó còn đưa con người đến một cuộc sống cuồng loạn dục vọng vật chất hiện sinh, khiến con người mất hết đạo đức làm người, mất hết lương năng và lương tri, biến dần con người trở thành những ác thú. Vì thế mà bao nhiêu triết thuyết, bao nhiêu tôn giáo đã biến con người thành cuồng tín, để rồi chống đối và giết hại lẫn nhau.

Ðạo đức nhân bản - nhân quả làm người không chấp nhận mình làm vật hy sinh cho người khác, cho dù mình tự nguyện.

Ðạo đức nhân bản – nhân quả của Ðạo Phật (Tạoduyên) là phải dẹp bỏ tha lực, nếu còn cầu cúng, tế lễ, cầu phước, cầu tự, cầu an, cầu siêu, v.v... là đi ngược lại đạo đức nhân bản – nhân quả của Ðạo Phật và con người sẽ sống trong ảo tưởng, mê tín và lạc hậu.

Đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình khổ người (PhậtDạy.2) gồm có những pháp: Thất Giác Chi, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần.

Đạo đức nhân bản- nhân quả trong ngũ giới (TâmThư.2) được chia ra làm ba cấp học: 1- Cấp học đạo đức bản thân có hai giới: Ðức hiếu sinh, Ðức ly tham từ bỏ lấy của không cho. 2- Cấp học đạo đức gia đình có một giới: Ðức chung thủy. 3- Cấp học đạo đức xã hội có hai giới: Ðức thành thật, đức minh mẫn từ bỏ không uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, bài bạc, xì ke, ma tuý, v.v…

Đạo đức quân tử (ĐạoĐức.2) xây dựng trên bản ngã của loài người để “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Ðạo đức này được xem là nền đạo đức xã giao, đối xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội để tỏ ra mình là anh hùng, là người có học thức (sĩ phu) hơn mọi người. Ðạo đức này thuộc về hình thức bên ngoài rất rõ nét, nhưng về nội tâm là có sự áp đặt rất kỹ lưỡng, khiến cho con người không thoải mái, thường tự ức chế thân tâm làm khổ mình, chịu đựng để làm vui lòng người.

Ðạo đức thương mình (ĐạoĐức.2) phải thực hiện ngay trong “chân lý khổ” của cuộc đời thì đời mới hết khổ, mới tìm thấy hạnh phúc an vui. Con người sinh ra đều thọ nhận mọi sự khổ đau, do nguyên nhân từ lòng ham muốn của họ, không khổ điều này thì cũng khổ điều khác, không ai tránh khỏi khổ đau của kiếp người, dù có tránh né và trốn chạy bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi khổ đau. Đó là định luật nhân quả tự nhiên của vũ trụ. Vì biết chắc đời sống con người là khổ, cho nên mọi người cần phải được trang bị sự hiểu biết và phương cách sống về đạo đức không làm khổ mình, khổ người, thì mới mong hy vọng con người thoát kiếp lầm than, đầy khổ đau bi lụy như từ xưa đến nay, thì thế gian này là Thiên Ðàng, Cực Lạc, chứ không còn là trong giấc mơ của các tôn giáo nữa.

Ðạo đức từ tâm (ĐạoĐức.2) có nghĩa là phương cách dạy mỗi hành động không bao giờ đụng chạm và làm cho chúng sanh đau khổ. Ðạo đức từ tâm còn có ý nghĩa là dạy luôn luôn nhìn và suy nghĩ về mọi sự việc và về mọi đối tượng đều trong thiện pháp, luôn luôn nhìn và suy nghĩ không hề có một chút ác pháp nào. Nếu còn một chút ác pháp nào trong cách nhìn và suy nghĩ thì chưa phải là Ðạo Ðức Từ Tâm. Khi áp dụng Ðạo Ðức Từ Tâm vào cuộc sống thì đạo đức từ tâm là đạo đức biết thương mình. Thương mình thì trước mọi hoàn cảnh xảy đến nghịch ý, trái lòng không nên giận hờn, buồn phiền. Giận hờn, buồn phiền là làm cho mình khổ đau, là mình không thương mình, và như vậy mình thiếu đạo đức với mình. Người thiếu đạo đức với mình thì đừng mong có đạo đức với ai. Ðứng trước mọi sự việc xảy ra nghịch ý, trái lòng mà không giận dữ, buồn phiền, đau khổ, thì đó là đã thực hiện được đạo đức không làm khổ mình. Muốn được vậy thì hàng ngày phải thực hiện sống với lòng yêu thương mọi sự sống của muôn loài. Có yêu thương mọi sự sống của muôn loài thì mới dễ dàng tha thứ cho những người đã làm cho mình buồn phiền, tức giận, khổ đau, v.v... Ðức từ tâm là một hành động biết thương mình. Thương mình thì không tham, sân, si, mạn, nghi. Do có từ tâm nên tham, sân, si, mạn, nghi không có. Như vậy, Ðức từ tâm rất quan trọng cho sự sống của chúng ta hằng ngày.

Đạo đức vệ sinh môi trường sống (ĐạoĐức.1) là mọi người có lương tâm, trách nhiệm, bổn phận bảo vệ môi trường sống của mọi người.

Ðạo Phật (ĐườngVề.1)(TrợĐạo)(ĐườngRiêng)(12Duyên)(Tạoduyên)(TâmThư.2)(CữSĩTu)(ThiềnCănBản) Ðạo Phật là một tôn giáo tự lực, ra đời vốn giải thoát bốn chân lý sanh, già, bệnh, chết, đem lại cho loài người một chương trình giáo dục đào tạo con người đầy đủ đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, đó là đạo đức của loài người trên hành tinh này, nhờ nó mà con người mới thoát ra khỏi bản tính của loài động vật.    Ðạo Phật không có dạy triết lý, không có dạy mê tín, không có dạy khoa học, không có dạy siêu việt, không có dạy tâm lý. Ðức Phật dạy cho con người biết sống một đời sống an vui, không làm khổ mình, khổ người, sống thanh thản trước những diễn biến của nhân quả, và luôn luôn lúc nào cũng làm chủ nhân quả là biết sống đúng đạo đức Ðạo Phật.

Đạo Phật là một tôn giáo không cần phải ngồi thiền nhập định từ ngày này sang ngày khác, không cần ngồi thiền như gốc cây cục đá, chỉ cần sống như một người bình thường nhưng làm chủ thân tâm một cách cụ thể rõ ràng. Khi một người bước chân vào đạo Phật thì phải sống làm chủ cái ăn, cái ngủ trước tiên, rồi sau đó tiếp tu tập ngăn chặn và diệt những thói quen tật xấu khác. Đạo Phật là Đạo Trí Tuệ, Ðức Phật dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi”, cho nên kiến giải của các Tổ, dù là các Tổ Nam Tông hay Bắc Tông, thì vẫn không đúng lời dạy của Đức Phật, không có ích lợi giải thoát gì. Có nhiều người tham vọng cao nên quyết tâm đi du học từ nước này đến nước khác, nhưng cuối cùng chẳng làm chủ được những gì trên thân tâm của họ, nhưng lại mang danh đi tu khắp nơi trên thế giới để “nổ” với mọi người, chớ có lợi ích gì cho bản thân, chỉ vì danh mà thôi. Học mà không tu như cái tủ đựng kinh sách.

Ðạo Phật dạy đạo đức nhân bản – nhân quả rất thực tế và cụ thể. Đức Phật là một nhà tâm lý học thông suốt mọi tình cảm, tâm tư và nguyện vọng của mọi người. Vì thế, giáo pháp của Ngài dạy toàn là đạo đức làm người. Vì dạy đạo đức làm người nên nói về tâm lý của con người rất là sâu sắc: 1- Dạy người cư sĩ không làm nghề nghiệp ác để tránh nhân quả xấu như: tai nạn, bịnh tật, yểu tử, v.v... 2- Dạy chư Tăng không ăn thịt chúng sanh bằng sự ý tứ cẩn thận trong từng miếng ăn của mình bằng một tấm lòng thương yêu rộng lớn đối với muôn loài chúng sanh. 3- Dạy Phật tử không nên cúng dường thịt chúng sanh làm ra thực phẩm cho Phật và chúng Thánh Tăng. Cúng dường như vậy là phi pháp, phi công đức (không có phước báo mà còn thêm tội lỗi). Toàn bộ giáo lý của đức Phật từ sơ thiện, trung thiện, đến hậu thiện, dạy con người cách thức sống trong thiện pháp, ngăn ngừa và đoạn dứt các ác pháp. Vì thế, mà ngay từ bước đầu tiên đức Phật đã dạy người cư sĩ không làm sáu nghề nghiệp ác. Theo nhân quả thì mỗi người phải tự chuyển nghiệp của mình, chứ không ai chuyển nghiệp cho ai được. Và vì vậy mọi người phải tự cứu mình. Phải sống trong thiện pháp để chuyển được quả khổ đau, giúp cho đời sống thanh thản, an lạc. Trong đạo Phật chỉ có giới luật là pháp xả tâm không bị ức chế mà thôi, còn tất cả pháp khác tu tập đều bị ức chế tâm cả.

Ðạo Phật là đạo vô ngã. Người tu sĩ đi dạy đạo lúc tu hành chưa xong thì chỉ có nuôi ngã làm cho ngã lớn hơn thì đó là đi ngược lại đạo Phật. Ngày nay có những hệ phái Phật giáo tràn đầy tha lực thần quyền, thiếu thực tế, chỉ cúng tế lạy lễ, mang đầy hình thức mê tín dị đoan, khiến cho tín đồ mất niềm tin tự chủ.

Đạo Phật có sáu chặng đường vào Niết Bàn: Chặng đường 1: những vị tu hành đã đoạn trừ các lậu hoặc và các hữu kiết sử, tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Chặng đường 2: cần diệt trừ năm hạ phần kiết sử thì chết vào Niết Bàn. Chặng đường 3: cần diệt trừ ba kiết sử và làm giảm thiểu tâm tham, sân, si thì vào Niết Bàn. Chặng đường 4: cần diệt ba kiết sử thì nhập vào Niết bàn. Chặng đường 5: tùy theo pháp thiện hay ác mà giữ gìn tâm thanh thản an lạc thì vào Niết Bàn. Chặng đường 6: biết đối xử với mọi người không làm khổ mình khổ người và tất cả chúng sinh thì khi bỏ thân này cũng vào Niết Bàn. Xét qua sáu chặng đường tu tập này chúng ta mới thấy đạo Phật tu hành tùy theo căn cơ và trình độ của mỗi người, chúng ta muốn đi chặng nào cũng được chỉ tùy vào sức lực, vào khả năng của mình mà chọn lấy nẻo vào Niết Bàn.

Ðạo sư (PhậtDạy.1) là vị thầy dạy phương pháp tu hành.

Đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà (LinhHồn) là một nền đạo đức của dân tộc Việt Nam, một đạo đức luôn tỏ lòng biết ơn ân nghĩa sâu dày “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.”

Ðạt được sanh diệt tận (PhậtDạy.1) Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người.

Ðau khổ của con người (ĐạoĐức.2) là một loại bệnh nghiệp, do hành động nhân quả của mỗi con người tạo ra cho chính mình. Bệnh nghiệp nhân quả do chính từ hành động của mình mà có, nên có phương thuốc “Ðạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người” bằng hành động của chính mình đối trị và chuyển hóa bệnh nhân quả. Kẻ nào sống không làm khổ mình, khổ người là kẻ đã làm chủ được bốn chỗ đau khổ: sanh, già, bệnh, chết.

Ðắm nhiễm khó tiêu, tâm thường sanh tán loạn (ĐườngVề.1) nghĩa là tâm dính mắc thành thói quen không bỏ được nên sinh ra nghĩ ngợi lung tung chuyện này đến chuyện khác, tùy miên trong mỗi niệm, tâm khởi ham thích chạy theo vật chất thế gian như: tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, ăn, ngủ phi thời, khiến cho người tu sĩ ham mê chùa to Phật lớn, trở thành những người phóng dật, chứ không còn là người tu sĩ giải thoát. Bởi, trước khi đắm nhiễm thì phải có phóng tâm, phóng tâm mà không kịp thời xả bỏ, đoạn diệt tâm niệm ấy, thì bắt đầu tâm phóng dật, tâm phóng dật mà không đoạn dứt thì tâm đắm nhiễm.

Ðắp Áo Cà Sa (TruyềnThống.2) là một hành động đạo đức làm Thánh, là một giới luật dạy về đức hạnh thanh bần, là một hành động đạo đức buông xả thuộc về ăn mặc trang điểm thân thể. Giới này thuộc về thân tướng đức hạnh thanh bần làm Thánh, là một giới luật dạy cách thức ăn mặc của những người xuất gia đã thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian. Người tu sĩ Phật giáo không còn ăn mặc sang đẹp những loại vải hàng đắt tiền như người thế tục, mà chỉ ăn mặc vải thô xấu, để trở thành người nghèo nhất trong xã hội. Cho nên, giới này còn gọi là “Giới đức xả phú cầu bần”.

Ðặc tướng (ĐườngVề.6)(CầnBiết.2) là tướng riêng biệt của thân, thọ, tâm, pháp của từng người. Ðặc tướng còn gọi là khả năng riêng biệt của từng người, không phải trời phú cho, mà do họ khéo huân tập trong nhiều kiếp. Ví dụ: Một người nghe đức Phật thuyết pháp xong thì chứng quả Tu Ðà Hoàn, có đầy đủ pháp nhãn, nhưng lại có người cũng nghe thuyết pháp xong mà tật nào vẫn còn tật nấy, không bỏ được. Ðấy cũng là đặc tướng của mỗi con người. Người tu theo đạo Phật phải tùy theo đặc tướng của mình, thì sự tu tập mới có kết quả nhanh chóng. Không theo đặc tướng của mình tu tập thì kết quả khó thành tựu. Tu tập phải tùy theo đặc tướng của mình mà thực hiện cho đúng pháp, thì có kết quả lợi ích rất lớn. Ðặc tướng có Hành tướng ngoại, Hành tướng nội và Nhân tướng. Hành tướng Nội Ngoại là hơi thở, Nhân tướng là hình dáng cơ thể, có người có nhân tướng cao, có người có nhântướng thấp, có người đẹp, có người xấu, người da trắng, người da đen, người mập, người ốm, người mặt dài, mặt ngắn, mặt vuông, mặc chữ điền, mặt bầu, mặt tròn... Ðặc tướng tốt hay xấu đều do nhân quả huân tập nhiều đời nhiều kiếp mà thành, chứ không phải huân tập trong một sớm một chiều mà có được. Cho nên, người có tài ba lỗi lạc là do sự huân tập nhiều đời nhiều kiếp, cũng như người tu nhanh chậm. Nếu chúng ta cho rằng mình tu chậm rồi bỏ cuộc tu, tức là không huân tu nữa thì như vậy đặc tướng của chúng ta sẽ xấu và cuộc đời sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi chịu khổ đau mãi mãi. Người ta tu nhanh là nhờ người ta tu nhiều kiếp rồi, còn mình tu chậm là do mình mới tu trong kiếp này mà thôi. Chính đó là đặc tướng của mỗi người. Vì thế càng tu chậm lại càng tu tập nhiều hơn; càng tu chậm lại càng tu tập kỹ hơn.

Ðặt tình thương đúng chỗ (TâmThư.1) là đặt tình thương trong thiện pháp, nhưng tình thương của Phật giáo là tình thương đa hướng nên hướng thiện hay hướng ác đều đặt tình thương được cả. Tình thương đúng chỗ là thương yêu, thương xót, thương hại mọi nguời, chứ không phải thương nhân quả của mọi người.

Ðặt tình thương không đúng chỗ (TâmThư.1) là đặt tình thương theo thất tình, lục dục, là đặt tình thương theo ác pháp, tình thương đó là tình thương trong đau khổ: khổ mình, khổ người. Khi đặt lòng yêu thương phải quan sát kỹ lòng yêu thương ấy có rơi vào bảy tình, sáu dục này không? Nếu rơi vào thì lòng yêu thương này sẽ có sự khổ đau.

Đẳng cấp trong hàng tu sĩ Phật (OaiNghi) Những danh xưng trong Phật giáo thuộc phẩm cấp có cao, có thấp trong Giáo Hội, để khi nghe gọi mọi người biết ngay vị ấy ở hàng đẳng cấp nào. Theo đẳng cấp trong hàng tu sĩ Phật giáo hiện giờ: - Ðẳng cấp thứ nhất: Người mới xuất gia tu hành thọ 10 giới gọi là SA DI. Sa di nam tiếng Phạn (Sanskris) là Sramanera (Pali: samanera), và Sa di nữ là (Sanskris) Sramanera (Pali: samaneri). - Ðẳng cấp thứ hai: Người Sa di thọ cụ túc tức là thọ 250 giới được gọi là ÐẠI ÐỨC (Pali: Bhikkhu). - Ðẳng cấp thứ ba: Sau 20 năm thọ cụ túc và học tập giáo lý được Giáo Hội Phật Giáo tấn phong gọi là THƯỢNG TỌA. - Ðẳng cấp thứ tư: Sau 60 năm thọ cụ túc giới được Giáo Hội Phật Giáo tấn phong gọi là HÒA THƯỢNG. Tất cả những danh từ xưng hô này là DANH chứ có nghĩa lý gì. Có nhiều vị chỉ có biết tụng niệm ê a mà cũng được tấn phong làm Thượng tọa, Hòa thượng. Bởi vậy, ngoài Bắc gọi các sư thầy tu lâu cũng lên làm SƯ CỤ. Trong đạo Phật Nguyên Thủy người nào tu chứng cũng đều gọi là TRƯỞNG LÃO dù tuổi còn trẻ.

Đất nước không đạo đức (ĐạoĐức.1) là một đất nước không phồn vinh, thịnh trị, mưa không thuận, gió không hòa, thường xảy ra trộm cướp, giết người, bạo loạn, binh đao, chiến tranh xảy đến, khiến cho đất nước đó không có thanh bình và người dân không an cư lạc nghiệp.

Ðầy đủ bảy diệu pháp (PhậtDạy.1) Người tu sĩ và cư sĩ nào đã tu tập đầy đủ bảy diệu pháp, thì người ấy đang thể hiện Hạnh Ðức của mình. Bảy diệu pháp là bảy phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh Ðức của một tu sĩ và của một cư sĩ Phật giáo xứng đáng là đệ tử của đức Phật.

Đầy đủ lòng tin bất động đối với Phật (12Duyên) lòng tin Phật có năm chi phần: Thứ nhất: Phật là một người có đầy lòng yêu thương tất cả vạn vật, không làm tổn thương chúng sanh. Thứ hai: Phật là người không bao giờ tham lam lấy của không cho, luôn luôn có được những gì thì Ngài sẵn sàng bố thí giúp đỡ người khác. Thứ ba: Phật là người không bao giờ có tâm dâm dục trần tục, Ngài là người sống với thân tâm thanh tịnh trong sáng không bao giờ để dâm dục làm nhơ bẩn thân tâm. Ngài xem tâm dâm dục là một thứ dục lạc nhơ nhớp uế trược sinh ra nhiều thứ khổ đau của kiếp người. Thứ tư: Phật là người không bao giờ nói dối, không lường gạt dù bất cứ một việc nhỏ nhặt nào với ai, Ngài luôn luôn là người thành thật. Thứ năm: Phật là người không bao giờ uống rượu. Đức Phật là một con người thật, có cha mẹ sinh ra và lớn lên trên hành tinh này. Ngài là người Ấn Độ, con của một nhà vua, lớn lên đi tu làm chủ được sự sống chết. Những lời dạy của Đức Phật rất thiết thực và lợi ích rất lớn.

Đầy đủ lòng tin đối với Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn (12Duyên) Những đệ tử của Đức Phật hầu hết là những bậc đều đã chứng quả Vô Lậu nên đức giới tỏa ra sáng suốt vô cùng vô tận. Chúng đệ tử Phật là những bậc Lạc Thiện Hạnh, Lạc Trực Hạnh, Lạc Chánh Hạnh, Lạc Như Pháp Hạnh. Gương mặt của các Ngài lúc nào cũng có một niềm vui hân hoan, không thấy có một chút xíu nào phiền não buồn rầu.

Đầy đủ lòng tin đối với Giới Luật Đức Hạnh (12Duyên) Giới luật đức hạnh của Phật giáo là một sự sống mang lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả các loài chúng sanh. Giới luật đức hạnh của Phật có một phong cách sống làm người có văn hóa và đạo đức, thực hiện một đời sống giới luật Đức Hạnh nghiêm chỉnh. Giới Luật Đức Hạnh được các bậc thánh quý mến không bị bẻ vụn, không bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến tự do, được người trí tán thán, không bị nhiễm trước, đưa đến thiền định.

Đầy đủ lòng tin đối với Pháp do Đức Phật khéo thuyết (12Duyên) Pháp của Phật dạy sống không làm khổ mình, khổ người và tất cả muôn loài chúng sanh. Pháp của Phật là một phương pháp cải tạo sự sống, từ sự sống đau khổ chuyển đổi thành sự sống an vui và hạnh phúc, giúp cho loài người thoát khổ bằng sức tự lực của mình.

Đầy đủ oai nghi chánh hạnh (ThờiKhóaTu) tức là đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín, thường phải quan sát mỗi hành động thân, miệng, ý của mình phải được ôn tồn êm ái, nhẹ nhàng, khoan thai, từ tốn. Ðó là oai nghi đúng chánh hạnh trong nghĩa tỉnh thức chánh niệm của Ðạo Phật.

Ðến để mà thấy (TâmThư.1) có nghĩa là phải có lòng tin trọn vẹn với lời dạy của đức Phật, cho nên khi nghe đức Phật thuyết pháp xong là hiểu biết và thâm nhập lời Phật dạy là đúng sự thật 100%. Biết đúng sự thật 100% thì liền buông xả tất cả các ác pháp. Khi buông xả tất cả ác pháp thì có sự cảm nhận giải thoát ngay liền. Lòng tin không trọn vẹn nên không xả tâm sạch. Không xả tâm sạch thì dù có tu tập bao nhiêu công lao, bao nhiêu năm tháng thì cũng khó mà chứng đạo. Tin mà không dám buông xả, đó là chưa có lòng tin. Bất động tâm là chứng đạo, là giải thoát; thấy tâm không phóng dật là chứng đạo.

Đến nay (PhậtDạy.4) tức là từ ngày đức Phật đã chứng đạo, đã thành tựu được chánh pháp.

Đề mục phòng hộ thân tâm (PhậtDạy.4) đó là: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Hai đề mục này muốn có kết quả tốt và hiệu nghiệm thì hãy siêng năng tu tập cho chứng đạt được sự an trú vào hơi thở.

Đệ tử của đức Phật (ĐườngVề.1) là phải có sự sáng suốt, ngăn ngừa bảo vệ không cho tà giáo ngoại đạo xâm chiếm vào Phật giáo.

Đệ tử xuất sắc nhất của đức Phật (12Duyên) người nào có thể tu hành đúng,tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh, chết.

Để lại nhục thân (Tạoduyên) Thiền định nào cũng để lại nhục thân được, nhưng các loại định tưởng thì phải nhập những định cao hơn Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ. Để lại nhục thân là còn có mục đích cầu danh, đó cũng là một lối lừa đảo người đời sau.

Đi (4Tâm) Dùng ý dẫn tâm để thực hiện tâm từ nơi bước đi: Dưới bước chân ta đi có rất nhiều sinh vật nhỏ bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn thận để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật. Nhờ nhắc như vậy mà tâm ta tỉnh thức và lưu ý ở bàn chân. Nhờ nhắc nhở hoài nó gây cho ta tâm thương yêu, thắm thía. Nếu hàng ngày trau dồi tu tập như thế thì lòng từ của ta huân tập thành thói quen thương xót và ban rải khắp chúng sanh. Khi tâm từ ta ban rải thì ngọn cỏ ta cũng không nỡ đạp lên, sợ nó mềm yếu, héo úa. Khi ta trau dồi lòng từ như vậy thì nếu người ta có chửi mắng ta cũng không giận. Đi là động, ta phải trau dồi tâm từ trong hành động. Khi ta đang đi thiền hành và biết dùng pháp hướng nhắc tâm tức là ta đang trau dồi tâm từ. Nếu trong bước đi mà ta thấy trong ta có tình thương yêu rộng lớn, và luôn luôn tránh né để không giẫm đạp lên kiến hay bất cứ một loại côn trùng nào tức là ta viên mãn lòng từ vô lượng. Tâm ta phủ trùm, thương yêu khắp vạn vật. Chỉ cần một pháp này cũng đủ để giải thoát. Khi có lòng thương rộng lớn thì không tham, không giận, và ngã chấp cũng không còn. Thương yêu cá nhân thì ngã mới có. Không phải chờ đến khi nhập Tứ Thiền, đắc Tam Minh mới diệt hết lậu hoặc, chẳng phải chờ đến khi nhập Niết Bàn mà lòng ta đã là Niết Bàn sau một năm tu tập tinh chuyên!

Đi kinh hành (GiớiĐức.2)(ĐườngRiêng)(TâmThư.1) là đi theo pháp môn đang thực hiện để xả tâm ly dục ly ác pháp; để ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp; để nhiếp tâm và an trú tâm; để thực hiện tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ. Không cần phải đi suốt 3 tiếng đồng hồ, chỉ nên tu tập theo đặc tướng hoặc tu theo trạng thái đang bị hôn trầm thùy miên, phải đi vừa với sức của mình mà thôi, đi trong trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn để biết rõ từng niệm khởi xả tâm cho thật sạch. Đi nhiều ít là do sức lực của hành giả chứ không được ức chế. Ði kinh hành là tập trung ý tứ vào thân hành niệm, phải trụ tâm nơi bước đi, không khởi niệm nói chuyện, hỏi và nói pháp. Nếu đi kinh hành khởi niệm nói chuyện, hỏi và nói pháp tức là đi kinh hành sai pháp. Ði kinh hành nói pháp, luận pháp thì tâm trí làm sao tập trung nơi bước đi cho được. Hành động tu hành như vậy là tu sai, không đúng pháp đi kinh hành, cũng như trong thời gian tu tập các pháp môn khác cũng không được nói chuyện, cho nên pháp độc cư của Phật dạy là bí quyết thành công trong việc tu hành thiền định.

Ði kinh hành có hai pháp: 1- Ði kinh hành như người đi bình thường, đi mình biết từng bước đi. Ði kinh hành phải tập đi như người vô sự, không nên đi nhanh mà cũng không nên đi chậm. 2- Ði kinh hành theo pháp Thân hành niệm, mỗi hành động bước đi đều phải tác ý trước khi bước đi.

Khi không bị hôn trầm thùy miên vô ký ngoan không thì tác ý trong đầu, còn khi bị hôn trầm thùy miên vô ký và ngoan không thì nên tác ý ra tiếng nói như truyền lệnh. Khi mới bước chân vào chùa tu tập thì nên tu tập các pháp đi kinh hành này cho nhuần nhuyển. Người nào muốn chứng đạo thì nên đi kinh hành nhiều, vì đi kinh nhiều tâm mới tỉnh táo, nhờ tâm tỉnh táo mà không có các niệm ác pháp nào xen vào được nên tâm sẽ bất động thanh thản an lạc và vô sự.

Ði kinh hành có lực đẩy hay Ði kinh có trạng thái hỷ lạc (TâmThư.1) là do hành tưởng và xúc tưởng hỷ lạc.

Ði kinh hành có vọng tưởng khởi niệm (TâmThư.1) là ý thức tưởng.

Ði nhiễu quanh (GiớiĐức.2) (quanh giảng đường) có hai ý: 1- Một là con đường đi chung quanh giảng đường. 2- Hai là đi quanh giảng đường để tỏ lòng cung kính, nơi thuyết giảng pháp của Ðức Phật. Ði nhiễu quanh có 2 cách: 1- Ði vòng quanh bên hữu (đi theo chiều kim đồng hồ), tức là đi vòng quanh về phía bên tay mặt, đi như vậy là tốt, đúng cách đi nhiễu quanh. 2- Ði vòng quanh về phía bên tay trái (đi ngược chiều kim đồng hồ), đi như vậy là xấu, sai, không tốt, không đúng cách. Thường đi nhiễu quanh là phải đi ba vòng. Theo giáo pháp tưởng giải của Ðại Thừa đi như vậy có nghĩa là tiêu biểu để chỉ cho ba ngôi Tam Bảo, trừ tam độc (tham, sân, si), tịnh tam nghiệp (Thân, miệng, ý), diệt tam ác đạo (súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục). Ðiều đó chỉ là một sự tưởng tượng của Ðại Thừa giáo mà thôi, chứ đâu phải đi như vậy là trừ tam độc, tịnh tam nghiệp được, đó chỉ là xảo ngôn lừa đảo mà thôi.

Ði phải biết mình đi (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) Ðó là Chánh niệm tỉnh giác định về thân hành hai chân đi,là đi trong chánh niệm tức là đi trong thiện pháp không dậm đạp lên chúng sanh, là đi trong tâm ly dục ly ác pháp, biết từng bước đi của mình, khi dỡ chân lên cũng như lúc để chân xuống, tâm tỉnh thức theo dõi từng hành động của chân bước. Bước đi phải nhẹ nhàng thoải mái không chậm, cũng không nhanh, đi vừa kịp tâm chú ý bước chân đi; đi khoan thai như người vô sự, như người nhàn du nhưng đều biết rất rõ bước đi. Ðó là phương pháp tu tập tỉnh thức trong khi đi để tâm được tỉnh thức. Tu tập tỉnh thức trong khi đi thì sẽ tỉnh thức từng tâm niệm được. Tỉnh thức từng tâm niệm được thì xả bỏ tất cả ác pháp và tâm tham, sân, si dễ dàng; tỉnh thức trong khi đi thì sẽ phá hôn trầm, thùy miên, vô ký rất tuyệt vời. Nếu chịu khó siêng năng tu tập hằng ngày thì sức tỉnh thức ngày càng tăng, sự ly dục ly ác pháp ngày càng nhiều. Nhờ đó, tâm thanh thản, an lạc và vô sự càng lúc thời gian càng dài hơn. Muốn chứng đạt giải thoát thì lo tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác như vậy: “Khi đi biết mình đi”. (Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).

Đi trong thiện pháp (PhậtDạy.4) là đi không dậm đạp lên chúng sanh, là đi trong tâm ly dục ly ác pháp. Ði biết mình đi là biết từng bước đi của mình, biết rõ ràng khi dỡ chân lên cũng như lúc để chân xuống, tâm tỉnh thức theo dõi từng hành động của chân bước. Bước đi phải nhẹ nhàng thoải mái không chậm lắm, nhưng cũng không nhanh, đi vừa kịp tâm chú ý bước chân đi, đi khoan thai như người vô sự, đi như người đi nhàn du nhưng đều biết rất rõ bước đi, phải tỉnh thức trên bước đi. Ðó là phương pháp tu tập tỉnh thức để tâm được tỉnh thức. Nhờ tu tập tỉnh thức đi mình biết mình đi, đó là hành động đi nhưng tỉnh thức trên hành động đi được thì sẽ tỉnh thức từng tâm niệm được. Tỉnh thức từng tâm niệm được thì xả bỏ tất cả ác pháp và tâm tham, sân, si dễ dàng.

Địa giới hành (TruyềnThống.1) Người tu theo Phật phải giữ gìn tâm mình như đất.

Ðịa ngục (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.1)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.2)(CầnBiết.4)(10Lành) Địa ngục ở đây không phải cõi địa ngục mà là trạng thái đau khổ của thân hay phiền não của tâm. Ðịa ngục là sự đau khổ của mỗi người, là trạng thái đau khổ như đang cơn bạo bệnh, là trạng thái đang đau nhức do bệnh tật, do bị đánh đập, là những người bệnh tật nằm liệt giường; là những người mắt mù, tai điếc, hoặc tay chân tật nguyền, hoặc câm ngọng nói ấp a, ấp ớ, hoặc bệnh thần kinh ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết thiện ác, trái phải; hoặc trí nhớ quá kém, quên trước, quên sau; là những tai nạn gãy tay, gãy chân. Ðịa ngục là con đường khổ đau nhất trong sáu nẻo luân hồi, phải thọ chịu mười quả khổ đau. Nên kinh sách Phật thường nhắc nhở chúng ta phải siêng năng tu tập ngăn ác, diệt ác pháp; sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp thì mới thấy sự an vui và hạnh phúc. Muốn tu tập để thoát ra trạng thái đau khổ này và chấm dứt tái sanh luân hồi thì chỉ có tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật có nói đến Ðịa Ngục, đó là Ðịa Ngục tại thế gian, tại tâm: Làm ác chịu quả khổ. Nhưng ngườiđời không hiểu, cho đó là có Ðịa Ngục thật sự.

Ðịa ngục A Tỳ (ĐườngVề.6) có nghĩa là cuộc sống của con người tại thếgian này đang chịu đựng những sự khổ sở tận cùng. Ví dụ: Bệnh bán thân, nằm, ăn, đại, tiểu tiện một chỗ; bệnh ung thư đau nhức khổ sở; bệnh cùi ngứa, đau nhức và chịu hôi thối; bệnh thần kinh la hét chẳng biết chi hết, vì thế người bị bệnh này bị nhốt như một con thú vật không khác hoặc chúng ta đi vào những bệnh viện thấy những bệnh nhân nằm la liệt đau khổ vô cùng. Ðó là địa ngục A Tỳ tại trần gian chứ không phải là sự tưởng tượng địa ngục thế giới siêu hình của con người mà từ lâu người ta đã bị các tôn giáo lừa đảo; đừng hiểu địa ngục A Tỳ là một cảnh giới siêu hình để hành phạt những linh hồn tội lỗi.

Ðịa táng (CầnBiết.1) là xây mồ mả giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình. Những dân tộc có tình cảm sâu xa như dân tộc Việt Nam, Trung Hoa thì địa táng. Loại địa táng là tình cảm thiêng liêng nhất của loài người, địa táng còn lưu lại dấu tích sau cùng để con cháu tưởng nhớ, khó quên tổ tiên dòng giống, duy trì và truyền thống một nền đạo đức ân nghĩa sâu dày. Ðịa táng là một sự giữ gìn vệ sinh môi trường sống rất tốt, nhưng nó không được trọn vẹn vệ sinh bằng hỏa táng cộng địa táng.

Điên đảo kiến (ĐạoĐức.2) là người sống vì ý kiến, ý thức hệ bất đồng giữa họ và các người khác.

Điên đảo tâm (ĐạoĐức.2) là người sống vì của cải vật chất nhà cửa ruộng đất... mà sanh ra buồn phiền, tức giận.

Điên đảo tình (ĐạoĐức.2) là người sống vì con cái người thân... của họ mà làm cho họ phiền muộn, tức giận.

Điên đảo tưởng (CầnBiết.4) tưởng có thế giới siêu hình; tưởng các pháp thế gian là chân thật, là có thật; tưởng có cái ta, có cái của ta và bản ngã của ta…là chân thật có; tưởng tâm này có thật nên buồn vui, sầu khổ, giận hờn, thương ghét…là chân thật có; tưởng thân này là thật nên bệnh đau, tai nạn là chân thật có; tưởng cho vàng, bạc, ngọc, ngà, châu báu…là chân thật có.

Điều Ngự Trượng Phu (CầnBiết.3) nghĩa là bậc điều khiển được mình và tất cả chúng sanh tức là bậc đã làm chủ được mình và tất cả các pháp, nói một cách dễ hiểu hơn là bậc tâm đã bất động trước các pháp và các cảm thọ. Điều Ngự Trượng Phu còn gọi là “Thánh hạnh nhiếp phục các pháp và các cảm thọ”.

Ðiều phục được tâm (PhậtDạy.1) tức là làm chủ được tâm, có nghĩa là tâm ham thích một việc gì thì không làm theo, tức là tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham sân si tức là tâm bất động; là tâm nhu nhuyễn, dễ sử dụng; là tu đã xong. Khi thân bị bệnh đau nhức ta giữ tâm bất động, không dao động, không hề sợ hãi, không sợ chết, không lo bệnh nặng hay nhẹ, không đi bác sĩ uống thuốc này, thuốc nọ, v.v... đó là điều phục tâm.

Điều thân, điều tức, điều tâm (TâmThư.1) là phương pháp ức chế thân tâm để đạt không niệm khởi, là cách thức tu tập để nhập vào tà thiền của ngoại đạo, không đúng cách thức tu thiền định của Phật giáo...

Điểu táng (CầnBiết.1) họ đem thây người chết vào rừng cắt ra từng miếng thịt nhỏ, quăng ném khắp nơi để cho loài chim bay đến ăn thịt. Cách thức điểu táng gây ra môi trường ô nhiễm ghê gớm, mùi tanh, hôi, thối bốc ra khắp cả một vùng rừng núi, khiến cho không ai dám đến nơi đó. Tục lệ điểu táng là một việc làm thiếu vệ sinh, gây ô nhiễm, khiến mọi người dễ sanh bịnh tật khổ đau.

Ðiệp phái quy y Tam Bảo (ĐườngVề.7)(CầnBiết.1) Ðiệp phái quy y Tam Bảo là do Phật giáo bị phân chia ra làm nhiều bộ phái, các tổ muốn biết số người theo Phật giáo bao nhiêu nên lập ra Ðiệp phái. Khi truyền giáo từ Trung Quốc sang Việt Nam, các tổ Ðại thừa biến tờ Ðiệp phái thành loại giấy thông hành cho người chết. Khi xuống Ðịa Ngục, nhờ những tờ điệp phái này mà vua Diêm Vương cùng quỷ sứ giảm khinh tội trạng và sớm được đầu thai. Nếu ai không có giấy này thì không được giảm tội, và có thể ở tù chung thân dưới địa ngục, không được đi đầu thai. Ðây là một sự lừa đảo, lường gạt của các nhà sư Ðại thừa, để lôi cuốn người khác theo tôn giáo mình. Cho nên, người nào được làm lễ quy y Tam Bảo là được “nhập quốc tịch Thích Ca”, và quỷ sứ vua Diêm Vương không hành phạt. Thật sự, tờ điệp phái là một giấy chứng thật đã quy y theo Phật, chứ không phải là bùa hộ mệnh và cũng không phải là giấy thông hành. Ðó là cách thức lừa đảo của kinh sách phát triển. Nên nhớ, tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng, tức là không cần phải giấy tờ chứng điệp gì hết. Ðó là đã quy y Phật, Pháp, Tăng rồi.

Ðịnh (PhậtDạy.2)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.6)(CầnBiết.2) Ðịnh là tâm thanh tịnh, tâm ly dục, ly ác pháp; định là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; định là tâm không tham, sân, si, mạn, nghi; định là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; định là tâm không phóng dật. Chữ “định” của Phật giáo có nghĩa là tỉnh giác, tĩnh thức xả tâm dục và ác pháp, tĩnh thức tâm không phóng dật; tĩnh thức tâm thanh thản; tĩnh thức tâm bất động trước các pháp và thọ; tĩnh thức thân tâm tịnh chỉ các hành; tĩnh thức tâm Tứ Như Ý Túc và tĩnh thức tâm trong Tam Minh (Các loại định: Ðịnh Niệm Hơi thở, Ðịnh Chánh Niệm Tĩnh Giác, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Vô Tướng Tâm, Ðịnh Bất Ðộng Tâm, v.v... đều nhắm vào sự xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ không phải ngồi tĩnh lặng như con cóc, để rồi sanh ra các trạng thái dục tưởng lầm chấp cho đó là định.

Ðạo Phật dùng chữ “định”, để chỉ cho tâm “vô lậu”, tâm vô lậu là tâm đoạn diệt ngũ triền cái và thất kiết sử. Lúc nào cũng tĩnh thức trong mọi hành động thân nội hay ngoại đều phải kèm theo pháp hướng tâm (Như lý tác ý) “Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán thân vô thường, quán thân vô ngã, quán tâm như đất, v.v...”.). Định của giới luật sanh ra là sự “tĩnh thức” luôn luôn hoạt động trong “tầm và tứ thiện”. “Ðịnh” của Phật giáo phải do “giới sinh định”. Giới là pháp môn ly dục ly ác pháp. Khi tâm ly dục ly ác pháp thì tâm nhập Ðịnh Tâm Bất Ðộng. Ðịnh tâm bất động là khi tâm định trên thân hành tức là thân động dụng chỗ nào thì tâm biết ngay chỗ ấy, như khi ngồi thì tự nhiên biết hơi thở ra vô.

Ðịnh là do sống không làm khổ mình, khổ người có nghĩa là sống mà không tham sân si, mạn, nghi. Người sống giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào, thì người ấy nhập định, là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là nhất tâm. Nhất tâm là chỗ tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, là bất động tâm, là vô tướng tâm tức không có ba tướng làm tâm động (dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu). Vì thế đừng hiểu lầm định của giới luật là tâm bất động không vọng tưởng, chẳng niệm thiện niệm ác; cũng đừng hiểu với nghĩa là tịch chiếu. Nhất tâm không phải là tâm không có vọng tưởng tức là tâm không có niệm khởi theo nghĩa của Ðại Thừa và các giáo phái Bà La Môn là loại thiền định tưởng do ức chế ý thức để tưởng thức hoạt động.

Định căn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Định là sự bất động nơi thân và tâm của chúng ta; căn là cội gốc. Định căn có nghĩa là cội gốc im lặng, bất động của thân tâm, không ức chế tâm. Muốn có được cội gốc định thì phải tu tập pháp môn Tứ Thánh Định, như Đức Phật dạy: “Ðịnh căn cần tu tập Tứ Thánh Ðịnh”. Muốn nhập Tứ Thánh Ðịnh thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi. Khi có đủ bảy năng lực Giác Chi thì mới tu tập Ðịnh Như Ý Túc. Khi tu tập viên mãn Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là lúc bấy giờ tâm chúng ta bất động trước các pháp và các cảm thọ, vì nó đã lìa dục và bất thiện pháp nên trong nội tâm có bảy năng lực Giác Chi. Khi biết tâm có đủ bảy Giác Chi thì dùng chúng mà tu tập Tứ Như Ý Túc. Muốn tu tập Tứ Như Ý Túc thì đầu tiên phải tu tập Định Như Ý Túc. Muốn tu tập Định Như Ý Túc thì dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền (Sơ Thiền là loại định đầu tiên trong Tứ Thánh Định). Một khi nhập được Sơ Thiền là chúng ta đã có cội gốc chánh định (định căn). Từ Nhị Thiền chúng ta mới có định thật sự. Chưa nhập được Sơ Thiền thì chưa có cội gốc định. Cho nên, phải hiểu Tứ Niệm Xứ chưa viên mãn thì đừng nói đến Sơ Thiền… Phải nhập cho được Nhị Thiền mới có định, sau đó mới có thể lên từng bậc định cao hơn. Muốn nhập Nhị Thiền phải dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi tu tập Ðịnh Như Ý Túc xả trạng thái Sơ Thiền, khi nào xả hết trạng thái Sơ Thiền thì mới nhập được Nhị Thiền, và muốn tiếp tục nhập các định cao hơn thì cũng phải dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi và Ðịnh Như ý Túc để xả và nhập định, đức Phật dạy: “Nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc”. Tứ Thánh Ðịnh là những pháp môn tu tập tạo ra cội gốc định (định căn) chân chánh của Phật giáo. Thiền định của Ðạo Phật nhắm vào sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chuyển hóa nhân quả, chấm dứt luân hồi. Bởi vậy, đức Phật dạy: “Ðịnh căn cần tu tập Tứ Thánh Ðịnh”.

Định của Phật giáo (PhậtDạy.4) là chỗ tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Ðịnh của Phật còn có tên là bất động tâm, còn có tên khác là vô tướng tâm tức không có ba tướng làm tâm động, đó là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Cho nên, chữ nhất tâm có nghĩa là bất động tâm, chứ không phải chỗ tâm không niệm khởi, không phải chỗ tâm không vọng tưởng. Ðịnh là tâm bấtđộng trước các ác pháp và các cảm thọ. Chonên, “Ðịnh tướng là Tứ Niệm Xứ”, tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Pháp tu tập thiền định hằng ngày thì “Sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy”. Hằng ngày luyện tập, tu tập, tái tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp là đã tu tập thiền định của Phật giáo, chứ không phải ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở hoặc giữ tâm không vọng tưởng, v.v…

Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác (CữSĩTu) gồm có hai phần: 1- Tu tập Tỉnh thức trên bước đi. 2- Tu tập Tỉnh thức trong những hành động sống hằng ngày. Tỉnh thức trên bước đi gồm có bốn giai đoạn tu tập: 1/ Giai đoạn thứ nhất: Ði kinh hành nhưngười vô sự. Trước khi đi nên tác ý như sau: “Ði kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi chân trái bước thì đếm một; chân phải bước đếm hai; chân trái bước đếm ba; chân phải bước đếm bốn... cứ như vậy, mỗi bước chân đếm tăng lên một số cho đến 20. Ðúng hai mươi bước thì đứng lại tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi tiếp tục đi lại như cũ. Và cứ tu tập như vậy cho đến khi đúng 30 phút thì xả nghỉ. 2/ Giai đoạn thứ hai: Ði kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước thì đứng lại tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác ý xong liền hít vô thở ra 5 hơi thở (hít thở bình thường). Khi hít thở 5 hơi thở xong liền tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Ði kinh hành 20 bước cộng năm hơi thở suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. 3/ Giai đoạn thứ ba: Ði kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước thì đứng lại rồi ngồi xuống theo kiểu bán già hoặc kiết già, giữ lưng thẳng, mắt nhìn phía chóp mũi, tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác ý xong liền hít vô thở ra 5 hơi thở (hít thở bình thường). Khi hít thở 5 hơi thở xong thì đứng dậy rồi tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Ði kinh hành 20 bước cộng thêm tư thế ngồi hít thở 5 hơi thở. Tu tập như vậy suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. 4/ Giai đoạn thứ tư: Ði kinh hành theo pháp môn “Thân Hành Niệm”. Phương pháp này tu tập theo lệnh truyền của pháp môn như lý tác ý. Ðây là một mẫu truyền lệnh của pháp môn Thân Hành Niệm: (Xin lưu ý: Tác ý truyền lệnh xong rồi thân mới thực hiện hành động theo) - Co tay trái để sau lưng! - Tay phải để lên tay trái! - Chân trái (chuẩn bị)! - Dở gót (lên)! - Dở chân (lên)! - Ðưa (chân) tới! - Hạ chân (xuống)! - Hạ gót (xuống)! - Chân phải (chuẩn bị)! - Dở gót (lên)! - Dở chân (lên)! - Ðưa (chân) tới! - Hạ chân (xuống)!- Hạ gót (xuống)! Ðến bước thứ 20 thì thêm hành động “Kéo (chân) về!”, trước hành động “Hạ chân (xuống)!”, để hai bàn chân hạ xuống đứng ngang bằng nhau. Khi đứng lại xong, tiếp tục truyền lệnh cách thức ngồi: - Tay phải buông thõng xuống! - Tay trái buông thõng xuống! - Tay trái đưa thẳng ngang mặt! - Tay phải đưa thẳng ngang mặt! - Hai chân co ngồi xuống! - Tay trái chống đất sau lưng! - Tay phải chống đất sau lưng! - Hạ thân ngồi xuống! - Chân trái duỗi ra! - Chân phải duỗi ra! - Chân trái co lại! (kiểu bán già) - Chân phải co lại gác lên chân trái! (kiểu bán già) - Tay phải đặt lên giữa hai bàn chân! - Tay trái đặt lên tay phải! - Lưng thẳng (lên)! - Hít thở 5 hơi! (Hít thở bình thường, mỗi một lần “Hít vào - Thở ra” thì đếm 1 lần, đếm từ 1 đến 5). Ðếm đủ 5 hơi thở xong tiếp tục truyền lệnh cách thức đứng lên: - Tay trái chống đất sau lưng! - Tay phải chống đất sau lưng! - Chân phải duỗi ra! - Chân trái duỗi ra! - Chân phải co lại! - Chân trái co lại! - Ngồi lên! - Tay trái đưa thẳng ngang mặt! (Hoặc: Tay trái chống gối trái!) - Tay phải đưa thẳng ngang mặt! (Hoặc: Tay phải chống gối phải!) - Hai chân đứng lên! Khi đứng lên xong quý phật tử tiếp tục đi 20 bước vòng thứ 2... và cứ tu tập như vậy cho đến 30 phút thì xả nghỉ.

Định Giác Chi (ĐườngVề.9)(TrợĐạo) Trạng thái Ðịnh Giác Chi là thân tâm đều định vào nhau tức là Tâm định trên thân, thân định trên tâm trong trạng thái Hỷ Giác Chi kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không mất trạng thái thân tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ (Tâm định trên thân, thân định trên tâm) là có Ðịnh Giác Chi. Tâm định trên thân, thân định trên tâm là một nội lực của tâm rất lớn và vi diệu, khiến cho tâm nhu nhuyễn, định tĩnh, dễ sử dụng.

Ðịnh Không Tưởng (ĐườngRiêng) Nhập vào định này sẽ trở thành cục đá gốc cây, chẳng có lợi ích gì cho loài người.

Ðịnh kiến (PhậtDạy.1) là ý kiến riêng có sẵn từ trước, khó thay đổi. Từ lâu ta có định kiến về con người “Có sự sống sau khi chết”, do định kiến ta tin ngay liền không cần phải suy tư xem xét cho kỹ lại. Tin như vậy sẽ trở thành những người mê tín, lạc hậu, mang đến nhiều điều bất hạnh.

Ðịnh Kim Cang (TâmThư.1) là định tưởng chứ không phải Tứ Thần Túc. Kim Cang định chỉ có Tổ mới có.

Định là duyên của Như Chơn (12Duyên) Như Chơn tức là Định mà định là Tâm Bất Động. Khi tâm Bất Động không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm, thùy miên, vô ký xen ra, xen vô thì tâm sẽ có một niềm vui An Lạc.

Định lực (TrợĐạo)(CầnBiết.5) Khi tu tập siêng năng đúng pháp thì Niệm lực hiện tiền mà niệm lực hiện tiền từ giờ này sang giờ khác thì đó là Định lực (là Định Giác Chi). Khi niệm có lực chúng ta chỉ cần niệm là toàn cả thân tâm chúng ta gom lại thành một khối duy nhất không ai làm gì nó bị phân ra được nên gọi là Định lực. Tính chất của Định lực thông thường (không phải là Định Giác Chi) là cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo. Muốn có 4 tính chất của các tính từ này: Phần thứ nhất: Cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo để quay vào kiểm soát thân tâm, để khỏi bị đời lôi cuốn. Phần thứ hai là hạnh lực “Cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo”, đó là giữ gìn hành động thân, hành động lời nói và hành động suy nghĩ, làm cho oai nghi, tế hạnh được nhẹ nhàng, êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, những hành động đó không thể vô tình, vô ý được. Vì vậy, không làm khổ mình, không làm khổ người khác nữa. Phần thứ ba là tỉnh thức. Khi có cẩn thận, kín đáo, dè dặt, kỹ lưỡng thì phải có sức tỉnh thức rất cao, nếu không tỉnh giác thì cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo chỉ là danh từ suông. Vấn đề tu tập hàng đầu của đạo Phật là tu tập tỉnh giác, có tỉnh giác mới phát hiện được ác pháp và lòng tham đắm của mình để ngăn và diệt, nếu không tỉnh giác thì tu theo đạo Phật chỉ hoài công vô ích. Phần thứ tư là phần chánh niệm: khi có cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo thì tâm luôn luôn ở trong chánh niệm, không có tà niệm xen vào, tức là không có niệm ác. Tuy những từ "cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo" đơn giản nhưng tu tập, trau dồi thân tâm để có cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo là cả một công trình tu tập, và còn phải biết các pháp hành đúng như pháp của Phật thì mới có kết quả tốt đẹp. Tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo rất quan trọng cho cả cuộc sống trong đời, lẫn cuộc sống trong đạo. Cho nên người nào có tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngoài đời làm ăn dễ thành công, trong đạo tu hành dễ thành tựu viên mãn. Vì có cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì sự tu hành dễ tỉnh thức, các chướng ngại pháp ít xâm chiếm thân tâm. Người cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì mỗi tâm niệm thiện hay ác khởi lên, người ấy dễ nhận thấy được một cách dễ dàng. Người không có tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì tánh tình thường thô lỗ, cộc cằn, hung dữ, người như vậy tu hành rất khó khăn và đôi khi sự tu hành chẳng đi đến đâu cả, chỉ mang tiếng tu hành, chứ chẳng có ích lợi gì cho mình, cho người.

Ðịnh Như Ý Túc (ĐườngRiêng) thân tâm muốn nhập định nào thì thân tâm nhập ngay định ấy. Ðịnh Như Ý Túc có thì mới nhập được Bốn Thiền của Phật giáo.

Ðịnh Niệm Hơi Thở (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.3)(MuốnChứngĐạo)(TâmThư.1) Định Niệm Hơi Thở có 16 đề mục tu tập để đối trị 16 chướng ngại pháp trong thân tâm. Tu tập theo Phật giáo phải tu tập rất kỹ lưỡng về Ðịnh Niệm Hơi Thở để cho thân tâm có đủ năng lực đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân và tâm. Tu tập Định niệm hơi thở trong một năm thì thuần quen với mọi đề mục hơi thở, thì không còn tập luyện nữa. Lúc bấy giờ người tu sĩ chuyển qua tu tập Tứ Chánh Cần. Tu tập Hơi thở đúng cách, và gìn giữ giới luật nghiêm chỉnh nhất là hạnh ăn, hạnh ngủ, hạnh độc cư thì sẽ tốt hơn. Tu tập như vậy kết quả giải thoát sẽ không còn lâu nữa. Nhưng phải nhớ kỹ, càng tu cao thì ma chướng càng nhiều, càng tu cao thì sự đổ vỡ càng dễ dàng, nên phải đề phòng cẩn thận, nhất là hạnh độc cư phòng hộ sáu căn. Khi tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tùy theo những chướng ngại trên thân, thọ, tâm và pháp mà trạch ra những câu tác ý đúng đề mục Định Niệm Hơi Thở để diệt trừ những chướng ngại ác pháp ấy rất dễ dàng.

Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn rất quan trọng, nó được xem như là một chiếc “chổi thần” dùng để quét tất cả các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp khi tu Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ mà được viên mãn phải nhờ đến cây chổi thần này. Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm đem lại sự bình an cho thân tâm, có nghĩa là khi thân tâm gặp chướng ngại pháp, liền tức khắc dùng ngay đề mục Định Niệm Hơi Thở tương ưng thiện pháp để đẩy lui chướng ngại ác pháp đó, thì đuổi chướng ngại đi tức khắc. Ðịnh Niệm Hơi Thở là pháp tu để có sức tỉnh thức cao dễ điều khiển pháp hướng tâm đi sâu vào định tỉnh xả tâm mà không bị tưởng ma, có nghĩa tỉnh thức trong niệm thiện ác, nhờ đó mà tâm ly dục và ly ác pháp nên không bị tưởng ma quấy phá.

Định niệm hơi thở không phải là một pháp tu tập để nhập định. Ðịnh Niệm Hơi Thở của Phật giáo không có dạy dùng hơi thở để nhập các định mà chỉ dùng Ðịnh Niệm Hơi Thở để ly tham, sân, si và các ác pháp. Đức Phật không có dạy điều tức (hơi thở) mà chỉ dạy tác ý theo hơi thở để an trú tâm trong hơi thở. An trú tâm trong hơi thở là để khắc phục những tham ưu trên thân hay nói cách khác là để đẩy lui những bệnh khổ trong thân (cảm thọ) "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra" hoặc là để đẩy lui tâm tham, sân, si. "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp tu tập có kết quả lớn và lợi ích lớn cho thân tâm, nó làm cho Tứ Niệm Xứ sung mãn thể hiện được đầy đủ bảy năng lực giác chi, tạo thành Tứ Thần Túc.

Ðịnh Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra cần phải được khéo tác ý (PhậtDạy.2) Tác ý như thế nào? Trong Ðịnh Niệm Hơi Thở Phật dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Ðó là phương pháp tác ý đoạn tận tâm tham. Với tâm sân, cũng nương vào hơi thở mà tác ý như vậy: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”. Với tâm si, cũng nương vào hơi thở mà tác ý: “Quán ly si tôi biết tôi hít vô, quán ly si tôi biết tôi thở ra”. Muốn cho tâm được định tỉnh không còn bị hôn trầm, thùy miên thì cũng nương vào hơi thở mà tác ý: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Với tâm phiền não, lo lắng, sợ hãi, v.v..thì cũng nương vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn tâm tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn tâm tôi biết tôi thở ra”. Phần tinh cần đoạn tận đau nhức hay bệnh tật về thân thì mỗi khi thân có đau nhức hay bệnh tật thì cũng nên an trú vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Cứ bền chí mà tác ý như vậy đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ nữa mới thôi.

Ðịnh Sáng Suốt (ĐườngVề.1)(CưSĩTu) tức là Ðịnh Thư Giãn hay Ðịnh Vô Sự, là Ðịnh để có thời gian nghỉ ngơi, tức là phương pháp thư giãn, có nghĩa là không còn tu tập pháp nào cả sau thời gian tu tập quá mệt nhọc vì đã ra sức dụng công nên cơ thể và tinh thần đã mỏi mệt. Ðiểm quan trọng nhất là pháp xả tâm trong giờ nghỉ. Cách thức thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn toàn nghỉ ngơi. Phải tác ý cho nó xả (tức là thư giãn) chứ không thì làm như tập luyện mà không có thời gian nghỉ ngơi, sẽ đi đến chỗ ức chế tâm. Cách thức thư giãn không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay. Thư giãn cũng là tập luyện, không phải nói thư giãn là thư giãn được liền đâu; phải tập luyện. Cứ tác ý thư giãn theo định Sáng Suốt để không bị kẹt vào các pháp tập luyện khác, làm cho nó lìa ra khỏi các pháp tu tập để nghỉ ngơi. Ðịnh Thư Giãn (hay Ðịnh Vô Sự, cũng là Ðịnh Sáng Suốt) hơi khó, vì khi yên lặng thì tâm thường gom vào hơi thở khi ngồi, còn nếu đang đi thì nó lại gom vào bước đi. Làm sao để nó không gom về hai cái đó. Thư Giãn thì phải làm như mình không biết tập luyện là gì hết, phải xả ra. Khi đi thư giãn thì phải nhắc tâm đừng tập trung tâm dưới bước chân, mà nhìn cái này cái kia nếu đi trong thất, còn đi ngoài trời thì nhìn cây cối, trời mây. Ðừng lưu ý bước chân, đừng lưu ý hơi thở, đi như người vô sự. Thư giãn thì trở về trạng thái như khi không tập luyện gì hết. Tác ý để cơ bắp, thần kinh lơi ra, thư giãn ra.

Ðịnh Sáng Suốt gồm có hai trường hợp tu tập: 1- Bình thường tâm không tán loạn, không thùy miên, không vô ký, không lờ mờ, không nửa tỉnh nửa mê, không bần thần lười biếng, thì dùng pháp hướng trong khi đi kinh hành hoặc ngồi một chỗ, như lý tác ý: “Tâm phải sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản, tâm phải vô sự”. 2- Khi tâm bị thùy miên (buồn ngủ), hôn trầm (ngủ gục), vô ký (mất tỉnh giác) hôn tịch (tỉnh tỉnh mê mê) bần thần, lười biếng, không nên ngồi, nên đi kinh hành dùng pháp hướng tâm: “Tâm phải tỉnh thức, sáng suốt đêm như ngày”, “Tâm phải tỉnh táo như ban ngày”, “Tâm phải sáng suốt như ánh mặt trời”. Cách thức tu tập Ðịnh Sáng Suốt có hai giai đoạn: - Giai đoạn một: Ví dụ, lúc 7 giờ sáng bắt đầu tu Ðịnh Niệm Hơi Thở đến 7 giờ 30 thì xả ra nghỉ, xả nghỉ tức là thư giãn, thư giãn tức là tu Ðịnh Sáng Suốt. Muốn tu Ðịnh Sáng Suốt thì phải ngồi tựa lưng, buông thõng hai tay hai chân, các cơ trong thân cũng phải đều buông thõng xuống hết rồi hướng tâm nhắc: “Các cơ trong thân buông xuống hết, thần kinh trong thân đều thư giãn hết, thân tâm phải thoải mái, nhẹ nhàng, thanh thản, an lạc và vô sự”, khi nhắc như vậy xong thì buông thõng các cơ xuống không được gồng một cơ bắp nào cả và tâm thì không được tập trung vào một đối tượng nào, để tự nhiên cho thân tâm tự do một cách dễ chịu. - Giai đoạn hai: Ví dụ: Khi thân tâm thoải mái dễ chịu thì hướng tâm nhắc: “Thân tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, tâm phải sáng suốt như ban ngày, như ánh sáng mặt trời”. Trong thời gian thư giãn, thỉnh thoảng lại nhắc câu pháp hướng như trên để giúp cho thân tâm nhẹ nhàng thoái mái cho đến hết giờ thư giãn. Trong lúc tu Ðịnh Sáng Suốt thư giãn nếu thân tâm cảm giác tỉnh táo nhẹ nhàng thanh thản an lạc và vô sự thì đó là tu đúng, bằng ngược lại là tu sai. Khi thư giãn xong cơ thể phục hồi lại sức khoẻ, cảm giác tỉnh thức và siêng năng ham tu; còn ngược lại thì tu sai. Cách thức tu Ðịnh Sáng Suốt là dùng pháp Hướng Tâm thư giãn các cơ trong thân cũng như thư giãn thần kinh, khiến cho các cơ và thần kinh buông xuống không còn một chút xíu dụng công và ức chế nào nên thấy cơ thể và tinh thần nhẹ nhàng thoải mái. Khi thư giãn, chúng ta cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc, nghe rất thoải mái vô cùng. Ở đây, nên dùng câu pháp hướng, ra lệnh cho các cơ và thần kinh thư giãn bằng cách hướng tâm. Khi cảm giác cơ thể mệt nhọc, đầu óc căng thẳng thì nên ngồi nghỉ, hai chân duỗi thẳng dài ra, hai tay buông thỏng, thả nhẹ xuống, các cơ trong thân không được gồng, tinh thần không được suy nghĩ và tập trung nơi nào cả, chỉ để nó tự nhiên theo tự nhiên của nó. Khi cảm giác thân tâm buông thỏng mới hướng tâm: “Toàn thân an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn” hoặc “Toàn tâm an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn”. Xong, để thân tâm tự nhiên thư giãn và an tịnh. Kế tiếp, lại hướng tâm nữa: “Các cơ trong thân thư giãn, buông xuống không được gồng phải nhẹ nhàng thanh thản, an lạc và vô sự”. “Ðầu óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với vạn pháp”. Ðịnh Sáng Suốt tuy trong kinh Nikaya đức Phật dạy phải dùng tưởng tâm sáng suốt như ban ngày, sáng suốt như mặt trời, v.v… nhưng theo kinh nghiệm của Thầy hiểu định này là một loại Thiền định thư giãn các cơ và thần kinh trong thân. Khi dụng công tu tập nhiều thì thân tâm mỏi mệt, sanh ra lười biếng, trí óc u tối không còn sáng suốt, mỏi mệt. Gặp trường hợp này, phải tu Ðịnh Sáng Suốt. Ðịnh Sáng Suốt tức là phương pháp thư giãn của đạo Phật, giúp thư giãn thân tâm, khiến cho các cơ và tinh thần không còn căng thẳng, mỏi mệt nữa. Do đó khi mỗi thời gian tu tập một loại định nào xong, đều dùng định này để thư giãn, nhờ đó liên tục tu tập mà thân tâm không thấy mỏi mệt, hôn trầm, thùy miên; càng tu càng tỉnh thức và càng sáng suốt; càng tu càng thích thú và ưa thích ham tu hơn; càng tu càng thấy tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát rõ ràng. Nếu người tu hành theo đạo Phật không biết loại Ðịnh Sáng Suốt này thì dễ bị ức chế thân tâm và nếu ức chế thân tâm quá căng thì dễ sanh ra bệnh tật, hoặc bị căng mặt, căng đầu có khi rối loạn thần kinh, sanh ra điên khùng mất trí. Ðó là, những cách hướng tâm để thư giãn, các con nên nhớ mà tu tập đừng nên biếng trễ. Ðịnh Sáng Suốt sẽ giúp cho mau chóng tỉnh giác, để luôn luôn ở trong chánh niệm, nhờ đó, mới ly tham đoạn ác pháp. Có ly tham đoạn ác pháp thì mới nhập được Thiền định và Tam Minh.

Định Tư Cụ (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.6)(ĐườngRiêng)(CầnBiết.3) (hay Định tu tập) là phương pháp dùng để tu tập thiền định, là Tứ chánh cần ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, phải tu tập trong bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, để xả tâm ly dục ly ác pháp và từ bỏ từng niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Chính Bốn Chánh Cần là tu tập thiền định của Phật giáo, ngoài Bốn Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định đúng chánh pháp.

Ðịnh Tư Cụ cần thực hiện ba loại định: Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh, Ðịnh Niệm Hơi thở và Ðịnh Vô Lậu, chứ không phải ngồi kiết già, lưng thẳng, hít vô thở ra, tập trung tâm ở tại mũi, ở trán, ở bụng phình xẹp, hay ở đan điền, v.v... hết sức cố gắng tập trung tâm để làm cho vọng tưởng không sanh khởi. Tu thiền, nhập định như vậy là không đúng thiền của Phật giáo. Tu hơi thở không thể nhập định được, tu hơi thở là để an trú thân tâm trong hơi thở. An trú thân tâm trong hơi thở là để đẩy lùi các chướng ngại pháp. Quý Sư, Thầy hiện giờ dạy người tu tập thiền định bằng quán niệm hơi thở, quán phình xẹp cơ bụng (Minh Sát Tuệ), quán niệm Phật nhất tâm (Tịnh Độ), quán tri vọng (biết vọng liền buông), niệm chú bắt ấn (Mật Tông), tham công án, tham thoại đầu (Thiền Tông), v.v... các pháp trên không phải từ giới luật mà thành định. Nếu không phải từ giới luật sinh ra định thì những pháp thiền định này là thiền tưởng, thiền của Bà La Môn, thiền của các nhà học giả nặn ra.

Định tướng (PhậtDạy.4) là trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đó là tướng định của Bốn Niệm Xứ, là tướng của định bất động tâm. Vậy ai nói hoặc kinh sách nào viết về định tướng không đúng định tướng Tứ Niệm Xứ này là kinh sách ấy viết hay người nói ấy đã nói về thiền định của ngoại đạo, không phải nói về thiền của Phật giáo.

Ðịnh tướng do giới hạnh sanh ra (ĐườngVề.6) là trạng thái tâm không phóng dật, tâm thường tự động hướng vào nội thân; trong nội thân hoạt động điều gì thì tâm đều biết rất rõ mà chẳng biết sự động dụng bên ngoài, nó không hình tướng, không có màu sắc. Còn định tướng của tưởng uẩn sanh ra là những định tướng loại ma có hình tướng, có màu sắc như màu khói trắng hoặc xám hoặc trắng như nhúm bông gòn hoặc như ngọc thạch, v.v...

Ðịnh tưởng (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.4)(TâmThư.1) là một loại thiền định ức chế tâm sinh ra, là một loại thiền định của ngoại đạo không có phương pháp dẫn tâm nhập định mà chỉ ức chế tâm cho hết vọng tưởng bằng những phương pháp tập trung tâm như: Thiền Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ, Niệm Phật Tịnh Ðộ Tông, niệm chú Mật Tông, Thiền Minh Sát Tuệ, Lục Diệu Pháp Môn, Quán Niệm Hơi Thở, Sổ Tức Quán, Chăn trâu, Công Án Tham Thoại Ðầu, Thiền Tri Vọng, v.v… Tu tập những pháp này bị căng mặt, nhức đầu, bị rối loạn thân kinh, tẩu hỏa nhập ma, con người có tâm ý ngơ ngơ ngát ngát không còn bình thường, luôn sống đặc dị, điên thì chưa điên mà tỉnh thì không tỉnh. Ðịnh tưởng là loại thiền định không ly dục ly ác pháp nên không đoạn diệt được tâm tham, sân, si. Do đó, không đủ đạo lực làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Ðịnh tưởng là một loại thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Trong định tưởng thường hay phát triển Tưởng tuệ.

Ðịnh Vô Lậu (ĐườngVề.1)(ĐườngVề.3) được thực hiện trên thân quán thân tu về nhân tướng (Tứ Niệm Xứ) để khắc phục tham ưu tức là ly dục ly ác pháp. Định vô lậu để đoạn trừ tất cả ái kiết sử. Cách thức tu tập định này có ba cách: 1- Ngồi kiết già thẳng lưng đặt niệm thân trước mặt quán xét tư duy, thấu suốt lý duyên khởi, lý duyên sanh, lý vô thường, khổ, và vô ngã, lý bất tịnh (xấu xí, bẩn thỉu, hôi thúi, uế trược, v.v...). Khi quán xét thân xong, rồi ngồi đặt niệm thọ, tâm và các pháp trước mặt cũng quán xét như vậy. 2- Ngồi kiết già lưng thẳng đặt niệm thân trước mặt, quán xét tư duy về Nhân Quả, về Bốn Ðại Duyên Hợp và Thập Nhị Nhân Duyên. Khi quán xét tư duy thân xong rồi đặt niệm thọ, tâm và các pháp cũng quán xét như vậy. 3- Khi đang tu Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác bỗng có một niệm khác xen vào ta nên lấy niệm đó đặt trước mặt quán xét tư duy, tu Ðịnh Vô Lậu liền, để xả bỏ niệm ấy cho rốt ráo, không còn tới lui, chớ không được buông ngang vì buông ngang niệm ấy sẽ sanh trở lại khiến cho tâm thất niệm. Hai loại định: Chánh Niệm Tỉnh Giác và Ðịnh Vô Lậu sẽ hỗ trợ cho nhau, khi chúng ta biết kết hợp, chúng sẽ giúp chúng ta diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ thế tâm bất động trước các đối tượng. Nếu người siêng năng tu tập như vậy, tâm được thanh tịnh hoàn toàn, giống như cục đất không còn phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét nữa. Nhiệt tâm, tinh cần, tinh tấn, không biếng trễ, không bỏ qua một giây phút nào, thì kết quả giải thoát sẽ nhanh chóng, chỉ cần một đêm tu tập sẽ trở thành bậc Thánh Hiền. Người cư sĩ tại gia cũng như người tu sĩ xuất gia đều dễ dàng tu tập hai pháp môn Thiền định này mà không sợ lạc Thiền, tẩu hỏa nhập ma hoặc rối loạn thần kinh, hoặc ông lên bà xuống như nhập đồng, nhập xác.

Ðịnh Vô Lậu câu hữu với Nhân Quả (ĐườngVề.2) Muốn cho các chướng ngại pháp không tác động vào thân tâm sanh ra lậu hoặc thì nên thường cảnh giác và giữ gìn thân, miệng, ý không cho làm hành động ác, luôn luôn phải thực hiện hành động thiện để tạo cảnh an vui cho mình cho người, để tạo sự giải thoát cho mình và các pháp chướng ngại không còn tác động được thân tâm. Đó là sự giải thoát của Ðịnh Vô Lậu câu hữu với Nhân Quả thiện ác.

Ðịnh Vô Lậu câu hữu với thân Ngũ Uẩn (ĐườngVề.2) (Ngũ Uẩn: Sắc Uẩn, Thọ uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn) có nghĩa là quán xét tư duy phá chấp thân ngũ uẩn như: 1- Câu hữu với Sắc Uẩn: Quán xét sắc thân do bốn đại đất, nước, gió, lửa hoà hợp tạo nên không có gì là của mình, không có gì là bản ngã của mình, không có gì là mình. Vậy, tại sao ta lại lầm chấp cho sắc thân này là của ta, thân này là ta, là bản ngã của ta. Từ đây, ta hiểu rõ sắc thân không phải là ta, của ta, bản ngã của ta, mà là một khối duyên hợp do nhân quả tác thành hay nói cách khác hơn cho dễ hiểu là do môi trường sống tạo nên theo qui luật vô thường của nhân quả. Khi quán xét như vậy, ta không còn dính mắc chấp đắm vào sắc thân, nhờ đó ta đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm một cách dễ dàng, các chướng ngại pháp trong tâm ta được đẩy lui thì tâm ta vô lậu, do đó nó mới có tên là Ðịnh Vô Lậu câu hữu với Sắc uẩn. 2- Câu hữu với Thọ Uẩn: Chúng ta đã quán xét tư duy tu tập thọ uẩn, để đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm. Khi thân ta bị đau nhức khổ sở, chúng ta tư duy quán xét thọ uẩn: Do sắc uẩn hành ác nên sắc uẩn thọ khổ, nếu sắc uẩn không hành ác thì sắc uẩn không có thọ khổ. - Thọ uẩn có ba trường hợp xảy ra: a) Thọ khổ, b) Thọ lạc, c) Thọ không lạc không khổ. - Thọ uẩn hoạt động hai chỗ: * Hoạt động nơi sắc uẩn gọi là não, hay là đau nhức. * Hoạt động nơi tưởng uẩn tức là tâm uẩn gọi là ưu hay là buồn phiền tức giận, lo toan, sợ hãi. Nếu sắc uẩn và tưởng uẩn không hành ác pháp thì không có thọ lạc, thọ khổ và thọ không lạc không khổ, không có ba thọ này sắc uẩn và tâm uẩn thanh thản, an lạc và vô sự. Còn sắc uẩn và tưởng uẩn hành ác pháp thì có ba thọ hiện tiền khiến cho con người phiền não đau khổ. Ba thọ có là do duyên nhân quả, nhân quả có là do hành, vì vậy quán xét nhân quả của sắc uẩn là quán xét hành động nơi thân, miệng, ý. Nếu muốn ba thọ này không có thì phải thường xuyên nơi thân, miệng, ý phải cảnh giác không làm, không nói, không suy tư điều ác, luôn phải thể hiện điều lành, tức là lúc nào cũng không làm khổ mình, khổ người. Do quán xét như vậy tâm chúng ta đẩy lui các chướng ngại pháp, đó là tu Ðịnh Vô Lậu câu hữu với thọ uẩn. 3- Câu hữu với Tưởng Uẩn: Tưởng uẩn tức là tâm uẩn. Tâm uẩn thuộc về loại vô hình nó không có hình sắc như sắc uẩn nhưng chúng ta cũng dễ nhận ra, nó thường khởi niệm tưởng, khi niệm có tức là tâm có, khi không niệm tức là tâm không, tâm không, không có nghĩa là không có tâm. Tưởng uẩn có ba trạng thái: - Niệm thiện. - Niệm ác. - Niệm không thiện không ác. Kinh sách phát triển lấy niệm không làm Phật Tánh (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hoặc chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền). Trong khi tưởng uẩn là một trong năm uẩn được kết hợp lại theo môi trường sống của luật nhân quả. Khi năm uẩn này tan rã hoại diệt thì chẳng còn một vật gì trong năm uẩn này tồn tại. Người không có trí hiểu biết thường sống trong tưởng tri lầm chấp cho rằng thân ngũ uẩn này là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Còn kinh sách phát triển lấy tâm không niệm tức là “tưởng không” làm Phật Tánh, thật là lầm chấp, sống trong ảo tưởng mà tưởng là thật tướng Niết Bàn. Tưởng uẩn được kết hợp tạo thành bằng nghiệp thiện ác; nghiệp thiện ác được tạo thành bởi dục và ác pháp cho nên người tu sĩ theo đạo Phật phải tìm mọi cách ly dục ly ác pháp tức là không tạo nghiệp thiện nghiệp ác mới nữa, không tạo nghiệp thiện nghiệp ác mới nữa tức là ly nghiệp thiện nghiệp ác mới, đó là khiến cho thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh. Còn muốn lìa nghiệp thiện ác cũ thì phải ly hỷ tưởng đây là giai đoạn thứ ba của bốn thiền đạo Phật. Muốn lìa nghiệp thiện ác cũ tức là ly hỷ tưởng thì phải đóng tầm tứ mà trong kinh Phật dạy: “Diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền hay tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị Thiền”. Khi diệt tầm tứ xong ta ly hỷ tưởng mới được, còn tầm tứ chưa diệt chúng ta không thể ly hỷ tưởng được, ly hỷ tưởng tức là lìa nghiệp thiện ác cũ. Ở đây xin quý vị nên hiểu trong bốn thiền có hai giai đoạn ly, một giai đoạn diệt, một giai đoạn xả. - Thiền Thứ Nhất: Ly dục ly ác pháp thuộc về sắc uẩn (ly là chừa bỏ hẳn, lìa xa cảnh giác tâm tham dục và các ác pháp để nó không còn trở lại). - Thiền Thứ Hai: Ly hỷ tưởng dục thuộc về tưởng uẩn (ly hỷ tưởng có nghĩa là lìa hỷ tưởng, chứ chưa diệt bỏ hẳn phải cảnh giác kẻo nó sẽ còn trở lại). - Thiền Thứ Ba: Diệt tầm tứ tức là ngưng sáu thức thuộc về sắc uẩn (diệt tức là không còn để nó trở lui, trở lại được). - Thiền Thứ Tư: Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thuộc về sắc uẩn và tưởng uẩn, xả tức là bỏ không còn lấy lại. Do sự tu tập quán xét như vậy, khiến cho tưởng dục không còn sanh khởi, tức là chúng ta đã đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm, đó là tu Ðịnh Vô Lậu câu hữu với Tưởng uẩn. 4- Câu hữu với Hành Uẩn: Hành uẩn là sự hoạt động của sắc uẩn và tưởng uẩn, chúng ta tư duy thấy các hành là vô thường, là khổ. Các hành thường có lúc hành thiện, có lúc hành ác, nhưng cũng có lúc cũng không hành thiện hành ác, sự hoạt động của các hành thì không thường, lúc như thế này lúc như thế khác, nên gọi là vô thường. Vì hành động có lúc thiện, lại có lúc ác nên tạo ra biết bao nhiêu là nghiệp khổ cho loài người nên kinh gọi các hành khổ là như vậy. Một người tọa thiền của đạo Phật thân không hành ác, nhưng thân hành thiện, miệng không nói lời ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy nghĩ điều thiện. Cho nên, đạo Phật chỉ chấp nhận hành thiện, vì vậy tu theo đạo Phật trở thành một con người hữu ích cho mình, cho người, có nghĩa là không làm khổ mình, khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng. 5- Câu hữu với Thức Uẩn: Thức uẩn là uẩn cuối cùng được tu tập. Khi bốn uẩn kia đã thanh tịnh thì chúng ta phải dùng pháp hướng đánh thức thức uẩn để triển khai trí tuệ Tam Minh, thức uẩn thanh tịnh có nghĩa là mầm mống lậu hoặc đã được quét sạch.

Ðịnh Vô Lậu tu tập có đối tượng (ĐườngVề.3) là phải thông suốt lý nhân quả, lý duyên hợp, thân ngũ uẩn, và còn phải dùng pháp hướng tâm “Tâm như cục đất”, phải tập tỉnh thức trong mọi công việc làm hàng ngày, phải thiểu dục tri túc; phải giữ gìn sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho dính mắc sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Định vô sắc (ĐườngVề.6) dùng tưởng thức mà tu. Bốn thiền vô sắc và bốn thiền hữu sắc tu hành khác nhau, không giống nhau chút nào, sự tu hành của hai loại thiền này cách biệt rất xa và cũng không phải là hai bậc thang của một cây thang. Người muốn nhập định vô sắc thì không cần phải nhập định hữu sắc. Muốn nhập Không Vô Biên Xứ Ðịnh, Ðức Phật dạy: “ý thức thanh tịnh không liên hệ ngũ căn thì nhập Không Vô Biên Xứ Ðịnh”, chứ không phải nhập Tứ Thiền (từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền) rồi mới nhập Không Ðịnh

Ðúng cách (CầnBiết.2) tu tập đúng cách là tu tập xả tâm, xả tâmđúng cách là khéo léo thiện xảo, tu tập xả tâmđúng cách là không bao giờ ức chế tâm. Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tutrước, pháp nào tu sau... Như pháp Tam Vô Lậu Học thì giới luật phải tu trước. Sau khi tu Giới Luật xong, nghĩa là sống đúng giới luật không có vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới tu tập thiền định, còn vi phạm giới luật dù là một giới rất nhỏ thì cũng còn phải tu giới luật trở lại, chứ không được tu thiền định, chừng nào giới luật thanh tịnh thì mới bắt đầu tập tu Thiền Ðịnh. Sau khi nhập xong Tứ Thiền thì mới bắt đầu tu Trí Tuệ, thiền định chưa xongmà vội tu trí tuệ là tu sai, tu như vậy trở thànhtưởng tuệ chứ không phải là trí tuệ. Cũng như tu tập Tứ Thánh Ðịnh thì phải tu tập Sơ Thiền trước tiên, sau khi Sơ Thiền được sung mãn thì mới tu tập Nhị Thiền, sau khi Nhị Thiền được sung mãn thì mới tu tập Tam Thiền, sau khi Tam Thiền được sung mãn thì mới tu tập Tứ Thiền. Nếu người tu sĩ đạo Phật giớiluật chưa nghiêm trì mà tu thiền định thì chẳng bao giờ có chánh thiền định được, thiền định của những người tu sĩ phạm giới là thiền định tưởng. Ðó là những người tu không đúng cách.

Đúng Pháp (CầnBiết.2) Sau khi nghiên cứu tường tận biết rõ pháp môn nào là của Phật, pháp môn nào không phải của Phật. 1- Pháp môn của Phật là pháp xả tâm, chứ không phải là pháp môn ức chế tâm. 2- Pháp môn của Phật là pháp môn vô ngã ác pháp, hữu ngã thiện pháp. 3- Pháp môn của Phật là pháp môn ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp. 4- Pháp môn của Phật là pháp môn toàn thiện. 5- Pháp môn của Phật là pháp môn đạođức nhân bản, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. 6- Pháp môn của Phật là pháp môn huấn luyện tâm, rèn luyện tâm, như lý tác ý. 7- Pháp môn của Phật là pháp môn dùng để dẫn tâm vào đạo đức làm người. Nếu biết rõ đúng pháp thì sẽ tu tập đúng pháp. Ngoài bảy sự hiểu biết trên đây là đúng về Phật pháp, còn lại là sự hiểu sai, hiểu sai Phật pháp tức là tu sai, tu sai thì phí công vô ích mà còn tạo thêm gánh nặng cho phật tử (tín đồ) cúng đường. Cho nên, trước khi tu thì phải nghiên cứu cho tường tận lời dạy của đức Phật rồi mới tu.

Đúng theo một lập trường (PhậtDạy.1) có nghĩa là có lối lý luận giống nhưlập trường của anh, vì vậy dù ai nói gì anh cũng không bỏ lập trường đó. Khi anh có lập trường như vậy thì có những loại kinh sách giống như lập trường của anh thì anh tin ngay.

Ðức (TâmThư.1)(ThiềnCănBản) là chỉ cho những tính chất thiện. Cùng một danh từ đạo đức, lúc thì chúng ta gọi là đức; có lúc chúng ta gọi là hạnh, do sự công dụng đạo đức đó lúc ở đức hay lúc ở hạnh mà gọi; do sử dụng danh từ đạo đức đó lúc dùng làm chủ từ thì gọi là Ðức; lúc dùng làm động từ thì gọi là Hạnh. Phân biệt giới đức và giới hạnh đòi hỏi chúng ta phải có tri kiến thấm nhuần đức hạnh thì biết lúc nào là đức và lúc nào là hạnh. Ví dụ 1: “Thương người như thể thương thân” Câu này dạy đức hiếu sinh khẩu hành. Ví dụ 2: Chúng ta nên thương yêu mọi người vì mọi người quá đau khổ trong cơn bão số 9 vừa qua. Câu này dạy đức hiếu sinh khẩu hành, là lời kêu gọi (chủ từ) mang tính chất đạo đức, nên gọi là đức.

Ðức bi tâm (ĐạoĐức.2) có nghĩa là mỗi hành động vuốt ve, an ủi và xoa dịu những vết thương đau của chúng sanh, từ loài thảo mộc đến loài động vật, khiến cho mọi loài đang sống trên hành tinh này đều được bình an, yên ổn. Ðức bi tâm là những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả để mọi người hiểu rõ mà tránh đi những hành động tự làm khổ mình, tức là những hành động vô đạo đức, thiếu sự yêu thương. Ðức bi tâm còn có ý nghĩa là luôn luôn nhìn và suy nghĩ về mọi sự việc và về mọi đối tượng đều trong thiện pháp, không hề có một chút ác pháp nào. Nếu còn một chút ác pháp thì đó chưa phải là Ðức Bi Tâm. Khi áp dụng vào đời sống thì đức bi tâm còn có nghĩa là những hành động không làm hại mình. Người có những hành động không làm hại mình là người luôn luôn giữ gìn thân tâm bất động trước các ác pháp, là người không làm hại mình. Một người có rất nhiều hành động tự làm hại mình mà không biết. Chính vì những hành động tự làm hại mình mà biến mình thành một người vô đạo đức với mình mà không biết. Chính vì nền đạo đức nhân bản - nhân quả chưa từng có ai đem ra nhắc nhở và xây dựng một lối sống đạo đức nên con người mải mê lầm lạc làm hại mình mà không biết.

Ðức Bình Tĩnh (OaiNghi) chỉ cho một trạng thái tỉnh táo cấp thời trong sự việc đang xảy ra. Ðức bình tĩnh chỉ thực hiện được bằng đức chánh niệm tỉnh giác mà thôi.

Ðức Buông Xả (TruyềnThống.1)(CữSĩTu) Ðức buông xả giúp cho con người mất của không buồn, có của cải nhiều không tham đắm, dính mắc. Người không tham đắm, không dính mắc của cải vật chất thế gian, là người sống đúng Thánh Ðức buông xả, là người có cuộc sống được an ổn, yên vui và hạnh phúc... không còn lo rầu, buồn khổ, v.v... vì vật chất. Con người có sống đúng Ðức Buông Xả thì thế gian này không còn có con người gian tham, trộm cướp nữa; thế gian này không thành địa ngục. Người sống đúng oai nghi tế hạnh Giới Ðức Buông Xả biết rõ tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có một vật gì là thường hằng, vĩnh viễn, không có một thế giới nào là vĩnh cửu, chỉ do tưởng của chúng ta tạo ra mà thôi. Những hiện tượng có được là do các duyên hợp và duyên tan tạo thành. Và vì thế con người cần phải bảo vệ và xây dựng lại thế giới của con người đang có, làm cho nó tốt đẹp, làm cho nó sáng sủa, làm cho nó có một cuộc sống đầy đủ đạo đức nhiều hơn và nhiều hơn nữa.

Đức cung kính và tôn trọng (GiớiĐức.2) gồm có ba cách cung kính và tôn trọng: 1 - Cung kính và tôn trọng pháp. 2 - Cung kính và tôn trọng người. 3 - Cung kính và tôn trọng mình.

Ðức hạnh (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4)(ĐườngRiêng) là thiện pháp, mang lại cho con người một cuộc sống an vui và hạnh phúc, là hành động sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh hằng ngày của mỗi con người. Đức hạnh gồm có: 1- Ba đức hạnh tại gia: Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. 2- Ba đức hạnh xuất gia: Ăn, ngủ, độc cư.

Ðức hạnh Bằng lòng (ĐườngRiêng) là vui lòng chấp nhận mọi ý kiến và việc làm của người khác, tức là chấp nhận và vui vẻ. Một người luôn luôn giữ gìn được tâm Bằng lòng thì người ấy sống không còn chút gì đau khổ trong lòng, không còn bị những ác pháp làm đau khổ, không còn bị các chướng ngại pháp làm khổ đau.

Ðức hạnh của giới luật (PhậtDạy.1) là đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, hay nói cách khác là Giới luật, là nền tảng đạo đức của Phật giáo, là hạnh ly dục ly ác pháp. Hạnh ly dục ly ác pháp là hạnh bất động tâm, là tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Từ tâm này mới có đủ năng lực nhập Bốn Thánh Ðịnh và thực hiện Tam Minh. Hạnh là nền tảng đạo đức của Phật giáo, còn Minh là kết quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát của Phật giáo, nên đức Phật bảo: “Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh”.

Đức hạnh của Tăng, Ni (PhậtDạy.4) phải thông suốt Thánh giới uẩn của người cư sĩ và thông suốt 10 giới Sa Di, 250 giới Tỳ kheo Tăng và 348 giới Tỳ kheo Ni và thông suốt toàn bộ đức hạnh của giới kinh như kinh Sa Môn Quả, kinh Sa Môn Hạnh, kinh Phạm Võng, phải giác ngộ đức giới, hạnh giới và giới hành của nó.

Đức hạnh độc cư đúng (TâmThư.1) Con đường tu học của Phật giáo có ba chặng: Chặng đầu gọi là Giới, chặng giữa gọi là Ðịnh, chặng cuối cùng gọi là Tuệ. Ðộc Cư cũng chia ra làm ba giai đoạn tu tập: 1- Giai đoạn đầu: Ðộc cư giới tức là giữ gìn độc cư theo giới luật (phòng hộ sáu căn theo giới luật) 2- Giai đoạn giữa: Ðộc cư Ðịnh tức là giữ gìn hạnh độc cư theo thiền định (phòng hộ sáu căn theo thiền định) 3- Giai đọan cuối cùng: Ðộc cư Tuệ tức là giữ gìn hạnh độc cư theo Tuệ Tam Minh (phòng hộ sáu căn theo tuệ Tam Minh).

Đức hạnh Nhẫn nhục (ĐườngRiêng) Đức hạnh Nhẫn nhục là hàng đầu trong sự tu tập theo Phật giáo, nó là phong cách sống cao thượng hơn mọi người, sẽ giúp cho ta thoát ra mọi nỗi khổ đau. Người sống với đức nhẫn nhục là sống không làm khổ mình, khổ người, nâng cao sự sống của mình ngang hàng với những Thánh nhân. Sống hạnh nhẫn nhục như thế nào? 1- Người ta chửi mình, mình không nên chửi lại. 2- Người ta đánh mình, mình không nên đánh lại. 3- Người ta nói dối không thật nhưng mình không nên chỉnh sửa sai những điều đó, vì chỉnh sửa sai những điều đó người ta sẽ xấu hổ sinh thù oán. 4- Người ta nói nặng lời với mình, những lời nói thô lỗ mình không nên nặng lời và dùng những lời nói thô lỗ với họ. Vì dùng những lời nói qua lại như vậy chẳng khác nào như chửi mắng nhau. 5- Người ta nói xấu mình nhưng mình không nói xấu lại. 6- Người ta hay tranh luận hơn thua với mình thì mình nên tránh không nên tranh luận hơn thua với họ. 7- Người nói đúng nói sai mình chỉ biết làm thinh không nói đúng sai, nói phải, nói trái mặc dù chúng ta biết rất rõ đúng sai phải trái nhưng không phê phán ai cả. 8- Người ta cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy không chê dỡ hay khen ngon.

Ðức hạnh Tùy thuận (ĐườngRiêng) Ðức hạnh Tùy thuận là đức hạnh giúp cho loài người sống bình an yên vui. Người sống với đức hạnh tùy thuận là người biết sống hòa hợp với mọi người mà không làm khổ mình khổ người. Ðức hạnh tùy thuận là một hành động sống đạo đức trong muôn ngàn hành động sống đạo đức khác không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sinh. Ai sống biết tùy thuận là biết đem lại sự an vui cho mình cho người trong cuộc sống. Người biết sống trong gia đình cũng như ngoài xã hội đều phải lấy đức tùy thuận mà sống thì gia đình trong ấm ngoài êm, còn xã hội thì có trật tự an ninh. Trong xã hội mọi người ai cũng biết sống tùy thuận thì xã hội ấy là thiên đàng. Người biết sống tùy thuận là người luôn luôn có nụ cười trên môi, tâm hồn họ lúc nào thanh thản, an lạc và thường hoan hỷ với mọi người. Người biết sống tùy thuận là người ít bệnh tật tai nạn, cuộc sống thường được an vui hạnh phúc. Đức hạnh tùy thuận là một đức hạnh cao thượng đối với mình với người, không bao giờ làm khổ ai. Tùy thuận thế nào? 1- Kinh sách Ðại Thừa dạy cúng bái cầu siêu, cầu an. Vậy mình cũng nên tùy thuận không tụng niệm cầu siêu, cần an nhưng mình sẽ dùng pháp ly dục ly bất thiện pháp tu tập thì có ai biết đâu. 2- Mình tùy thuận ngồi thiền như các thầy bên Thiền Ðông Ðộ, nhưng tu theo pháp môn của Phật dạy ly dục ly ác pháp thì có ai biết đâu. 3- Tùy thuận nhưng không bị lôi vào ác pháp. Thí dụ chúng ta đến ăn giỗ, nhưng ta lại ăn rau cải chớ không hề ăn một miếng thịt nào cả, để giữ gìn đức hiếu sinh.

Đức Hiếu Sinh (10Lành) là giữ giới không sát sanh.

Ðức Hiếu Sinh đa hướng (TâmThư.1) là có đức Tôn Kính và hạnh Bình Ðẳng. Phải tôn kính, bình đẳng đối với mọi người, từ người già, những bậc Trưởng lão, Thầy Tổ cho chí các cháu bé thơ, phải vui vẻ ôn tồn trả lời với những ái ngữ tôn trọng lời nói của người khác. Ðộc cư trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới thì phải biết im lặng như thánh và bỏ đi khi nghe người nào nói xấu người khác, nói sau lưng người khác, nói lời li gián, nói không thật, nói thêu dệt, v.v... Còn có người hỏi đúng nơi đúng chỗ về đức hiếu sinh thì trả lời và nói về cách thức áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống chứ không được im lặng như thánh và bỏ đi, đấy là sai. Đức hiếu sinh đa hướngđem hết sức của mình ra giúp đỡ mọi người nhưng không được làm khổ mình.

Đức lễ tôn trọng và cung kính người (TâmThư.2) phải bằng hai cách: một là tâm cung kính; hai là hành động cung kính, trong hai hành động này nếu thiếu một hành động nào thì sẽ không thành đức lễ cung kính.

Ðức nhẫn nhục (ThiềnCănBản) giúp trở thành người hiền hòa, bình tĩnh và sáng suốt, ôn tồn, nhã nhặn và từ ái. Ðức nhẫn nhục giúp cho con người từ phàm phu trở thành Thánh Nhân, giúp xa lìa các ác pháp trong và ngoài tâm, diệt sạch bản ngã, tiêu trừ tánh hung ác, nham hiểm, tỵ hiềm, ganh ghét. Ðức nhẫn nhục mang đến niềm an vui, an lạc hạnh phúc đời đời, không còn biết sợ hãi, oán thù ai cả. Ðức nhẫn nhục còn mang đến những lời nói hiền hòa, những hành động nhẹ nhàng, êm ái; những ánh mắt dịu hiền, đầy lòng thương yêu đối với mọi người. Ðức nhẫn nhục đi đến đâu thì chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ mất tiêu, và thường mang đến nguồn an vui ở đó. Ðức nhẫn nhục đi đến đâu thì an lạc đi đến đó cho mọi người… Ðức nhẫn nhục xa lìa các ác pháp trong và ngoài tâm, diệt sạch bản ngã, tiêu trừ tánh hung ác, nham hiểm, tỵ hiềm, ganh ghét. Ðức nhẫn nhục còn mang đến niềm an vui, an lạc hạnh phúc đời đời, không còn biết sợ hãi, oán thù ai cả.

Đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng (ĐườngVề.3) Phần thứ nhất: tùy thuận là để không gặp đối kháng trong đời, để khỏi hao phí lực. Phần thứ hai: nhẫn nhục là tu tâm từ bi; tùy thuận là tu tâm xả; bằng lòng là tu tâm hỷ. Do thế tâm hồn mới được an lạc thanh thản và giải thoát. Phần thứ ba: nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là giúp tu tập ly dục, ly các ác pháp; mà ly dục ly các ác pháp là diệt ngã. Cho nên, người tu sĩ không ly dục ly ác pháp thì không bao giờ diệt ngã được, nhưng ly dục ly ác pháp phải có những pháp hành đúng đắn, tu đúng pháp thì thân tâm nhẹ nhàng, an lạc, thoái mái, dễ chịu, thích tu, siêng năng tinh tấn, không lười biếng, nhất là lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc, hân hoan và vô sự; nếu không có pháp hành đúng đắn thì sẽ bị phí sức, đôi khi còn lạc vào thiền ức chế tâm, đã không có được giải thoát mà còn sanh bệnh tật rất nguy hại và hiểm nghèo. Tùy thuận là một đức hạnh cao quý để xây dựng, rèn luyện con người trở thành người khiêm hạ, luôn luôn biết làm cho người khác vui lòng, thành người ý tứ trong công việc làm, không để cho thất bại, biết tôn trọng ý kiến người khác, trở thành người học hỏi cái hay và biết cái dở của người khác, thành người sáng suốt và bình tĩnh trước mọi ý kiến của người khác. Ðiều quan trọng nhất trong sự tu tập đức tùy thuận là xây dựng rèn luyện con người thành người đầy đủ nghị lực, gan dạ, chấp nhận mọi ý kiến người khác để trở thành người nhỏ nhất, mà cũng là người lớn nhất.

Ðức Phật Di Lặc (ĐườngVề.5) đã được kinh sách phát triển nói rất nhiều và kinh A hàm thuộc Hán tạng cũng có nói đến, đó là những bài kinh gạch nối của các Tổ sau này soạn viết đưa vào,đó là một thâm ý nham hiểm của các học giả Phật giáo phát triển, đưa đức Phật Di Lặc ra để làm một cuộc cách mạng Phật giáo lật đổ đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thay thế đức Phật Di Lặc làm Giáo Chủ Ðạo Phật.

Đức Sáng Suốt (OaiNghi) Ðức sáng suốt có được là do từ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, ngoài trạng thái tâm này thì không bao giờ có đức sáng suốt. Khi nào giữ gìn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự từ một giờ đến một ngày đêm, thì Ðức sáng suốt của con sẽ thấy rõ ràng. Lúc bấy giờ con rất thông minh, tâm con vừa bình tĩnh trước mọi ác pháp và nhất là tất cả các cảm thọ tác động đến thân con, con chẳng còn một chút nào sợ hãi.

Ðức Thánh hạnh (PhậtDạy.1) là Mười hai Ðức: 1- Như Lai (có nghĩa là vì theo con đường như thật đi tới mà thành Chánh Giác. Như Lai cũng có nghĩa là bậc tu hành đã xong, không còn tái sinh trở lại cuộc đời này nữa tức là đã làm chủ sinh, tử và chấm dứt luân hồi. Như Lai là “Ðức Thánh Không Ðến Không Ði”), 2- A La Hán (có nghĩa là giết giặc phiền não, bất sanh mãi mãi ở trong Niết bàn, xứng đáng nhận sự cúng dường của Trời Người. Bậc A La Hán là bậc đã thoát khỏi phiền não, được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư tưởng của mình, biết hết tất cả, có đủ sáu pháp huyền diệu, không phải chịu quả báo sống chết lần thứ hai. Danh hiệu này Ðại Thừa cho là còn thấp kém chỉ là quả cao nhất của Tiểu Thừa. A La Hán còn gọi là “Ðức Thánh Vô Lậu” không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh), 3- Ứng Cúng (là bậc đã xa lìa mọi điều ác, xứng đáng được hưởng thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn. Ứng Cúng là đức hạnh xa lìa những điều ác xứng đáng là nơi phước báu vô lượng để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Ðức Thánh Phước Ðiền”), 4- Chánh Biến Tri (là chánh trí biết rõ mọi pháp như thật. Chánh biến tri còn có nghĩa là trí hiểu biết chân chánh không bị tà pháp, tà kiến, tưởng kiến, tà giáo lừa đảo, trí hiểu biết vượt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập quán và các hệ tư tưởng của các tôn giáo trên thế gian này. Chánh Biến Tri còn gọi là “Thánh Hạnh Liễu Tri”), 5- Minh Hạnh Túc (là bậc có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh. ¨ Trí Tuệ gồm đủ có ba: - Ý thức tuệ, - Tưởng thức tuệ, - Tam minh tuệ. Tam Minh Tuệ gồm có ba: - Vô thời gian tuệ, - Vô không gian tuệ, - Vô lậu tuệ. ¨ Thánh đức gồm có bốn: Ðức từ, Ðức bi, Ðức hỷ, Ðức xả..¨ Thánh hạnh gồm có năm hạnh: Thắng hạnh, Chánh hạnh, Trực hạnh, Diệu hạnh, Tịnh hạnh, 6- Thiện Thệ (là bậc đã tu tập hoàn thành con đường Bát Chánh Ðạo, bậc đã làm xong các hạnh lành, không còn trở lui về ác pháp và cuộc đời này nữa. Thiện Thệ còn gọi là “Thánh hạnh tự tại sinh tử”, 7- Thế Gian Giải là giải thích rõ các pháp trong thế gian, không còn pháp nào mà không giải thích được. Thế gian giải có nghĩa là bậc thông suốt tất cả các pháp thế gian, có thể hiểu rõ các lý và sự của loài hữu tình và vô tình. Thế Gian Giải còn gọi là “Thánh hạnh giải thông suốt các pháp thế gian”, 8- Vô Thượng Sĩ là bậc cao hơn hết trong các hàng chúng sanh. Một con người làm chủ tột đỉnh giải thoát, không còn có sự giải thoát nào cao hơn nữa. Vô thượng sĩ còn gọi là “Thánh hạnh giải thoát cao nhất”, 9- Ðiều Ngự Trượng Phu là bậc điều khiển được mình và tất cả chúng sanh tức là bậc đã làm chủ được mình và tất cả các pháp, nói một cách dễ hiểu hơn là bậc tâm đã bất động trước các pháp và các cảm thọ. Ðiều Ngự Trượng Phu còn gọi là “Thánh hạnh nhiếp phục các pháp và các cảm thọ”, 10- Thiên Nhơn Sư là bậc Thầy của Trời, Người. Dạy cho Trời, Người những gì nên làm và những gì không nên làm. Thiên Nhân Sư còn gọi là “Ðức Thánh Thầy Trời, Người”, 11- Phật là bậc giải thoát hoàn toàn, bậc Giác Ngộ. Phật còn gọi là “Ðức Thánh Giác Ngộ”, 12- Thế Tôn là bậc cao hơn hết trong cõi Trời, Người, được tất cả Trời, Người đều tôn kính trọng. Thế Tôn còn gọi là “Ðức Thánh tôn kính”.

Ðức Thanh Thản (OaiNghi) chỉ cho trạng thái tâm lúc nào cũng thanh thản, khi có sự việc cũng như khi không có sự việc xảy ra thì tâm thanh thản vẫn thanh thản. Đức thanh thản xuất phát từ đức hiếu sinh không giết hại và ăn thịt chúng sinh, luôn luôn lúc nào cũng khởi tâm thương yêu coi sinh mạng của chúng sinh như sinh mạng của mình. Muốn được tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì năm giới cơ bản của Phật giáo phải giữ gìn cho trọn vẹn, đừng vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Nhất là giới thứ nhất thuộc về đức hiếu sinh, vì lòng thương yêu sự sống của mình và của tất cả các loài chúng sinh.

Ðức tuệ (PhậtDạy.2) là trí tuệ đạo đức, trí tuệ biết thương mình thương người; đức tuệ là tâm từ của Tứ Vô Lượng Tâm.

Đứng (4Tâm) khi đứng ta cũng nhắc: Chúng sanh chung quanh ta có rất nhiều, nếu ta đứng trên chúng thì chúng có thể bị tổn thương, héo úa, hoặc bị đè bẹp mà chết. Từ nay mỗi ngày ta phải ráng thực tập ít ra vài ba lần. Có tu tập như vậy thì lòng ta mới thấm nhuần thương yêu vạn vật muôn phương.

Ðứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua (TruyềnThống.2) là khi đứng trước các ác pháp thì phải hiểu rằng: “Ðứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua” vượt qua cái bình thường của mọi người bằng “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”.

Ðứng lớp dạy người tu tập (TâmThư.1) là phải theo thứ lớp mà dạy đạo. * Thứ nhất là phải dạy giới luật (ăn, ngủ, độc cư, nhẫn thục, tùy thuận, bằng lòng). * Thứ hai là phải dạy tỉnh giác (đi kinh hành). * Thứ ba là phải dạy xả tâm (Ðịnh Vô Lậu, tri kiến giải thoát). Ba pháp này được xem là Giới, Ðịnh, Tuệ. Ðiều cần thiết ở đây là dạy kinh nghiệm thực hành đã tu tập, hướng dẫn thêm cho người tu tập, chứ không phải dạy lý thuyết suông như giảng kinh thuyết pháp.

Đừng dẫn đạo vào tâm (ThiềnCănBản) là đừng nghe nhiều, học nhiều kinh sách mà không có thực hành, hoặc có thực hành thì cũng chỉ là hình thức, lấy lệ. Càng học nhiều, bản ngã càng to lớn thì tâm tham danh, thích lợi càng nhiều, nên bít mất đường lối tu tập của họ, suốt đời của họ không có sự giải thoát mà chỉ có sự đam mê.

Đường ác (PhậtDạy.1) là con đường phàm phu đi, con đường tội lỗi, con đường sống vô đạo đức, con đường đầy rẫy tham, sân, si, mạn, nghi, con đường luôn luôn làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ tất cả chúng sanh, con đường ích kỷ cá nhân, con đường đầy rẫy những sự khổ đau, đời sống của họ khổ đau vô cùng, vô tận, họ luôn luôn sống trong những ngày mai đen tối, trong những hoàn cảnh âm u, ảm đạm, buồn tẻ không một chút ánh sáng thoát khổ. Người chọn con đường ác để đi, thì suốt cuộc đời mình luôn luôn gánh chịu nhiều tai ương, hoạn nạn, khổ đau, v.v... người nào đi trên con đường ác ấy không thể nào tránh khỏi đau khổ được. Và cứ thế tiếp tục tương ưng luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác, thọ khổ vô lượng vô biên kiếp. Ðạo Phật gọi đó là tái sanh luân hồi khổ đau triền miên bất tận.

Ðường lối Ðạo Phật (Phậtdạy.3) có ba cấp “Cấp Giới, cấp Ðịnh, cấp Tuệ” như sau: - Cấp I giới luật gồm có 7 lớp, phải tu học 7 năm. - Cấp II thiền định gồm có 4 thiền phải tu học 7 tháng. - Cấp III trí tuệ gồm có Tam Minh, phải tu học 7 ngày.

Đường lối tu hành Tu Viện Chơn Như (ThanhQui) Tu Viện Chơn Như có đường lối tu hành riêng biệt theo đúng giáo pháp của đức Phật, không bị ảnh hưởng hay lai căng một giáo pháp nào của ngoại đạo, nhất là nó không chịu ảnh hưởng của kinh sách phát triển, vì kinh sách phát triển chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng Tử và Lão Tử rất nặng. Đường lối tu tập của tu viện Chơn Như có tám lớp tu học cụ thể: 1- Lớp thứ nhất: Chánh Kiến, 2- Lớp thứ hai: Chánh Tư Duy, 3- Lớp thứ ba: Chánh Ngữ, 4- Lớp thứ tư: Chánh Nghiệp, 5- Lớp thứ năm: Chánh Mạng, 6- Lớp thứ sáu: Chánh Tinh Tấn, 7- Lớp thứ bảy: Chánh Niệm, 8- Lớp thứ tám: Chánh Ðịnh. Trong tám lớp tu học này được chia làm ba cấp: - Cấp một: Giới Luật Ðức Hạnh ly dục ly ác pháp. - Cấp hai: Thiền Ðịnh (Ðịnh Như Ý Túc). - Cấp ba: Trí Tuệ (Tuệ Tam Minh). Cấp Giới Luật gồm có năm lớp học: từ lớp Chánh Kiến đến lớp Chánh Mạng chuyên ròng học tập Giới Luật Ðức Hạnh Nhân Bản – Nhân Quả của Phật giáo. Cấp 1: Giới Luật Ðức Hạnh của Phật giáo chia ra làm bốn loại giới luật như sau: - Loại 1: Có năm giới gốc dạy chung cho tất cả mọi người. - Loại 2: Có tám giới của những người những người mới tu tập làm quen tám giới, gọi là Thọ Bát Quan Trai). - Loại 3: Có mười giới của người mới xuất gia (Sa di và Sa Di Ni). - Loại 4: Có hai trăm năm mươi giới của người nam xuất gia Sa di từ năm năm trở lên (Tỳ kheo tăng). - Loại 5: Có ba trăm bốn mươi tám giới của người nữ xuất gia Sa Di Ni từ mười năm trở lên (Tỳ kheo ni).

Ðường lối tu tập của đạo Phật (Phậtdạy.3)(12Duyên) là phải xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp trong tâm ta, sống và nuôi lớn thiện pháp, nghĩa là diệt tầm ác mà sống tầm thiện, tức là ly dục ly ác pháp, để đem lại cuộc sống an vui và hạnh phúc cho mình, cho người, chứ không phải diệt niệm thiện, niệm ác. Khi sống với tầm thiện thì tâm ta thanh tịnh không có hoàn cảnh, đối tượng nào, khiến tâm ta dao động, do đó gọi là tâm giải thoát không còn khổ đau vì cuộc sống làm người. Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh hay là nhập Vô Tướng Tâm Ðịnh. Ðường lối tu học của Ðạo Phật có tám lớp tu học như sau: 1- Chánh kiến, 2- Chánh tư duy, 3- Chánh ngữ, 4- Chánh nghiệp, 5- Chánh mạng, 6- Chánh tinh tấn, 7- Chánh niệm, 8- Chánh định.

Đường thiện (PhậtDạy.1) là “ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp”. Người chọn con đường luôn sống sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp, đời sống của họ sẽ được thảnh thơi, an vui và hạnh phúc, sau khi chết sẽ tương ưng với sự giải thoát của chư Phật nên chấm dứt tái sanh luân hồi. Chọn lấy con đường thiện để sống thì đâu cần gì phải cầu an cầu siêu, đâu cần gì phải tụng kinh, lạy hồng danh chư Phật sám hối chi cho mệt, đâu cần gì phải ngồi thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng để chịu đau chân, căng đầu, mệt óc, cuối cùng sanh ra loạn tưởng, bệnh thần kinh điên loạn, mất trí nhớ.

Ðường Về Xứ Phật (ĐườngVề.8) là tên của một bộ sách nhiều tập để chỉ cho cách thức tu tập đi đến chỗ làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật.

Được kiên trì (4Tâm) vững bền, không thay đổi.

Ðược thân người là khó (ĐườngVề.9) khó có nghĩa là khó được thân người, chứ không phải là không được thân người, khi hành động thiện ác của con đã trải qua một thời gian trả nghiệp của nó thì nghiệp ấy lại được sanh làm người. Một người làm ác luôn luôn làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì nghiệp ác ấy chẳng bao giờ trở lại làm người, cho nên đức Phật ví dụ bọng cây và con rùa mù giữa biển, có nghĩa là nghiệp ác không bao giờ trở lại làm thân người nữa được, phải thời gian lâu lắm trả cho hết nghiệp ác đã làm, khi trả hết nghiệp ác đã làm thì nghiệp còn lại tương ưng với loài người thì mới sanh ra làm người. Ở đây nên hiểu mang lốt nghiệp chúng sanh là mang lốt nghiệp trả nợ máu xương mà con người đã từng gieo rắc, đến chừng trả hết nghiệp ác của mình đã gây ra, thì mới tương ưng với nghiệp làm người tức là mới đủ duyên sanh làm người.

Ðược thân người khó, là khó ở năm tiêu chuẩn làm người, chứ không phải khó ở thân người. Thân người cũng giống như thân của loài động vật. Ðộng vật sinh ra trùng trùng thì con người cũng sinh ra trùng trùng. Như vậy thân người như thân động vật thì không khó, nhưng thân người khó là khó ở chỗ năm đức hạnh làm người. Khi một người mất thân khó tìm lại được thân chứ không phải đức Phật nói con người ít đi, giảm đi hoặc con người không sanh ra nữa. Ðiều này không phải. Cách đây 2500 năm trong thời đức Phật còn tại thế, loài động vật trên hành tinh này gồm chung cả loài người thì số lượng loài vật và người so sánh với hiện giờ thì chỉ bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần triệu. Còn hiện giờ loài động vật mà người ta ăn thịt vừa săn bắt những loài động vật hoang dã và vừa những loài động vật nuôi, một ngày loài người đã giết bao nhiêu loài vật trên hành tinh này, để cung cấp làm thực phẩm nhu cầu hằng ngày cho con người như vậy số lượng đâu phải ít, chỉ có loài vật hoang dã thì giảm và có loài động vật bị loài người diệt chủng. Loài người càng sanh ra nhiều mà sống trong ác pháp thì đó là một nỗi lo âu của những người trí, vì nó sẽ diệt các loài động vật khác mà còn tự diệt nó bằng trí óc thông minh của nó, bằng chứng hiện giờ “Kế hoạch hóa gia đình” là một hiện tượng con người giết con người.

Ðoàn thực (ĐườngVề.9) còn gọi là đoạn thực, có nghĩa là cách ăn chia ra từng đoạn, từng miếng, từng phần thường dùng tay, đũa, nĩa, dao, muỗng, v.v... Cách thức ăn uống này thường dùng mũi, lưỡi, làm thể để ăn các món ăn. Ðối với đạo Phật xem bốn sự ăn uống này (1- Ðoàn thực loại thô hay loại tế. 2- Xúc thực. 3- Tư niệm thực. 4- Thức thực) là ác pháp, là bất tịnh, là khổ đau, là trói buộc. Người tu hành theo Phật giáo cần phải quán xét nhàm chán trên bốn sự ăn uống này. Người tu sĩ đạo Phật cần phải cảnh giác, cần phải tu tập, cần phải quán xét và cần phải sanh tâm nhàm chán trong bốn sự ăn uống này.

Đọa xứ (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là địa ngục. Ở đây không phải là địa ngục mà là Thập ác. Thấy đọa xứ là thấy thập ác. Thấy Thập thiện và Thập ác là thấy nhân quả.

Đoạn ái (Tạoduyên) là chấm dứt tái sanh luân hồi.

Ðoạn diệt (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là làm cho đứt đoạn, lìa ra và làm cho tiêu mất không còn tới lui được nữa.

Ðoạn dứt sanh y (ĐườngVề.1) tức là sống đúng đời sống Phạm hạnh. Sống đúng đời sống Phạm hạnh tức là hành trì giới luật nghiêm túc; giới luật nghiêm túc tức là trí tuệ. Như vậy, đoạn dứt duyên sanh (sanh y) tức là trí tuệ, trí tuệ tức là “minh”. Nhưng minh là đời sống phạm hạnh giới luật chứ không phải học tập thông suốt Tam Tạng Thánh Ðiển là minh.

Đoạn dứt thân ngũ uẩn (Phậtdạy.3) là có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm theo chúng.

Đoạn kiến (12Duyên)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3) là bị dính mắc vào chấp không, một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho khi chết là hết, không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước lại cũng chẳng có. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Họ đặt câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Cho nên con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc hiện tại,ăn uống vui đùa trụy lạc, sống theo Thuyết Hiện Sinh không có ngày mai. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Vì chấp đoạn kiến nên có người đứng trước cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn lòng nghịch ý, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả khổ, nên họ không ngần ngại kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rồi vẫn chưa hết! Họ đâu biết rằng luật nhân quả nghiệp báo là luật thường hằng bất biến của môi trường sống. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống, không thấy các pháp do hợp duyên mà có, tất cả các pháp là do các pháp khác hợp lại tạo thành. Ví dụ 1: không thể có một người đàn ông cũng như một người đàn bà tự một mình sanh ra con được, mà phải có hai người nam nữ lấy nhau tạo duyên ngũ uẩn hòa hợp mới thành ra con người. Ví dụ 2: Không thể lấy một cây cột, lấy một tấm tôn, một miếng vách mà bảo rằng vật đó là cái nhà được, một cái nhà; phải có các vật hợp lại như: cột, kèo, vách, tôn, cửa cái, cửa sổ tạo dựng ra cái nhà.

Ðoạn tận lậu hoặc (PhậtDạy.2) gồm có ba phần: Phần thứ nhất: Hộ trì các căn. Phần thứ hai: Chú tâm tỉnh giác. Phần thứ ba: Tiết độ trong ăn. Chính vì ăn uống phi thời nên chẳng bao giờ đoạn tận lậu hoặc được.

Đoạn tận sắc, thọ, tưởng, hành, thức (Phậtdạy.3) là đoạn dứt thân ngũ uẩn, là có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm theo chúng.

Ðộc cư (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(ĐườngRiêng)(Tạoduyên)(TrợĐạo)(ĐạoĐức.2)(CầnBiết.4)(TâmThư.1) là sống một mình không tiếp xúc với các duyên bên ngoài để bảo vệ và hộ trì sáu căn.Ðộc cưlà một đức hạnh, một phương pháp tu hành của nhà Phật, để phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Ðộc cư giúp cho người tu sĩ giữ gìn sáu căn trọn vẹn không tiếp xúc với bất cứ một người nào, nhờ đó mới dễ chứng đạo. Bắt đầu vào tu, pháp môn tu tập phòng hộ ngũ căn là phải sống độc cư vì có sống độc cư là tu tập được, còn sống độc cư không được là tu tập không được. Người tu sĩ không phòng hộ năm căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì tâm luôn luôn phóng dật theo sáu trần. Do tâm phóng dật thì tâm không thanh tịnh được. Nếu muốn tâm không phóng dật thì phải phòng hộ sáu căn cho chặt chẽ nghĩa là phải nghiêm khắc giữ gìn trọn vẹn hạnh độc cư.Người tu sĩ nào giữ gìn hạnh độc cư trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị nào phá hạnh độc cư thì không tu tập được. Độc cư là một pháp môn phòng hộ sáu căn, chứ không có nghĩa sống một mình như lời giảng dạy của các nhà học giả. Để rèn luyện và trau dồi pháp độc cư thì chúng ta phải có một ý chí kiên cường, một nghị lực dũng mãnh. Pháp độc cư cũng là pháp môn bí quyết thành tựu viên mãn Tứ Niệm Xứ để thực hiện Tứ Thánh Định để đoạn tận các khổ đau.

Ðộc cư có ba giai đoạn tu tập, đó là ba chuẩn mực: - Giai đoạn thứ nhất, là độc cư thuộc về thân, còn gọi là an trú. Độc cư thuộc về thân thì phải sống một mình nơi thanh vắng, yên tịnh, không thích hội họp, không thích nói chuyện, không thích kết bè, kết bạn, thường an trú nơi thân hành. - Giai đoạn thứ hai, là độc cư thuộc về sáu căn, gọi là phòng hộ sáu căn, còn gọi là hộ trì các căn. Hộ trì các căn tức là dùng pháp như lý tác ý để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Độc cư thuộc về sáu căn thì khi đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tác ý nhắc các căn phải quay vào trong thân. Ví dụ: Mắt phải nhìn bước đi; tai phải lắng nghe bước đi; mũi phải ngửi bước đi; miệng phải cảm vị bước đi; thân phải cảm nhận bước đi; ý phải ý thức từng bước đi. - Giai đoạn thứ ba, là độc cư thuộc về ý tức độc cư về tâm, còn gọi là độc trú. Độc cư về tâm thì phải tập luyện giữ gìn tâm vắng lặng, tịch chiếu, nên thường tác ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự”. Độc cư về tâm thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ (quét tâm).

Tu tập ở giai đoạn nào thì phải giữ gìn độc cư ở giai đoạn đó, đừng ở giai đọan này mà tu tập ở giai đọan khác thì tu sai pháp. Nếu siêng năng tu tập và sống cho đúng Phạm hạnh thì quả vị A La Hán không còn khó khăn nữa. Ðộc cư trọn vẹn thì tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Độc Cư là để phòng hộ sáu căn, không không bị sáu trần chi phối, để giúp cho hành giả thực hiện việc sống với chính mình được dễ dàng hơn. Giúp cho hành giả không bị chạy theo tình cảm của người này, người nọ, để tâm hồn được vô tư với mọi người. Độc cư giúp cho hành giả chuyên chú tâm vào vấn đề tu tập, tư duy bài học, quan sát thân tâm mình được nhất tâm mà không bị sự chi phối của những câu chuyện của những người này, người nọ mang lại hoặc những lời bình phẩm này kia ... làm cho mình bị phân tâm và sanh ra đủ các ác pháp như tâm nghi ngờ, ngã mạn, sân hận…Vì vậy về hình tướng Độc Cư thì người tu sĩ chỉ ở trong Tiểu giới đàn, tức tự hạn chế trong khu vực mình ở mà không sang thất của người khác để nói chuyện phiếm, để tâm sự, trao đổi… Khi người tu sĩ có duyên sự đi ra ngoài phạm vi của mình (trong Tu Viện) thì không giao tiếp và nói chuyện với bất cứ ai. Sự độc cư giúp cho hành giả đỡ phiền hà bởi những tâm tư, tình cảm của những người khác tác động và lôi kéo, làm cho tâm trí luôn xao động, hướng ra ngoài và chạy theo “thất tình lục dục”. Do đó càng ít tiếp duyên, càng tốt. Ðộc cư là bí quyết của thiền định. Biết Độc cư là bí quyết tu thiền định mà cứ đi nói chuyện với người này, với người khác, không chịu bỏ, đó là người không có nghị lực. Người không có nghị lực làm gì tu thiền định được, làm gì đi theo con của đường giải thoát của Phật giáo được. Thích nói chuyện với người này người khác là tâm phóng dật. Ðộc cư tức là giới luật, nhờ giới luật mới ly dục ly ác pháp, mới tu tập thiền định không bị ức chế tâm, không bị rối loạn thần kinh.

Ðộc cư của đạo Phật là giữ gìn tâm không phóng dật, là phòng hộ sáu căn, là pháp xả tâm, ly dục ly ác pháp, là cấm nói chuyện phiếm, chuyện vô ích, tránh xa sự ồn náo, sự ham vui của thế tục. Ðạo Phật vốn xả tâm chướng ngại pháp mà thành tựu đạo giải thoát. Hạnh độc cư là bí quyết xả tâm, nhờ có xả tâm nên mới có thiền định. Độc cư của Phật giáo là thấy từng tâm niệm của mình. Phải biết lúc nào phải độc cư im lặng như thánh, lúc nào độc cư với năm đức hạnh, với đức Tam Quy, với Tám Ðức Bát Quan Trai Giới, với mười đức Thập Thiện, với Thập Giới Sa Di, với Ðịnh Niệm Hơi Thở, với Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Ðịnh. Ðộc cư trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới thì phải biết im lặng như thánh và bỏ đi khi nghe người khác nói xấu người khác, nói sau lưng người khác, nói lời li gián, nói không thật, nói thêu dệt, v.v... Còn có người hỏi đúng nơi đúng chỗ về đức hiếu sinh thì trả lời và nói về cách thức áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống chứ không được im lặng như thánh và bỏ đi, đấy là sai; phải vui vẻ ôn tồn trả lời với những ái ngữ tôn trọng lời nói của người khác, và có thể mời họ vào nhà khách nói chuyện công khai, đúng pháp, đúng đức hạnh độc cư. Nói chuyện mà vẫn giữ ý căn và khẩu căn là độc cư, chứ không phải độc câm, vì nói trong giới luật đức hạnh hiếu sinh là nói trong độc cư. Tất cả tu sinh đều nên hiểu rõ đức hiếu sinh và hạnh độc cư để thực hiện vào đời sống cho đúng cách. Ðộc cư của ngoại đạo là khi gặp ai hỏi một điều gì cũng đều im lặng và bỏ chạy trốn không dám thấy bóng người, đó là độc hại, độc câm chứ không phải độc cư của Phật giáo.

Ðộc cư giới luật đức hạnh Ngũ Giới (TâmThư.1) 1- Ðộc Cư Ý hành: với sự hộ trì bảo vệ ý căn không được nghĩ điều xấu ác cho người khác, dù người khác nghĩ những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn phải nghĩ điều thiện với họ để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là đang hộ trì ý căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ nhất ý hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Cho nên suy nghĩ tư duy quán xét, lại là độc cư im lặng như thánh. 2- Ðộc Cư Khẩu hành: với sự hộ trì bảo vệ khẩu căn (thiệt căn) không được nói những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nói những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn dùng ái ngữ nói điều thiện với họ để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì khẩu căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ hai khẩu hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Cho nên, tiếp duyên nói chuyện với mọi người, lại là độc cư im lặng như thánh. Còn nói không thật, nói dối, nói thêu dệt, nói li gián, nói lời hung dữ, nói chuyên tào lao, nói chuyện ngoài pháp tu, nói chuyện phím, nói chuyện của người khác v.v... là phá hạnh Ðộc Cư, là phạm giới… Ở đây giai đoạn học giới luật đức hạnh, cho nên Ðộc Cư là giới luật phòng hộ sáu căn, chứ không phải độc cư là không nói chuyện. Không hiểu pháp độc cư, áp dụng không đúng thành không dám nói chuyện là bị ức chế tâm, thì cũng rất tai hại. Còn lợi dụng chỗ tiếp duyên nói chuyện này, đi nói chuyện tào lao cho thỏa thích như người thế gian, là phá hạnh Ðộc Cư. Người giữ hạnh độc cư cần nói những điều lành đem lợi ích cho mình cho người, đó là hạnh độc cư phòng hộ khẩu căn. 3- Ðộc Cư Thân hành: với sự hộ trì bảo vệ thân căn, không được làm những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ làm những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn làm những điều thiện với họ để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì thân căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ ba thân hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Người biết phòng hộ sáu căn là người sống độc cư đúng với phương pháp đang tu, còn sống không đúng với pháp đang tu dù không nói chuyện nhưng vẫn chưa phải là sống độc cư.

Ðộc Giác Phật (CầnBiết.2) Những vị Phật độc giác là phải tự mình tìm lấy pháp tu hành, không theo một giáo pháp nào cả, và tu chứng giải thoát có nghĩa là vị Phật độc giác phải làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi như Phật Thích Ca Mâu Ni.

Độc thoại (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là mình nói chuyện với mình, đừng hiểu lầm độc thoại là sự suy tầm, tức là tư duy, suy nghĩ. Nên phân biệt rõ ràng lúc nào là tâm hướng đến độc thoại, lúc nào là tâm hướng đến suy tầm. Khi độc thoại hay suy tầm đều nên độc thoại và suy tầm về Thánh hạnh, có khả năng cầu tiến, có khả năng hướng thượng, đưa đến sự hoàn toàn diệt khổ đau, ly tham, ly sân, ly si thì tiếp tục suy nghĩ, không nên suy tầm và độc thoại những tham pháp, sân pháp, si pháp.

Đôi mắt nhân quả (TâmThư.1) thấy biết mọi việc xảy ra đều do nhân quả, nên khi xông pha cứu người là biết mình có đủ khả năng cứu người mà không hại mình,

Ðối tượng sự tu tập giải thoát của Phật giáo (PhậtDạy.4) là tâm lậu hoặc. Tâm lậu hoặc sạch là đã tu tập xong, chứ không phải đợi kiến tánh thành Phật hoặc chứng quả vị này quả vị khác hoặc sinh về cõi này, cõi kia hoặc nhập vào bản thể vạn hữu.

Độn công phu (Tạoduyên) bỏ hết sách vở, không trọng nghĩa giải, một bề miên mật xoay về nội tâm tỉnh giác.

Đời khổ (CữSĩTu) Đạo Phật nói đời khổ, chứ không bảo trốn đời khổ. Vì nói đời khổ là để biết như thật đời là khổ. Biết đời khổ như thật để mà vượt qua khổ của cuộc đời, chứ không có nghĩa biết đời khổ để bi quan yếm thế, để trốn khổ. Nói đời khổ là để chúng ta cùng nhau tập sống đức hạnh làm người biết thương yêu nhau, biết chia cơm xẻ áo, biết tha thứ, biết nhường nhịn, biết góp công góp sức siêng năng cần lao để làm cho đời bớt khổ, hay là không còn khổ nữa. Chứ không phải biết đời khổ để bỏ cuộc đời này, để đi tìm một thế giới khác sung sướng hơn, hạnh phúc hơn, an lạc hơn... như các kinh sách tà giáo ngoại đạo và các tôn giáo khác đã từng xây dựng thế giới chư Thiên, Thiên Ðàng, Cực Lạc Tây Phương, Niết Bàn, v.v... để tránh né sự khổ đau của thế gian này; để mơ tưởng một thế giới hạnh phúc an lạc hão huyền khác. Sống theo hệ phái phát triển và các tôn giáo khác không thực tế, sống nhờ vào sự cứu khổ của kẻ khác là không bao giờ có, trong lúc mình luôn luôn làm khổ mình, làm khổ người thì ai cứu mình được.

Đời người là một chuỗi dài đau khổ phiền lụy (10Lành) về mặt vật chất, lẫn tinh thần, chẳng bao giờ có được phút giây an vui, hạnh phúc.

Ðời sống độc cư (PhậtDạy.2) là Ðời sống viễn ly, sống nơi hoang vắng, sống nơi rừng rú, nơi nghĩa địa, nơi cánh đồng mông quạnh, nơi hòn đảo giữa biển khơi, v.v… Ðời sống độc cư là đời sống không nhà cửa không gia đình, đơn thân, đơn chiếc, sống độc thân một mình, v.v… Ðời sống độc cư là đời sống không giao thiệp với ai, không thích tập họp, không thích nói chuyện, không thích giao du, không thích qua lại, không thích tranh luận, không thích bạn bè, v.v…

Ðời sống Phạm hạnh (ĐườngVề.1) là sống đời Niết Bàn, là chấm dứt tái sanh luân hồi. Nếu chấp nhận đời sống đời sống Phạm hạnh trọn vẹn thì phải đoạn dứt lòng tham dục. Nếu không đoạn dứt lòng tham dục thì đời sống Phạm hạnh không trọn vẹn. Khi tâm tham dục còn một chút xíu dính mắc pháp thế gian là phải tiếp tục tái sanh trong vòng luân hồi khổ đau. Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ sân được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ si được đoạn tận, không có dư tàn. Như vậy, này Bà La Môn, Niết Bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí giác hiểu”. (Kinh Tăng Chi Tập 1).

Đời sống tu sĩ của Phật giáo (12Duyên) cuộc sống chỉ còn ba y một bát hằng ngày đi xin ăn để nuôi sống thân mạng, sống được như vậy mới thấy sự giải thoát của đạo Phật thật sự. Đó là điều cơ bản nhất của đạo Phật, nếu ai muốn tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì phải sống như đời sống của đức Phật.


 

VIẾT TẮT CÁC SÁCH

 (CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai;

***