• phattuvandao1
  • phattuvandao3
  • amthat2
  • amthat1
  • thanhanhniem3
  • huongdantusinh
  • lopbatchanhdao
  • thanhanhniem2
  • quetsan
  • ThayTL
  • chanhungphatgiao
  • vandao2
  • tinhtoa1
  • khatthuc1
  • tinhtoa2
  • thanhanhniem1
  • tamthuphattu
  • ttl3
  • tranhducphat
  • vandaptusinh
  • ttl1
  • benthayhocdao
  • lailamtoduong1
  • daytusi
  • toduongtuyetson
  • amthat3
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Tranh đức Phật
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
JGLOBAL_PRINT

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần H)

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

H

Hạ nguơn (10Lành) ăn chay suốt tháng mười âm lịch.

Hai cách nhìn (ĐạoĐức.2) 1/ Nhìn theo lối nhìn mang đến sự khổ đau cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh. 2/ Nhìn theo tám phương cách sống đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Ðó là cách nhìn đạo đức mang đến sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.

Hai hạng người (YêuThương.1) 1- Hạng người có đạo đức, có nhân tính, có lòng từ ái, có lòng yêu thương, biết tha thứ mọi sự lỗi lầm của người khác, sống vì mọi người, vì sự sống của tất cả các loài vật khác. 2- Hạng người tính tình hung dữ, cộc cằn, thô lô, thiếu văn hóa, không lòng nhân ái, không biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, thường cố chấp, nham hiểm, có nhiều thủ đoạn gian xảo hại người, thường làm khổ mình khổ người, thích giết hại và ăn thịt chúng sinh, sống một đời sống đầy đau khổ vì biết chỉ có mình mà quên mọi người.

Ham danh vọng quyền cao, tước trọng (10Lành) thì phải vào luồn ra cúi; phải đút lót, hối lộ mà vẫn nơm nớp lo sợ ngày nào đó sẽ có kẻ khác vào lấy mất chức vụ của mình.

Ham muốn sống (ĐạoĐức.2) là một chân lý như thật, không có ai chối cãi được. Vạn vật sinh tồn trên quả đất này đều có một nguyên nhân ham muốn sống này mà thôi.

Hàng phục Ma Vương (ThiềnCănBản) chiến đấu với nội tâm mình để ly dục ly bất thiện pháp.

Hành (ĐườngVề.1)(12Duyên)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3) là sự hoạt động của THÂN, TÂM và TƯỞNG. Hành theo tham ái thì đó là sự hoạt động không sáng suốt, đem đến sự đau khổ vô cùng vô tận. Hành theo đạo đức của Phật giáo là không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh là giải thoát. Hành là hành động theo lòng ham muốn dục lạc chạy theo ái dục để sanh ra thức, nên kinh dạy: “Hành sanh thức”.

Hành ấm ma (Đường Về.7) gồm có các hành nơi thân, nơi tưởng và nơi tâm.

Hành Bồ Tát đạo, tu Bồ Tát hạnh (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.1) vừa tu vừa độ người.

Hành động có đạo đức (ĐạoĐức.1) là những hành động không xảy ra sự đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả muôn loài chúng sanh.

Hành động đạo đức nhân quả (ĐườngVề.2) có nghĩa là mình muốn được an vui hạnh phúc thì không nên làm những điều ác, những điều làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài chúng sanh, nếu làm những điều ác khổ mình, khổ người, dù có cầu Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ thì cũng không bao giờ có một vị nào dám cứu độ cho một việc làm phi đạo đức như vậy. Đạo Phật không có dùng tha lực cứu độ mà chỉ có thị hiện để dạy người sống có đạo đức và nhờ sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì chính đó là đem lại sự an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình và cho mọi người, chứ không thể cầu ai cứu khổ cho mình được cả.

Hành động Nghiệp lực (ĐườngVề.4)(ĐườngVề.9) theo nhân quả do duyên vô minh biến ra hành động tạo ra thức, từ thức mới có danh sắc (thân tứ đại và tưởng), có tứ đại mới có hành động nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như đứa con của chúng ta sanh ra, tạo ra, rồi đứa con nghiệp lực của chúng ta lại sanh ra cháu nghiệp lực của chúng ta, cháu nghiệp lực của chúng ta lại sanh ra chít nghiệp lực của chúng ta và cứ thế mãi mãi sanh ra trong vô lượng kiếp. Và mỗi nghiệp lực sanh ra như vậy đều do chúng ta mà có. Chúng ta là người cha (thân ngũ uẩn) sanh ra những nghiệp lực mang đầy đau khổ lúc nó thọ lấy thân người hoặc thân chúng sanh và mãi mãi muôn đời muôn kiếp. Thói quen ăn thịt tức là nghiệp lực nên khi ăn uống không có thịt chúng sanh thì ăn uống không ngon, do nghiệp thích ăn thịt chúng sanh đó vẫn còn nên tương ưng với thịt chúng sanh mà tái sanh làm chúng sanh. Một nghiệp lực như vậy có thể sanh ra làm trăm muôn con vật để rồi tiếp tục sanh tử theo nghiệp của nó, vay trả trả vay, còn những nghiệp lực thiện cũng tiếp tục tái sanh làm người, một nghiệp lực thiện có thể sanh ra nhiều người tùy theo môi trường sống của hành tinh, tức là môi trường nhân quả trên quả địa cầu này. Mặc dù họ không biết họ là ai trong kiếp kế, nhưng nghiệp lực thiện ác của họ luôn luôn tiếp tục tái sanh luân hồi làm mọi thân chúng sanh vì trong khi cuộc sống hiện tại họ đã giết hại chúng sanh như thế nào thì họ phải vay trả như thế nấy. Làm thân chúng sanh chỉ biết khổ đau mà không biết cách thoát khổ, nghĩa là làm thân chúng sanh không biết thiện ác, chúng làm theo bản năng tự nhiên của chúng để bảo vệ sự sống, vì thế chúng phải chịu khổ vô vàn trong vô lượng ngàn muôn kiếp.

Hành động thiện (TruyềnThống.2) là những hành động do thân, khẩu và ý của mình không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh.

Hành khổ (ĐườngVề.2) là chỉ cho mọi hành động của chúng ta thương, ghét, giận, hờn, lo lắng, ưa thích, ham muốn, v.v... Mỗi hành động của chúng ta đều mang theo bản chất thiện và ác; ác thì làm khổ mình, khổ người; thiện thì không làm khổ mình, khổ người, nhưng phần nhiều hành động thân, miệng ý của chúng ta đem đến sự khổ đau cho nhau hơn là đem đến sự an vui hạnh phúc.

Hành là duyên của Nghiệp (12Duyên) Hành là sự hoạt động của Thân, Tâm và Tưởng, nếu thân tâm và tưởng không hành theo con đường giải thoát của Phật giáo mà hành theo tham ái thì đó là sự hoạt động không sáng suốt, thường đem đến sự đau khổ vô cùng vô tận.

Hành pháp (GiớiĐức.2) là làm hoặc sống đúng theo lý của giáo pháp đã dạy, để tập luyện trau dồi thân tâm. Hành pháp thì có lợi ích thiết thực, đi đến diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, sống một đời sống thanh thản, an lạc và vô sự.

Hành tinh sống (TruyềnThống.1)(CữSĩTu) là nơi đó có môi trường sống, phù hợp cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, sống và lớn lên. Hành tinh sống là một hành tinh có nhiều duyên hợp lại để tạo thành sự sống mới. Tạo thành sự sống mới có nghĩa là do các duyên hợp lại tạo ra một loài vật mới. Bắt đầu từ loài rong rêu, thảo mộc rồi đến các loài vi khuẩn, côn trùng và cầm thú sinh ra. Cuối cùng là loài người. Chúng ta và vạn vật sinh ra do từ các duyên hợp lại, cho nên chúng ta phải thương yêu nhau, thương yêu tất cả chúng sanh, vì có thương yêu chúng sanh thì chúng ta mới bảo vệ sự sống của muôn loài và của chính chúng ta. Trong vũ trụ có nhiều thái dương hệ, trong mỗi thái dương hệ có nhiều hành tinh, phần nhiều là hành tinh chết vì nơi đó không có sự sống. Trong không gian vũ trụ có rất ít hành tinh sống so với hành tinh chết. Nhờ có bộ óc thông minh nên loài người được xem là chúa tể của muôn loài. Loài người là một loài động vật cao cấp thông minh nhất trong các loài vật là nhờ có tình cảm sâu sắc, nên từ loài người xuất hiện những con người thoát ra khỏi bản chất hung ác của loài động vật, tuyên dương lòng thương yêu sự sống của muôn loài. Người đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã xây dựng cho loài người một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, và kêu gọi mọi người, mọi loài vật hãy thực hiện lòng hiếu sinh (tâm từ bi) một cách chân thật. Lòng thương yêu sự sống của muôn loài xuất hiện theo từng cấp độ: 1- Cấp độ thứ nhất: Con người biết thương con người. 2- Cấp độ thứ hai: Con người biết thương các loài động vật khác. 3- Cấp độ thứ ba: Con người biết thương cây cỏ và thảo mộc. Gồm ba cấp độ này lại mới được gọi là lòng hiếu sinh. Lòng hiếu sinh xuất phát từ tâm từ, bi, hỷ, xả. Trong đạo Phật, tâm từ, bi, hỷ, xả còn có tên là “Tứ Vô Lượng Tâm”.

Hành trì học giới (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) nghĩa là một hành giả tu theo Phật Giáo thì phải thông hiểu giới luật. Muốn thông hiểu giới luật thì phải học giới luật. Trong mỗi giới luật đều chia làm bốn phần: 1- Giới cấm 2- Giới hạnh 3- Giới đức 4- Giới hành. Giới cấm là một điều luật bắt buộc mỗi tín đồ không được vi phạm, nếu ai vi phạm thì không được chấp nhận là tín đồ Phật giáo nữa. Có nhiều giới cấm: Cấm sát sanh, Không tham lam trộm cắp. Không dâm dục. Không nói láo. Không nói hai chiều. Không nói lời hung ác. Không nói lời phù phiếm. Không làm hại hạt giống. Không làm hại cây cỏ. Ăn ngày một bữa. Không ăn uống phi thời. Không ăn ban đêm. Không đi xem múa hát. Không trang sức vòng hoa hương liệu. Không nằm giường cao rộng lớn. Không nhận vàng bạc tiền của cải. Không nhận các hạt giống. Không nhận thịt. Không nhận đàn bà con gái. Không nhận nô tỳ trai hay gái. Không nhận cừu dê. Không nhận gia cầm, heo. Không nhận bò voi ngựa. Không nhận ruộng vườn đất đai. Không làm môi giới. Không buôn bán. Không gian lận bằng cân đo, tiền bạc. Không ăn hối lộ. Không làm tổn thương cho chúng sanh. Ít muốn, biết đủ. Giới hạnh là những hành động không vi phạm giới luật, là những hành động cao quý không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, là những hành động ôn tồn nhã nhặn, khiêm hạ, từ tốn, dịu dàng, an ủi, xoa dịu những vết thương của mọi người và tất cả chúng sanh, là những hành động không làm trái với lương tâm của mình, v.v… Giới đức là đức từ, đức bi, đức hỷ, đức xả, đức nhẫn nhục, đức tùy thuận, đức bằng lòng, đức hiếu sinh, đức buông xả, đức ly tham, đức ly dục, v.v… Giới hành là những pháp môn thực hành để tâm ly dục ly ác pháp, để sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, để tâm thanh thản an lạc và vô sự, để tâm không phóng dật, để tâm vô lậu, để tâm có đủ Tứ Như Ý Túc, để tâm có đủ Tam Minh. Các giới hành gồm có: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, Thất Giác Chi, Ngũ Căn, Ngũ Lực. Tất cả pháp trên đây được gọi là 37 phẩm trợ đạo.

Hành tướng (CầnBiết.2) có hành tướng nội (hơi thở) và hành tướng ngoại. Hành tướng ngoại ngoại tự nhiên của mình đi chậm, thì khi tu tập phải theo hành tướng đi chậm mà tu, không được đi nhanh, cũng không đi quáchậm. Khi hành tướng tự nhiên của mình đi nhanh thì khi tu tập không được đi chậm, hoặc quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi với tướng tự nhiên của mình. Hành tướng nội hơi thở tự nhiên của mình chậm thì khi tu tập nên theo hơi thở chậm. Nếu hành tướng nội hơi thở tự nhiên của mình nhanh thì nên tu tập theo hơi thở nhanh, không nên hơi thở chậm mà khi tu tập thì lại thở nhanh, cũng như hởi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu như vậy không tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế, mà có sự ức chế thì có chướng ngại pháp, có chướng ngại pháp thì không có giải thoát ngay liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo.

Hành tướng của các pháp (ĐườngVề.6) là sự hoạt động của các pháp.

Hành tướng của tâm (ĐườngVề.6) là sự đối phó với các pháp trong hiện tại, câu hữu với tưởng về quá khứ và vị lai. Hành tướng của tâm có hai sự hoạt động trong tâm chúng ta: 1- Là sự tự sanh khởi của tưởng thức, không do ý thức tác ý. 2- Là sự tác ý, do ý thức chủ động điều khiển quán xét, tư duy, không do tưởng thức xen vào. Kinh sách Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ, khi tu thiền thì không chấp nhận hai trường hợp trên đây, vì thế họ đi vào sự ức chế tâm để thực hiện các loại định tưởng. Ngược lại, thiền định của kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Ngăn và diệt niệm ác, sanh khởi và tăngtrưởng niệm thiện và còn luyện tập pháp như lý tác ý để trở thành một đạo lực siêu việt làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi”.

Hành tướng ngoại tự nhiên (ĐườngVề.6)(CầnBiết.2) là cách thức tự nhiên của mình trong khi đi đứng nằm ngồi... Nếu hành tướng tự nhiên của mình đi nhanh thì khi tu tập không được đi chậm, hoặc quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi với tướng tự nhiên của mình. Nếu hành tướng ngoại tự nhiên đi nhanh hay chậm thì khi tu tập nên theo sự tự nhiên đó. Ức chế đi nhanh hay đi chậm trái với hành tướng ngoại tự nhiên thì có chướng ngại pháp, là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật, tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo.

Hành tướng nội tự nhiên (ĐườngVề.6)(CầnBiết.2) của mình là hơi thở chậm hay nhanh. Nếu hơi thở chậm thì khi tu tập nên theo hơi thở chậm. Nếu hơi thở tự nhiên của mình nhanh thì nên tu tập theo hơi thở nhanh, không nên hơi thở chậm mà khi tu tập thì lại thở nhanh, cũng như hởi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu như vậy không tự nhiên. Nếu hành tướng tự nhiên của hơi thở nhanh thì khi tu tập nên theo hơi thở nhanh tự nhiên đó, không nên làm cho hơi thở chậm lại, tu như vậy không tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế mà có sự ức chế thì có chướng ngại pháp, thì không có giải thoát ngay liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo.

Hành (thủ) uẩn (LinhHồn)(Phậtdạy.3) Hành uẩn là những hành động của sắc uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Là những sự hoạt động của sáu căn và tưởng thức (tưởng thức là phần vô hình của thân ngũ uẩn). Nếu thân ngũ uẩn không có hành uẩn là không thành thân ngũ uẩn mà thành một vật bất động vô tri, vô giác. Muốn đoạn diệt được thủ uẩn này thì chỉ có tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Hại tầm (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là ý niệm về tai hại khởi lên, là lòng nham hiểm, độc ác khởi lên tìm cách này cách nọ để nói xấu người khác, hoặc tìm mưu cách hãm hại khiến cho người khác đau khổ, khiến cho người khác mất uy tín, khiến cho tín đồ không còn theo tu tập, khiến cho người khác mất nghề nghiệp đói khổ, v.v...

Hạnh (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.3)(ThiềnCănBản)(TâmThư.1) là hành động, là đức hạnh không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh, hay nói cách khác hạnh là Giới luật, nền tảng đạo đức của Phật giáo, là hạnh ly dục ly ác pháp, là hạnh bất động tâm, là tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Do tâm này mới có đủ năng lực nhập Bốn Thánh Ðịnh và thực hiện Tam Minh. Người có Giới hạnh không thể nào tu tập lạc vào tà pháp ngoại đạo. Minh và Hạnh là thước đo sự tu tập của Tăng Ni và Cư sĩ, là tiêu chuẩn duyệt xét sự chứng quả của họ. Hạnh chỉ cho những oai nghi tế hạnh thuộc về hành động thiện. Cùng một danh từ đạo đức, lúc thì chúng ta gọi là đức; có lúc chúng ta gọi là hạnh, do sự công dụng đạo đức đó lúc ở đức hay lúc ở hạnh mà gọi; do sử dụng danh từ đạo đức đó lúc dùng làm chủ từ thì gọi là Ðức; lúc dùng làm động từ thì gọi là Hạnh. Phân biệt giới đức và giới hạnh đòi hỏi chúng ta phải có tri kiến thấm nhuần đức hạnh để biết lúc nào là đức và lúc nào là hạnh. Ví dụ: “Chúng ta đem thực phẩm, quần áo cứu trợ cho đồng bào bị hỏa hoạn tại chợ Qui Nhơn.” Câu này dạy Hạnh hiếu sinh thân hành. Tại sao câu này gọi là hạnh hiếu sinh? Vì đó là hành động (động từ) đi cứu trợ.

Hạnh ăn uống (ThiềnCănBản)(ĐườngRiêng) không ăn uống phi thời, chỉ có một bữa ngọ trai, là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống.

Hạnh bất động tâm (CầnBiết.3) là tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng.

Hạnh đi xin ăn (ĐườngVề.8) là đức hạnh cao quý và giải thoát nhất của vị tu sĩ đạo Phật, là Chánh Nghiệp của bậc thánh tăng, nó có nhiều ý nghĩa trong đường tu tập giải thoát của đạo Phật. Nhờ đức hạnh đi xin này mà kết quả xả tâm ly dục, ly ác pháp rất dễ dàng, cụ thể và rõ ràng. Đi xin ăn ngày một bữa, không xin tiền xin bạc, chỉ xin thực phẩm vừa đủ ăn trong một bữa, đó là thánh hạnh của bậc chơn tu Phật giáo.

Hạnh đi xin ăn có nhiều ý nghĩa của cuộc sống giải thoát như: 1- Giải thoát được thân, tâm không bận tâm lo đời sống ăn uống hằng ngày như: nấu, nướng, trồng, trỉa, gặt, hái, v.v… 2- Gieo duyên lành với chúng sanh, hay nói cách khác là tạo mối liên hệ để dẫn dắt chúng sanh tu hành giải thoát sau này, gọi là hóa duyên độ chúng sanh. 3- Diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. 4- Lập hạnh nhẫn nhục. 5- Lập hạnh tùy thuận. 6- Lập hạnh xả vật chất. 7- Lập hạnh giải thoát tâm phóng khoáng nhưhư không. 8- Lập hạnh phòng hộ sáu căn. 9- Lập hạnh thiểu dục tri túc. 10- Cuộc sống trầm lặng và đơn giản giữa mọi người. Đức hạnh đi khất thực vừa trực tiếp với các đối tượng nhưng lại ngầm bên trong tâm gián tiếp lập đức hạnh thánh tăng của một người tu sĩ đạo Phật, có một đời sống, bằng những hành động sống, thật sự đạo hạnh của người tu sĩ chân chánh. Hạnh đi khất thực là một hành động tu trực tiếp đối với các pháp để xả tâm của mình, trừ trường hợp lúc nhập định mà thôi.

Thời đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo phải đi khất thực vào buổi sáng trước giờ ngọ, ngay cả những người già yếu cũng phải đi xin ăn, chính như đức Phật đã già tám mươi tuổi mà vẫn còn đi xin ăn hằng ngày như những vị tỳ theo khác. Lấy thời gian buổi sáng đi khất thực là phải nói rằng: chính buổi sáng là thời gian tu tập nhiều nhất, nhất là giao tiếp với các pháp, người tu sĩ nhờ có các đối tượng để tu tập xả tâm như: 1- Ði khất thực, khi ra khỏi tu viện các thầy tỳ kheo cần phải phòng hộ sáu căn, mắt nhìn xuống, tai nghe sự hoạt động trong thân, ý phải giữ gìn chánh niệm trong hành động bước đi, đó là ngăn ác pháp (Tứ Chánh Cần), khi tâm có khởi niệm gì, đều phải quán vô lậu quét sạch, tức là diệt ác pháp. 2- Giữ tâm trong chánh niệm tỉnh giác, hơi thở hoặc bước đi (thân hành niệm nội ngoại). 3- Trải tâm từ trên bước đi, tránh giậm đạp chúng sanh (Tứ Vô Lượng Tâm). Trong một ngày, một đêm tu tập có ba thời tu trong cảnh tịnh (chiều, tối, khuya) còn thời gian buổi sáng tu trong cảnh động phòng hộ và xả tâm trong các đối tượng. Ba thời tu “tỉnh thức”, một thời tu “chánh niệm”. Nhờ có chánh niệm mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.

Hạnh độc cư (PhậtDạy.4)(ThiềnCănBản)(TâmThư.1) Hạnh độc cư là phương pháp hộ trì và bảo vệ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Bởi do sáu trần tiếp xúc sáu căn nên sinh ra nhiều ác pháp khiến tâm phóng dật không giữ gìn bảo vệ chân lí được, do vậy tâm thường đánh mất trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Vì thế, người tu tập muốn chứng đạo quả A La Hán thì phải sống giữ gìn hạnh độc cư cho trọn vẹn. Có nghĩa là phải sống một mình, không được nói chuyện với ai cả. Người tu hành không biết cứ phá hạnh độc cư vì thế tu hành chẳng đi đến đâu, rất uổng phi một đời.

Hạnh độc cư là bí quyết thành công của thiền định. Nó có ba nhiệm vụ: 1- Bảo vệ tâm tránh các duyên. 2- Gom tâm hợp nhất thành khối. 3- Làm cho tâm tuôn tràn ra hết. Tu sĩ Phật phải lấy hạnh độc cư làm cuộc sống của mình; phải lấy hạnh độc cư làm ngọn đuốc soi đường cho mình đi; phải lấy hạnh độc cư phòng hộ sáu căn giúp cho thân tâm bất động thanh tịnh; phải lấy hạnh độc cư làm căn cứ địa để chiến đấu với giặc sanh tử luân hồi; phải lấy hạnh độc cư biến mình thành con tê ngưu một sừng sống không hề sợ hãi, khiếp đảm bất cứ một trở ngại nào. Người tu sĩ đạo Phật có thành tựu được đạo giải thoát là nhờ hạnh độc cư. Hạnh độc cư bị phá vỡ thì con đường tu sẽ là con đường cùng và đời sống đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, đừng lầm lạc độc cư của đạo Phật với độc cư của ngoại đạo. Ðộc cư của đạo Phật là giới luật, là đức hạnh. Độc cư là giới hạnh, giới đức để tu tập Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ và hạnh độc cư hai pháp có liên quan mật thiết như cánh tay mặt và cánh tay trái. Hai pháp này rất quan trọng trong sự nghiệp tu tập tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Chính nhờ Thánh hạnh độc cư mà tâm không phóng dật.

Độc cư có ba giai đoạn: giai đoạn 1, 2 là giai đoạn tu tập Ðịnh Vô Lậu (tu học giới luật đức hạnh) triển khai tri kiến giải thoát, cho nên việc tiếp duyên là áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống để ly dục ly ác pháp phải có đối tương. Còn giai đoạn 3 là giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, là giai đọan tu chứng đạt chân lí, phải giữ gìn độc cư 100%, càng giữ gìn độc cư nghiêm chỉnh càng chứng đạo dễ dàng. giai đoạn này phải hộ trì sáu căn rất chặt mới ly dục ly ác pháp vi tế trong tâm hoàn toàn. Cho nên phải sáng suốt và nhớ kỹ: Tu pháp môn nào thì giữ gìn độc cư theo pháp môn đó tức là tu pháp môn đó thì phải giữ gìn sáu căn ở mức đó, nếu giữ sai sẽ bị ức chế tâm. Ở giai đọan học Giới Luật đức hạnh thì độc cư là phát biểu những ý kiến về đạo đức, khích lệ sách tấn mọi người sống với đức hiếu sinh cho được, đó là độc cư. Học đức hiếu sinh mà không trao đổi với nhau thì tình thương ấy ở đâu? Im lặng như thánh trong giai đoạn này là sai pháp, trao đổi để giúp nhau sống trong tình thương. Những điều cần phải im lặng như thánh: những chuyện tào lao, nói xấu người này, người kia, nói sau lưng kẻ khác... 1- Ðối với bản thân bằng hạnh độc cư hiếu sinh (tự nói chuyện với mình bằng pháp triển khai tri kiến, chứ không được nói chuyện tham sân, si ,mạn, nghi và cần giải quyết mọi giấy tờ cần thiết cho yên ổn). 2- Ðối xử với những người thân bằng hạnh độc cư hiếu sinh (nói chuyện những gì cần nói để trợ giúp người thân sống trong đạo đức Ngũ Giới, tạo duyên hòa hợp mọi người trong gia đình). 3- Ðối với bạn đồng tu bằng hạnh độc cư hiếu sinh (nói chuyện những gì giúp đỡ và sách tấn các bạn đồng tu đừng thối chuyện bỏ dỡ tu hành, nhưng không được nói chuyện ngoài lề). Ðộc cư trong giai đoạn tu tập giới đức hiếu sinh là phải tiếp duyên, đem đức hiếu sinh đến với mọi người, khi mình học được điều gì trao đổi giúp nhau vượt khó áp dụng cho bằng được đức hiếu sinh tức là đem đức hiếu sinh đến với mọi người. 4- Tiền bạc rất cần làm việc giúp đỡ bạn đồng tu trong giai đoạn học lớp đạo đức Ngũ Giới, chỉ khi nào tu tập đến giai đoạn Tứ Niệm Xứ thì không cất giữ tiền bạc (Những người xuất gia Thầy có bài pháp dạy riêng về hạnh không cất giữ tiền bạc và tại sao không cất giữ tiền bạc).

Độc cư của Phật giáo thấy từng tâm niệm của mình, lúc nào phải độc cư im lăng như thánh lúc nào độc cư với năm đức hạnh, với ba đức Tam Quy, với Tám Ðức Bát Quan Trai Giới, với mười đức Thập Thiện, Với Thập Giới Sa Di, với Ðịnh Niệm Hơi Thở, với Tứ NiệmXứ và Tứ Thánh Ðịnh… Ðộc cư trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới thì phải biết im lặng như thánh và bỏ đi khi nghe người khác nói xấu người khác, nói sau lưng người khác, nói lời li gián, nói không thật, nói thêu dệt.v.v...Còn có người hỏi đúng nơi đúng chỗ về đức hiếu sinh thì trả lời và nói về cách thức áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống chứ không được im lặng như thánh và bỏ đi, đấy là sai… Muốn viễn ly tất cả các ác pháp và các dục mà không nhờ hạnh độc cư thì các bạn rất khó mà viễn ly nổi.

Thực hành Hạnh Ðộc Cư bằng: 1) Bằng ý hành với sự hộ trì bảo vệ ý căn không được nghĩ điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nghĩ những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn chúng ta nghĩ điều thiện với họ. Họ nghĩ những điều xấu ác về ta sẽ có luật nhân quả trừng trị còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách tư duy thiện pháp để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì ý căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Hạnh Ðộc Cư thứ hai khẩu hành (trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới). 2) Bằng khẩu hành với sự hộ trì bảo vệ khẩu căn (thiệt căn) không được nói những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nói những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn dùng ái ngữ nói điều thiện với họ. Họ nói những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách nói lời thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì khẩu căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ hai khẩu hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Cho nên, tiếp duyên nói chuyện với mọi người, lại là độc cư im lặng như thánh... Ở đây nên lưu ý chỉ cần nói không thật, nói dối, nói thêu dệt, nói li gián, nói lời hung dữ, nói chuyên tào lao, nói chuyện ngoài pháp tu, nói chuyện phím, nói chuyện của người khác, v.v... là phá hạnh Ðộc Cư, là phạm giới… Ở đây giai đoạn học giới luật đức hạnh, cho nên Ðộc Cư là giới luật phòng hộ sáu căn, chứ không phải độc cư là không nói chuyện, nhưng chúng ta không hiểu pháp độc cư áp dụng không đúng thành không dám nói chuyện là bị ức chế tâm, thì cũng rất tai hại. Còn lợi dụng chỗ tiếp duyên nói chuyện này, đi nói chuyện tào lao cho thỏa thích như người thế gian, thì rất uổng cho một đời tu tập mà chẳng đi đến đâu. Người giữ hạnh độc cư cần nói những điều lành đem lợi ích cho mình cho người, còn nói những điều ác thà chết chứ không nói, đó là hạnh độc cư phòng hộ khẩu căn… Ở giai đoạn học giới luật đức hạnh, cho nên Ðộc Cư là giới luật phòng hộ sáu căn, chứ không phải độc cư là không nói chuyện, nhưng chúng ta không hiểu pháp độc cư nên áp dụng không đúng thành không dám nói chuyện là bị ức chế tâm, thì cũng rất tai hại. Còn lợi dụng chỗ tiếp duyên nói chuyện này, đi nói chuyện tào lao cho thỏa thích như người thế gian, thì rất uổng cho một đời tu tập mà chẳng đi đến đâu. Người giữ hạnh độc cư cần nói những điều lành đem lợi ích cho mình cho người, còn nói những điều ác thà chết chứ không nói, đó là hạnh độc cư phòng hộ khẩu căn… 3- Bằng thân hành với sự hộ trì bảo vệ thân căn, không được làm những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ làm những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn làm những điều thiện với họ. Họ làm những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy lo cứu mình bằng cách làm những thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì thân căn không bị ác pháp tác động vào tâm. Và như vậy là hạnh Ðộc Cư thứ ba thân hành trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới. Hạnh độc cư của lớp Ngũ Giới không giống với hạnh độc cư của Lớp Chánh Niệm. Lớp Chánh Niệm áp dụng độc cư 100% còn lớp Ngũ Giới chỉ áp dụng 50%. Lớp Ngũ Giới là lớp học giới luật đức hạnh thuộc về định Vô lậu, còn lớp Chánh Niệm là lớp học tỉnh thức thuộc về Tứ Niệm Xứ. Năm lớp Ngũ Giới là: lớp I Ðức Hiếu Sinh; lớp II Ðức Ly Tham từ bỏ lấy của không cho; lớp III Ðức Chung Thủy; lớp IV Ðức Thành Thật; lớp V Ðức Minh Mẫn (từ bỏ rượu, thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, xì ke, ma tuý, cờ bạc, cá cược v.v…).

Người biết phòng hộ sáu căn là người sống độc cư. Ðộc cư đúng với phương pháp đang tu, còn sống không đúng với pháp đang tu dù không nói chuyện nhưng vẫn chưa phải là sống độc cư. Nên lưu ý để áp dụng pháp độc cư cho đúng. Độc cư của Phật giáo thấy từng tâm niệm của mình lúc nào phải độc cư im lặng như thánh lúc nào độc cư với năm đức hạnh, với ba đức Tam Quy, với Tám Ðức Bát Quan Trai Giới, với mười đức Thập Thiện, Với Thập Giới Sa Di, với Ðịnh Niệm Hơi Thở, với Tứ NiệmXứ và Tứ Thánh Ðịnh.

Hạnh Ðộc Cư khẩu hành (TâmThư.1) (trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới) không được nói những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ nói những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn dùng ái ngữ nói điều thiện với họ. Họ nói những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy nói lời thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì khẩu căn không bị ác pháp tác động vào tâm.

Hạnh Ðộc Cư thân hành (TâmThư.1) (trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới) không được làm những điều xấu ác cho người khác, dù người khác họ làm những điều xấu ác đối với mình, nhưng luôn luôn làm những điều thiện với họ. Họ làm những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị, còn riêng chúng ta hãy làm những thiện pháp, để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là chúng ta đang hộ trì thân căn không bị ác pháp tác động vào tâm.

Hạnh Ðộc Cư ý hành (TâmThư.1) (trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới) không được nghĩ điều xấu ác cho người khác, luôn luôn nghĩ điều thiện với họ. Họ nghĩ những điều xấu ác sẽ có luật nhân quả trừng trị còn riêng chúng ta hãy tư duy thiện pháp để thực hiện đức hiếu sinh với mình, với người. Ðó là đang hộ trì ý căn không bị ác pháp tác động vào tâm.

Hạnh Ðức (PhậtDạy.1) là những hành động thân, miệng không làm khổ mình, khổ người, gồm có những pháp sau đây: 1- Giới hạnh: Người tu sĩ và người cư sĩ nào giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Ðó là vị ấy đã thể hiện Hạnh Ðức của mình. Như vậy giới luật là “Hạnh Ðức” của người tu sĩ và người cư sĩ. 2- Hộ trì các căn: hộ trì các căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, làm cho nó không dính mắc sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là sống độc cư trọn vẹn, không hề phá hạnh độc cư thì người ấy đang thể hiện Hạnh Ðức. 3- Tiết độ trong ăn uống: Người tu sĩ và nguời cư sĩ nào đã tu tập mà biết tiết độ trong ăn uống, có nghĩa là không ăn uống phi thời, chỉ ăn ngày một bữa. Ðó là người đang thể hiện Hạnh Ðức về ăn uống của mình. Hạnh Ðức về ăn uống không phải dễ, đối với những người còn mang đầy ắp thân kiến, sợ thân bệnh, sợ thân chết, v.v... Muốn tìm sự tu tập để được giải thoát thì ăn uống là Hạnh Ðức rất cần thiết. “Vị Thánh đệ tử nào có tiết độ trong ăn uống, như vậy thuộc về Hạnh Ðức của vị ấy”. 4- Chú tâm cảnh giác: Người tu sĩ và cư sĩ nào biết chú tâm cảnh giác từng tâm niệm, từng đối tượng của mình để ngăn và diệt các pháp ác, đó là người đang thể hiện Hạnh Ðức của mình. Ðó là Ðịnh Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ, là Hạnh Ðức của vị tu sĩ và của vị cư sĩ. 5- Ðầy đủ bảy diệu pháp: Người tu sĩ và cư sĩ nào đã tu tập đầy đủ bảy diệu pháp, thì người ấy đang thể hiện Hạnh Ðức của mình. Bảy diệu pháp là bảy phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh Ðức của một tu sĩ và của một cư sĩ Phật giáo xứng đáng là đệ tử của đức Phật. 6- Hiện tại lạc trú Bốn thiền: Người tu sĩ và người cư sĩ nào đã tu tập đầy đủ thiện pháp thì nhập Hiện Tại Lạc Trú Bốn Thiền không có khó khăn và mệt nhọc, là người ấy đang thể hiện “Hạnh Ðức” của mình. Hiện tại lạc trú Bốn Thiền là phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh Ðức của người tu sĩ và của người cư sĩ Phật giáo. Nhờ có hạnh đức này mới xứng đáng là đệ tử của đức Phật.

Hạnh Ngủ nghỉ (ĐườngRiêng) quyết chí tu tập thì thường đi kinh hành gần như suốt đêm ngày. Mục đích tu hành là phải tâm luôn luôn lúc nào cũng phải tỉnh giác sáng suốt, không bị hôn trầm thuỳ miên tấn công, đi kinh hành là một phương pháp phá hôn trầm thùy miên đệ nhất.

Hạnh nhẫn nhục (ĐườngRiêng) 1- Người ta chửi mình, mình không nên chửi lại. 2- Người ta đánh mình, mình không nên đánh lại. 3- Người ta nói dối không thật nhưng mình không nên chỉnh sửa sai những điều đó, vì chỉnh sửa sai những điều đó người ta sẽ xấu hổ sinh thù oán. 4- Người ta nói nặng lời với mình, những lời nói thô lỗ mình không nên nặng lời và dùng những lời nói thô lỗ với họ. Vì dùng những lời nói qua lại như vậy chẳng khác nào như chửi mắng nhau. 5- Người ta nói xấu mình nhưng mình không nói xấu lại. 6- Người ta hay tranh luận hơn thua với mình thì mình nên tránh không nên tranh luận hơn thua với họ. 7- Người nói đúng nói sai mình chỉ biết làm thinh không nói đúng sai, nói phải, nói trái mặc dù chúng ta biết rất rõ đúng sai phải trái nhưng không phê phán ai cả. 8- Người ta cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy không chê dỡ hay khen ngon.

Hạnh ô nhiễm (CầnBiết.4) Ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời... hút thuốc lá, uống rượu... Tham, sân, si, mạn, nghi... Đó là những hạnh ô nhiễm khó quên.

Hạnh Phạm Thiên (PhậtDạy.2) gồm có giới đức, giới hạnh và giới hành. Phạm Thiên có trước giới luật Phật. Hạnh Phạm Thiên tức là giới luật Phật, là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người như Ðạo Phật. Khi đã chọn giới làm cuộc sống cho mình thì lúc nào cũng phải sống như giới, giới luật dạy sao ta làm đúng và sống đúng như vậy, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì đó là ta đã sống cung kính, tuỳ thuận giới. Sống đúng giới là mang đến hạnh phúc an vui cho muôn loài mà chính giới luật mang lại sự giải thoát sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Hạnh phúc (TâmThư.2) là sự sống đoàn kết thương yêu nhau không làm khổ nhau, không chửi mắng đánh nhau sống chia sẻ ngọt bùi với nhau, an ủi nhau những lời ái ngữ, khi vắng nhau thương nhớ. Ðó là hạnh phúc. Ðức Phật không chấp nhận khoái lạc, mà chấp nhận ly dục ly ác pháp. Khi ly dục ly ác pháp cái gì ở trạng thái ly dục ly ác pháp còn lại là đức Phật chấp nhận.

Hạnh từ bi của Phật (10Lành) thì không sát sanh hại vật, mà còn phải thực tập ăn chay, không ăn thịt chúng sanh.

Hạnh tuệ (PhậtDạy.2) là trí tuệ đức hạnh, trí tuệ biến ra hành động không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh; Hạnh tuệ là tâm bi của Tứ Vô Lượng Tâm.

Hạnh uế ác (PhậtDạy.1) sống làm khổ mình, khổ người và sống làm khổ tất cả chúng sanh; sống không ngăn ác, diệt ác pháp.

Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục (PhậtDạy.1) Con ngựa thuần thục là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ mới tu tập Thiền định. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng. Lúc bấy giờ mới bắt đầu tu tập Thiền Ðịnh. Nền tảng thiền định của Ðạo Phật là giới luật mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Con ngựa chưa thuần thục có nghĩa thân tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu thiền định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu thiền định của Ðạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu thiền định mới bảo đảm. Có nền tảng giới luật thì Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền định.

Hân hoan (12Duyên) là lòng rất vui mừng giống như người đi xa về gặp lại những người thân. Như khi làm được một việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình và cho người thì lòng hân hoan phải có. Duyên của hân hoan như vậy là lòng tin.

Hân Hoan là duyên của Hỷ (12Duyên) Hân hoan là lòng rất vui mừng giống như người đi xa về gặp lại những người thân hay chúng ta tin vào khả năng của mình sẽ làm nên một sự nghiệp to lớn. Khi làm được một việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình và cho người thì lòng hân hoan phải có.

Hân hoan liên hệ đến pháp (ĐườngVề.2)(CữSĩTu) là trạng thái niềm vui mừng khởi lên trong ta do ta tin tưởng vào pháp Phật. Khi ta vui mừng thích thú sống như Phật và làm đúng như Phật thì tâm chúng ta thanh tịnh, không còn phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác ác pháp tức là tâm giải thoát hay nói một cách khác hơn là làm chủ cuộc sống, tâm bất động trước các pháp. Khi trong tâm có trạng thái thích sống như Phật thì một trạng thái khác hiện lên, đó là trạng thái niềm vui mừng khởi lên. Đó là Hân hoan liên hệ đến pháp.

Hân hoan thích thú pháp niệm Phật (ĐườngVề.2)(TứBấtHoại)(CữSĩTu) là luôn luôn thích sống như Phật, có nghĩa là tâm tham không còn ham muốn một vật gì hết ngay cả ăn uống cũng không còn ham muốn ăn uống gì cả. Tâm sân cũng vậy, không còn một pháp ác nào tác động vào thân tâm, làm ta nổi sân được và si cũng vậy lúc bây giờ không còn ham thích lười biếng ưa ngủ nghỉ, có nghĩa là trong trạng thái tín thọ không còn hôn trầm, thuỳ miên, vô ký nữa mà rất siêng năng sống như Phật.

Hân Hoan là duyên của Hỷ (12Duyên) Hân hoan là lòng rất vui mừng giống như người đi xa về gặp lại những người thân hay chúng ta tin vào khả năng của mình sẽ làm nên một sự nghiệp to lớn, Khi làm được một việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình và cho người thì lòng hân hoan phải có.

Hiền giả (CầnBiết.2) là những người giới luật nghiêm chỉnh, đó là những bậc chưa chứng quả A La Hán.

Hiện tại lạc trú Bốn thiền (PhậtDạy.1) Người tu sĩ và người cư sĩ nào đã tu tập đầy đủ thiện pháp thì nhập Hiện Tại Lạc Trú Bốn Thiền không có khó khăn và mệt nhọc, là người ấy đang thể hiện “Hạnh Ðức” của mình. Hiện tại lạc trú Bốn Thiền là phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh Ðức của người tu sĩ và của người cư sĩ Phật giáo. Nhờ có hạnh đức này mới xứng đáng là đệ tử của đức Phật.

Hiện tiền diệt trách (GiớiĐức.1) là đưa giới luật ra giữa hai bên để phán xét dứt rầy rà: 1- Pháp hiện tiền. 2- Giới luật hiện tiền. 3- Người hiện tiền. 4- Tăng hiện tiền. 5- Giới.

Hiệu quả pháp hướng tâm (ĐườngVề.9) có 3 bậc cao thấp khác nhau: 1- Trình độ cao tức là tâm đã ly dục ly ác pháp (giai đoạn diệt) thì hướng tâm diệt tầm tứ, ly hỷ tưởng và tịnh chỉ hơi thở làm chủ sự sống chết thực hiện Tam Minh và chấm dứt luân hồi. 2- Trình độ thấp là tâm chưa ly dục ly ác pháp (giai đoạn ly) thì pháp hướng tâm sẽ giúp chúng ta có nội lực tỉnh thức trước các pháp ác. 3- Trình độ trung (giai đoạn chỉ) là đã ly dục ly ác pháp và nhập Tam Thiền. Pháp hướng tâm đối với người mới tu cũng như người tu lâu đều có hiệu quả nhưng hiệu quả trong giai đoạn tu của nó, như hiệu quả ở giai đoạn ly thì không hiệu quả ở giai đoạn chỉ, hiệu quả ở giai đoạn chỉ thì không hiệu quả ở giai đoạn diệt. Người mới tu ở giai đoạn ly dục ly ác pháp mà muốn pháp hướng có hiệu quả ở giai đoạn chỉ thì không thể nào được, cũng như ở giai đoạn chỉ mà muốn pháp hướng có hiệu quả ở giai đoạn diệt thì không thể được. Chừng nào tu tập viên mãn ở giai đoạn này, làm sung mãn ở giai đoạn kia thì mới thấy hiệu quả pháp hướng tâm cụ thể, rõ ràng.

Hình thành thân ngũ uẩn (TâmThư.1) là giai đoạn hình thành bào thai của đứa bé trong bụng người mẹ. Nghiệp chỉ có tương ưng với nghiệp của cha mẹ, do hành động của cha mẹ hợp duyên tạo thành nghiệp mới là bào thai của đứa bé.

Huân tập sở tri chướng (ThiềnCănBản) học nhiều giáo lý, tích luỷ kiến thức thế gian.

Hữu (ĐườngVề.1)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(12Duyên) là có, có vật này, vật kia như: thântứ đại, thân ngũ uẩn, nhà cửa, của cải tài sản, tiền bạc, cha, mẹ, anh em, chị em, bà con quyến thuộc, thân bằng, v.v... Do Có (Hữu) mà chúng ta sinh ra ưa thích (Ái) nên mới thủ (Thủ), cố giữ lại. Cố giữ lại nên mới có duyên THỦ. Khi tâm chúng ta không ưa thích (ÁI) thì chúng ta không có (HỮU) vật gì cả. Cho nên ÁI diệt thì HỮU diệt. Khi đã có thì mới gìn giữ bảo vệ, nên kinh dạy: “Hữu sinh ra thủ”.

Hữu bộc lưu (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu.

Hữu là duyên của Thủ (12Duyên) Hữu có nghĩa là Có, những vật chất mà chúng ta có được. Nhưng nếu có mọi vật nhưng đừng có Giữ Lại thì làm sao có Thủ. Cho nên chúng ta sống không có Duyên Hữu thì làm sao có Duyên Thủ. Chính vì có Duyên Hữu mới có Duyên Thủ. Những điều trên đây là do không biết pháp môn Tác Ý để phòng hộ sáu căn nên khi vật chất đến là chúng ta dính mắc, cố chấp, giữ gìn, bảo thủ làm của riêng của mình. Vì vậy duyên Hữu có thì duyên Thủ có. Khi duyên Hữu có thì không phải tới đây nó chấm dứt mà nó phải có duyên khác nữa.

Hữu ngã (ĐườngVề.8) cho là ta, cái ta, cái bản ngã của ta.

Hữu tình (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) Hữu là có; tình là tình cảm, cảm mến. Các loài hữu tình là chỉ chung cho loài người và loài vật (loài có tình cảm).

Hương đăng (Tạoduyên) việc nhang đèn trong chùa.

Hương tưởng (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.4) là những mùi thơm hay mùi thối do tưởng uẩn trong ta biến hóa lưu xuất hiện hành phát ra mùi hương thơm hay thối như vậy. Mùi hương này chỉ có người có tưởng hoạt động nhận được, hay người tu thiền sai pháp lọt vào định tưởng mà nhận được mùi hương này.

Hướng lưu (PhậtDạy.4) hướng tâm đến pháp đó.

Hướng tâm (PhậtDạy.4) không phải là vọng tưởng.

Hướng thượng (3Qui5Giới) là bộ phận giáo lý nhắm vào mục đích thứ hai của Phật pháp, mục đích tiến dẫn đến nhân cách viên mãn là làm chủ sanh, lão, bệnh, tử – Sống đời thanh thản an lạc vô sự – Giải thoát luân hồi đau khổ.

Hưởng Thụ (12Duyên) tức là Thọ dụng. Chính vì con người ưa thích hưởng Thụ mà đành chịu muôn ngàn thứ khổ đau trong kiếp sống làm người.

Huyền sử 33 vị Tổ sư thiền Ðông Ðộ và Trung Hoa (Tạoduyên) là sự dựng lên những trang sử không có thật của người sau. Các Tổ sư này không được đức Phật chỉ định làm người thừa kế, dẫn dắt phật tử trên đường tu học.

Huyệt bách hội khai mở (ĐườngVề.5) tức là ý thức bị ức chế không vọng tưởng, chứ không phải ý thức thanh tịnh. Ngoại đạo tu tập dùng mọi pháp môn để ức chế ý thức, khiến cho ý thức không có vọng niệm. Không có vọng niệm họ ngỡ rằng cách thức tu tập như vậy làm cho ý thức thanh tịnh, nói cách khác là họ muốn làm cho tâm thanh tịnh, nhưng nào ngờ khi ý thức bị ức chế không hoạt động được; vì ý thức không hoạt động được nên tưởng thức hoạt động, do đó mới khai mở các huyệt đạo. Tu theo kinh sách phát triển thì không có tâm thanh tịnh, mà chỉ có tâm chạy theo dục lạc vật chất thế gian. Chỉ khi nào ý thức ly dục ly ác pháp thì ý thức mới thanh tịnh.

Hoan hỉ (TruyềnThống.2) là vui mừng.

Hoan hỉ sống an tịnh (TruyềnThống.2) là một hành động đạo đức thuộc về tâm làm Người, làmThánh; luôn sống bằng tất cả giới hạnh buông xả, từ bỏ lối sống thế gian, từ bỏ những thân hành ác, từ bỏ lời nói ác, từ bỏ những ý hành ác, bằng lòng tối thiểu về ăn uống, về y áo, hoan hỉ sống an tịnh để đi vào lối sống Thánh thiện. Giới đức hoan hỉ sống an tịnh tức là tu tập tâm hoan hỉ, tu tập tâm hoan hỉ tức là tu tập hỉ vô lượng tâm. Sống nghiêm chỉnh giới đức hoan hỉ này thì sẽ tìm thấy sự an vui chân thật của Phật Giáo. Giới hạnh hoan hỉ sống an tịnh là Thánh hạnh của Phạm Thiên, tức là vui vẻ sống an ổn một mình, sống cho mình. Sống cho mình tức là sống độc cư cô đơn. Sống vui vẻ và an ổn một mình, tức là đời sống của người tu sĩ Phật giáo biết hoan hỉ sống an tịnh. Chính giới hạnh này là một pháp môn giúp cho người tu sĩ phòng hộ sáu căn, để không dính mắc sáu trần, nhờ đó tâm hành giả không còn phóng dật. Tâm không phóng dật là trạng thái Niết Bàn. Cho nên, muốn làm những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni thì phải tự nguyện chấp nhận vui vẻ đời sống độc cư cô đơn một mình, chứ chẳng có ai bắt buộc mình cả.

Hoan hỉ (TruyềnThống.2) là vui mừng.

Hóa duyên độ chúng sinh (Tạoduyên) tạo duyên mới giúp chúng sinh.

Hóa sanh (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.9) Hóa sanh là sự hợp các gen tạo thành người, vật. Các nhà tu theo Phật giáo có đủ bảy năng lực Giác Chi dùng nó thực hiện sự hóa sanh nghĩa là phối hợp các gen tạo thành người, vật và vật dụng theo ý muốn của mình, như tạo thành nhà cửa, đồ vật dụng... cho nên, hai chữ “hóa sanh” ở đây còn nằm trong bốn loại sanh của loài thực vật và động vật trên hành tinh này. (Bốn loại sanh này gồm có: 1. Thấp sanh: sanh nơi ẩm thấp, như loài rong rêu, cỏ cây, loài động vật sanh nơi ẩm thấp. 2. Noãn sanh: trong trứng, như loài thảo mộc (hạt giống), loài động vật như chim, thú sanh. 3. Thai sanh: sanh ra con, như loài người, loài thú sanh ra con. 4. Hoá sanh: sự hợp duyên của qui luật nhân quả tạo thành vạn vật trong vũ trụ).

Hóa sanh là những từ trường thiện được sanh ra do hành động làm thiện của con người, từ trường thiện luôn luôn có sự hiện diện trong môi trường sống của chúng ta. Nếu từ trường thiện tăng lên thì con người và tất cả loài vật trên hành tinh này đều sống an vui, hạnh phúc, không bệnh tật, không tai nạn và không khổ đau, môi trường sống sẽ không bị ô nhiễm, sức khỏe của con người và loài vật được bảo đảm an toàn.

Chữ hóa sanh trong kinh “Bát Thành” có nghĩa là khi sống, tâm bám chặt ở trạng thái Sơ Thiền hoặc luôn luôn giữ tâm sống trong trạng thái ấy thì các lậu hoặc lần lượt sẽ được đoạn trừ, hóa sanh vào Niết Bàn. Và nếu chưa đoạn trừ được các lậu hoặc (trong khi sống) mà bị chết thì tiếp tục tu tập bằng tưởng thức. Tu tập bằng tưởng uẩn cũng giống như trong chiêm bao thấy mình đang tu tập vậy, nhưng lúc bây giờ thân sắc uẩn phải không bị hư hoại; nếu thân sắc uẩn hư hoại do một nhân duyên gì thì người ấy không còn tu tập được và như vậy duyên người ấy đã thọ hết phước báo đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chỉ còn nghiệp thế gian tiếp tục luân hồi tái sanh. Tu tập bằng tưởng thức được là nhờ khi sống nhập được Sơ Thiền; nhờ Sơ Thiền mà diệt được năm hạ phần kiết sử phát sinh từ trường thiện nên khi chết từ trường này bảo vệ thân tứ đại không bị hư hoại. Diệt được năm hạ phần kiết sử thì nghiệp thế gian đã bị muội lược, không còn tương ưng với nghiệp chúng sanh, do đó không thể tái sanh luân hồi được, nhờ đó mà tưởng thức thay thế ý thức tu tập cho đến khi lậu hoặc được diệt sạch thì hóa sanh vào Niết Bàn.

Học đạo đức (TâmThư.2) để mình không ăn cắp lại chính mình; để mình không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Học đạo đức là vì tâm chưa ly dục ly ác pháp, chứ tâm đã ly dục ly ác pháp thì không còn học đạo đức.

Học đạo đức giới luật (TâmThư.1) là học xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đó tâm mới lần lần thưa niệm và không còn vọng niệm, hôn trầm, thùy miên nữa. Sự tu tập xả tâm là một lợi ích rất lớn mà nó đã thể hiện hai phần: - Lợi ích thứ nhất là giúp cho hành giả sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả, thường không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, để trở thành những bậc thánh thiện trong loài người. - Lợi ích thứ hai là giữ gìn và bảo vệ chân lí “tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự”. Nếu tâm tâm bất động ấy luôn luôn hiện tiền thì hành giả chứng quả A La Hán. Sự xả tâm ly dục ly ác pháp có một tầm quan trọng nhất trên con đường tu tập theo Phật giáo.

Học giả (PhậtDạy.4) người tu hành chưa đến nơi đến chốn, họ chỉ nói được chứ thực hành đúng như pháp thì họ chưa làm được. Những học giả dù họ có cấp bằng tiến sĩ Phật học vẫn là ác tri thức, sẽ hướng dẫn hành giả vào con đường phí công phí sức tu tập, uổng phí một đời người. Học giả chỉ mượn sắc áo tôn giáo làm cuộc sống danh lợi, ngồi mát ăn bát vàng. Họ là những tu sĩ Phật giáo không có đức, không có hạnh, không có giữ giới luật tinh nghiêm.

Học Hạ (TruyềnThống.1) Mỗi năm các tu sĩ các chùa về học Hạ một lần tại các trung tâm học Hạ là để thúc liễm thân tâm tu tập cầu sự giải thoát.

Học Pháp (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là học và tu tập giới luật và 37 phẩm trợ đạo. Nếu học và tu tập một cách lơ là, cho có hình thức thì đó là tâm rừng rú. Muốn xả bỏ tâm rừng rú đó thì phải tinh tấn siêng năng tu tập Tứ niệm Xứ.

Học đạo đức (TâmThư.2) để mình không ăn cắp lại chính mình; để mình không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Học đạo đức là vì tâm chưa ly dục ly ác pháp, chứ tâm đã ly dục ly ác pháp thì không còn học đạo đức.

Hỏa táng (CầnBiết.1) là đem thiêu xác những người thân thương của mình sau khi chết rồi lấy tro đựng trong một cái ghè để dưới gốc cây. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ dưới gốc cây lâm vồ. Hỏa táng thì tình cảm thiêng liêng của con người không cho phép chúng ta làm, và chúng ta không thể không đau lòng được trước cảnh thiêu xác người thân.

Hôn tịch (ĐườngVề.1)(4Tâm) Lúc mê, lúc tỉnh, mơ mơ, màng màng, bần thần, lười biếng. Thí dụ: Ý tu tập đếm hơi thở mà lúc nhớ, lúc quên.

Hôn trầm (ĐườngVề.1)(4Tâm) là ngủ gục. Ngồi một lúc là gục xuống, rồi lại ngẩng lên.

Hôn trầm, thùy miên triền cái (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Là cái màn ngăn che của hôn trầm thùy miên khiến cho ta không thấy, nhưng hôn trầm, thuỳ miên vẫn còn y nguyên. (Năm triền cái Dục tham, Sân, Hôn trầm thùy miên, Trạo hối, Nghi này là năm pháp ngăn che làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do đó, nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc để thực hiện Bốn Thiền và Tam Minh. Muốn đoạn tận năm triền cái này thì chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận năm triền cái).

Hôn trầm, thùy miên và vô ký (10Lành)(TâmThư.1) là trạng thái tâm trí mờ mịt, hoặc buồn ngủ, hay không nhớ, không biết gì cả; là một trạng mất tỉnh giác, một trạng thái si mê, một trạng thái lười biếng, vì thế phải bằng mọi cách nhiếp phục cho được, hoàn toàn trong giờ tu tập không bao giờ còn có bóng dáng của hôn trầm, thùy miên và vô ký thì mới mong tu tập tiến tới các pháp môn khác, nếu hôn trầm, thùy miên và vô ký tu tập chưa xong thì đừng mong tu tập Tứ Niệm Xứ vì tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì tâm phải không còn niệm vọng tưỏng và hôn trầm thùy miên và vô ký nữa. Ðây là tình trạng chung của những người tu thiền, nếu không tỉnh thức thì hành giả sẽ buồn ngủ, ngủ gục, và rơi vào tình trạng mờ mịt, không hay biết gì cả. Một số người tu thiền, sau một thời gian tu tập, khi rơi vào tình trạng này họ cứ nghĩ rằng mình đã nhập định! Nói một cách khác, hôn trầm, thùy miên và trạo cử, hối quá là những chướng ngại đưa đến si mê mà người Phật tử, nhất là những người tu thiền, cần phải khắc phục. Người Phật tử giữ giới không si mê trước tiên phải từ bỏ rượu. Rượu làm cho tâm trí mờ tối khiến cho ta có những lời nói và hành động sai lầm, tai hại. Trong khi tu tập thì phải duy trì giờ giấc công phu, ăn uống điều độ, không ăn phi thời. Không cố gắng thức khuya khi thân thể mệt nhọc, rã rời vì khi thân thể mệt nhọc rã rời thì bị hôn trầm, thùy miên, vô ký cho nên không thể tỉnh táo để công phu. Nói một cách khác, hôn trầm, thùy miên và trạo cử, hối quá là những chướng ngại đưa đến si mê mà người Phật tử, nhất là những người tu thiền, cần phải khắc phục.

Hộ thất (Tạoduyên) mang cơm, xách nước cho người tu hành.

Hộ trì các căn (PhậtDạy.1)(12Duyên)(CầnBiết.4) (bằng pháp môn Như Lý Tác Ý) Hộ trì các căn là pháp môn dùng pháp như lý tác ý để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý làm cho nó không dính mắc sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để tâm ly dục ly ác pháp, để tâm tuôn trào tất cả nghiệp chướng do từ lâu huân tập, tức là sống độc cư trọn vẹn, không hề phá hạnh độc cư thì người ấy đang thể hiện Hạnh Ðức. Hộ trì các căn là một pháp trong nhóm của pháp môn “độc cư”. Độc cư chia ra làm ba nhóm: - Nhóm thứ nhất, là độc cư thuộc về thân, còn gọi là an trú - Nhóm thứ hai, là độc cư thuộc về ý, còn gọi là độc trú - Nhóm thứ ba, là độc cư thuộc về sáu căn, gọi là phòng hộ sáu căn, còn gọi là hộ trì các căn. Hộ trì các căn tức là dùng pháp như lý tác ý để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý để tập Tỉnh Giác trên hơi thở. Pháp môn Như Lý Tác Ý là một pháp môn giúp cho tâm Tỉnh Giác hoàn toàn. Nó còn giúp làm chủ ăn uống, giúp chú tâm tỉnh giác, nhờ tâm có tỉnh giác mới gọt rửa được ngũ triền cái, nhờ hằng ngày gọt rửa ngũ triền cái nên tâm vô lậu hoàn toàn. Ví dụ: Khi mắt thấy một chiếc xe hơi đang chạy trên đường, một con bò đang ăn cỏ, hay một người già chống gậy đi bộ trong vườn v.v... thì liền Tác Ý: “Mắt không nên nhìn xe hơi, con bò hay cụ già mà hãy quay vào nhìn hơi thở, biết Hơi Thở Ra Vô” hay “Mắt hãy nhìn chỗ Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.” Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng vậy, khi nghe, khi cảm giác mùi vị, cảm xúc hay khởi niệm thì đều phải Tác Ý như vậy. Đó là phòng hộ sáu căn bằng pháp môn Như Lý Tác Ý. Tỉnh Giác, Độc Cư và Ăn Uống Tiết Độ đều dùng pháp Như Lý Tác Ý dẫn tâm vào đạo thì mới hoàn toàn giải thoát. Nếu một người tu tập theo Phật giáo mà hoàn thành ba pháp môn (1- Hộ trì các căn; 2- Tiết độ trong ăn uống; 3- Chú tâm tỉnh giác) thì người ấy tâm hoàn toàn vô lậu, ngay đó họ chứng đạo vô thượng Bồ Đề.

Hộ trì chân lí (PhậtDạy.4) Hộ trì chân lí là thực hành giáo pháp của tôn giáo đó, là những người đang tu tập giáo pháp đó chứ chưa phải là người tu chứng đạo. Khi đã ngộ được chân lí thì sự tu tập là do lòng tin không mù quáng, lòng tin chân thật. Từ lòng tin chân thật mà tu tập, đó là hộ trì chân lí hay nói cách khác là chân lí được hộ trì, chưa chứng đạt chân lí. Người mới có lòng tin thì sự tu tập chỉ ở giai đoạn hộ trì chân lí bằng lòng tin của mình mà thôi, chưa có sâu xa. Hộ trì chân lí có 5 điều cần phải thông hiểu: 1- Tín (lòng tin). 2- Tùy hỉ hợp ý. 3- Tùy văn (nghe thuyết giảng). 4- Cân nhắc suy tư các lý do. 5- Chấp nhận cùng quan điểm. Người hộ trì chân lí và chân lí được họ hộ trì là người mới đặt lòng tin nhưng lòng tin ấy dễ bị mù quáng vì họ chưa giác ngộ được chân lí, họ chỉ chấp nhận một quan điểm và nói: “Ðây là sự chấp nhận quan điểm của tôi”, người ấy hộ trì chân lí. Người đó chưa hiểu biết về chân lí ở mức độ thông suốt như thật, chỉ là người mới hộ trì chân lí. Người mới hộ trì chân lí mà nói người này sai, người kia đúng là người mù mắt mà nói mầu sắc.

Hộ trì Khẩu nghiệp (PhậtDạy.2) có hai phần: 1- Khẩu nghiệp về ăn: Miệng ăn uống không tiết độ, không đúng cách nên khiến cho thân thọ lấy những khổ đau, bệnh tật, nghiện ngập, tu hành không ly dục ly ác pháp được. 2- Khẩu nghiệp về nói: Miệng nói ra phải cẩn thận, nếu không cẩn thận sẽ mang nghiệp vào thân khiến thân tâm phải phiền não khổ đau, hối hận. Tóm lại, hộ trì miệng là điều cần thiết nên Phật dạy phải độc cư sống trầm lặng một mình như con tê ngưu một sừng.

Hộ trì Mắt (PhậtDạy.2) phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi. Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ.

Hộ trì Miệng (PhậtDạy.2) hộ trì miệng như thế nào? Hộ trì miệng có hai phần: 1- Hộ trì miệng về ăn, uống. 2- Hộ trì miệng về nói. Hộ trì miệng về ăn uống thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh. Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác... Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Ðức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y. Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui.

Hộ trì Mũi (PhậtDạy.2) Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có: 1- Mùi thơm 2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Ðối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành). Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp.

Hộ trì Tai (PhậtDạy.2) Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Hộ trì Thân (PhậtDạy.2) Nếu trong cuộc sống tu hành theo Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì phải luôn luôn hộ trì thân hành, không thể nào thiếu sự hộ trì này mà chứng đạo được. Muốn phòng hộ trì thân, phải hộ trì như thế nào? - Hộ trì thân có hai phần: 1- Hộ trì các hành động của thân gồm có: - Không cho thân làm những điều ác. - Ý thức phải điều khiển thân hành. - Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. 2- Hộ trì thân không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân gồm có: Ngừa bệnh hơn trị bệnh, nghĩa là phải ngăn ngừa ruồi, muỗi, sâu độc, rắn, bò cạp, rết, thú dữ, v.v... không cho xâm chiếm vào thân, luôn luôn giữ gìn thân được an lạc bằng vệ sinh, bằng ăn uống tiết độ, bằng nuôi dưỡng thiện pháp, không đem vào thân những ác pháp, phải nuôi thân bằng chánh mạng. Ðẩy lùi các bệnh tật trên thân. Làm chủ bệnh tật là điều hạnh phúc thứ nhất trong cuộc sống thế gian. Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Ðịnh Niệm Hơi Thở. Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ giúp cho thân sung mãn dồi dào sức lực. Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi.

Hộ trì Ý (PhậtDạy.2) - Hộ trì ý căn có ba phần: 1- Sử dụng tri kiến. Khi nào có một niệm khởi trong tâm hay một pháp bên ngoài tác động vào tâm thì phải tư duy suy nghĩ cho tường tận niệm ấy, để đẩy lui khiến cho tâm trở nên thanh thản, an lạc và vô sự. Sử dụng tri kiến tức là tu tập Ðịnh Vô Lậu. 2- Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý. Thường xuyên tác ý để tâm ly dục ly ác pháp; thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ giúp cho ý thức đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân một cách dễ dàng. Ðó là cách thức tu tập tạo thành ý thức lực, nhờ ý thức lực mà chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết... 3- Sử dụng giới luật, vì giới luật là thiện pháp, là đạo đức làm người, làm Thánh. Cho nên lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi. Do đó, chúng ta không bị lầm lạc, lẫn lộn pháp thiện ra pháp ác, pháp ác ra pháp thiện. Biết sử dụng giới luật đúng pháp thì chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” mới có hiệu quả.

Hội Long Hoa (ĐườngVề.5) tức là cuộc cách mạng Phật giáo do các nhà Phật giáo phát triển lãnh đạo, để mở màn cho đức Phật Di Lặc lên nắm quyền Giáo Chủ Phật giáo toàn bộ thì lúc bây giờ kinh sách Nguyên Thủy sẽ bị triệt tiêu (tức là đường lối giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ bị quét sạch). Hội Long Hoa được xem như một cuộc trưng cầu dân ý bầu cử Ðức Giáo Chủ mới cho Phật giáo. Các người bị ảnh hưởng kinh sách Ðại Thừa, do đó tưởng ấm của con người này thể hiện qua “cơ bút” cho biết ngày tận thế và hội Long Hoa sắp mở bày. Hội Long Hoa là một sự bịa đặt của các nhà Phật giáo phát triển, chờ cơ hội thuận tiện nhất để mở một cuộc họp Phật giáo toàn thế giới, nếu tất cả tu sĩ Phật giáo Nam Tông đều rơi vào các pháp thiền tưởng và chịu ảnh hưởng kinh sách phát triển thì cuộc lật đổ Phật giáo Nguyên Thủy đã bắt đầu, nhưng vì Phật giáo Nguyên Thủy còn có những người giữ gìn lời dạy của đức Phật nên Hội Long Hoa chưa triển khai được. Hiện nay các tổ chức Phật giáo thế giới đều công nhận Ðại Thừa Phật giáo là một hệ phái của Phật giáo, đó là một bước thắng lợi lớn của Phật giáo Ðại Thừa. Chờ đến khi các sư Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo pháp phát triển, tu tập sai pháp của Phật, Phật giáo Nam Tông chỉ còn trên danh từ Nguyên Thủy, chỉ còn chờ một thời gian nữa cho chín mùi thì Hội Long Hoa ra đời thành lập một Phật giáo mới, Ðức Giáo Chủ là đức Phật Di Lặc. Ðó là ý đồ sâu sắc thâm độc của Bà La Môn giáo muốn diệt trừ Phật giáo tận gốc, mà hầu hết các tu sĩ Phật giáo hiện giờ Nam Tông lẫn Bắc Tông đều vô tình không thấy.

Hơi thở để nhập các định (TâmThư.1) Phật giáo không có dạy dùng hơi thở để nhập các định. Ðịnh Niệm Hơi Thở chỉ dùng hơi thở để ly tham, sân, si và các ác pháp.

Hơi thở tịnh chỉ (ĐườngVề.1) tức là thân hành tịnh chỉ, thân hành tịnh chỉ tức là nhập Tứ Thiền. Nhập Tứ Thiền cơ thể chưa ngưng hoạt động hoàn toàn, chỉ khi nhập Diệt Thọ Tưởng Ðịnh hay là Diệt Tận Ðịnh thì cơ thể hoàn toàn ngưng hoạt động, chỉ còn lại từ trường của Diệt Tận Ðịnh để bảo vệ thân không bị hoại diệt. Khi tâm chưa xả ly ngũ triền cái và thất kiết sử mà tu tịnh chỉ hơi thở là tự giết mình. Không đoạn dứt ái kiết sử mà muốn tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, là điên đảo tưởng, điên đảo tâm mà tâm điên đảo thì làm sao tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền được. Lời Phật dạy rõ ràng như thế này: “Có ba hành: 1- Khẩu hành (Khẩu hành là tầm tứ). 2- Thân hành (Thân hành là hơi thở). 3- Ý hành (Ý hành là tưởng và thọ). Tịnh chỉ khẩu hành là nhập Nhị Thiền; tịnh chỉ thân hành là nhập Tứ Thiền; tịnh chỉ Ý hành là nhập Diệt Tận Ðịnh”. Thiền định ngưng hơi thở là Thiền định dành cho những bậc giới đức thanh tịnh, tâm hoàn toàn ly dục ly ác pháp, thì mới tịnh chỉ hơi thở. Thiền định ngưng hơi thở là một loại Thiền định dành cho những bậc Thánh, không thể dành cho những phàm phu còn ăn uống phi thời, còn phạm giới, bẻ vụn giới, còn có chùa to tháp lớn, sống trong cảnh giàu sang như cung vàng điện ngọc. Thiền định ngưng hơi thở là một loại Thiền không thể dành cho những người còn ái kiết sử trói buộc, ngồi trong thất tu mà nhớ vợ, nhớ con, nhớ tiền tài vật chất, nhớ xe hơi nhà lầu, v.v... Hơi thở tịnh chỉ không phải khó tu, khó là ở chỗ tâm thanh tịnh, cho nên sự tu tập của đạo Phật là chỗ có giới luật, chỗ có giới luật là chỗ rất khó giữ. Giới luật giúp tâm thanh tịnh tức là giới luật giúp ly dục ly ác pháp, chỗ ly dục ly ác pháp là chỗ giới luật của đức Phật. Cho nên, tịnh chỉ hơi thở là vấn đề phụ, chúng ta đừng nên quan tâm đến nó, mà hãy quan tâm đến tịnh chỉ lòng ham muốn và các ác pháp tức là ly dục ly ác pháp.

Hý luận (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4)(TêNgưu) là lời nói giễu cợt, lời nói bông đùa, lời nói không có lợi ích, lời nói không mang lại kết quả thiết thực cụ thể, như trong kinh Bát Nhã dạy: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Đó là lời nói hý luận: Nói ra được, nhưng không ai làm được như vậy. Hý luận là lời nói mơ hồ, trừu tượng, lời nói uốn trườn như con lươn, lời nói qua, nói lại không cụ thể thực tế, lời nói qua, nói lại không cụ thể thực tế: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Người hay dùng kiến giải lý luận nghĩa này, nghĩa kia, thường dựa vào ý hay lời đẹp của kinh sách đời hoặc đạo, rồi đem ra tranh luận hơn thua, để chứng tỏ mình là người lão thông thiên kinh vạn điển, là người giỏi, người hay. Người như vậy là người thích học hỏi để hý luận, vấn nạn người khác, để tỏ ra mình là người thông suốt kinh Phật và Thiền định. Hý luận là luận nói ra những đề tài vui chơi, hoặc để tranh luận hơn thua chớ không phải để giải thoát. Tri kiến Hý luận thường do tưởng giải nói ra nên nói ra không đúng sự thật. Nên Hý luận chỉ là lời nói ở đầu môi chót lưỡi cho vui, chớ không phải nói ra sự thật của Phật dạy. Ví dụ 1: Như Thiền Tông nói Phật Tánh. Người tu tập kiến Tánh thành Phật, nhưng sự thật có ai kiến tánh thành Phật chưa? Phật Tánh chỉ là Hý luận của Thiền Tông. Ví dụ 2: Kinh sách phát triển dạy: Tánh Không là Phật, lời dạy này không đúng. Bởi vì Phật là trí tuệ sáng suốt chớ không lẽ suốt ngày không khởi niệm. Cho nên Tánh Không chỉ là Hý luận của kinh sách phát triển. Ví dụ 3: Trong Tâm Kinh Bát Nhã dạy: Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong Không niệm thì thành Phật, đó là lời dạy Hý luận. Phật là một con người như chúng ta cũng sống ăn uống như mọi người nhưng ai nói nặng, nói nhẹ hay chửi mắng, nói oan, nói ức đức Phật như thế nào thì đức Phật cũng chẳng hề tức giận một ai cả. Cho nên Phật không phải là Phật Tánh hay là Tánh Không hay là trí tuệ Bát Nhã. Tất cả những danh từ trên đây là Hý luận.

Hỷ (12Duyên) là niềm vui, khi có niềm vui thì phải có tâm HÂN HOAN

Hỷ Giác Chi (ĐườngVề.9)(TrợĐạo) là sự vui trong giải thoát. Ví dụ: Có một người chửi mình mà mình không giận người đó, thấy người tức giận quá khổ, mình không ghét họ mà lại tội nghiệp cho họ, thương họ thì lúc bấy giờ nội tâm chúng ta có một niềm vui thanh thản nhẹ nhàng, niềm vui ấy gọi là Hỷ Giác Chi. Hỷ Giác Chi trên trạng thái Khinh An Giác Chi có một niềm vui hoan hỷ xuất hiện trong trạng thái thân tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ.

Hỷ không liên hệ với vật chất (ĐườngVề.9) là hỷ do ly dục ly ác pháp, là Hỷ Giác Chi, tức là sự vui trong giải thoát.

Hỷ là duyên của Khinh An (12Duyên) Hỷ là niềm vui. Khi có niềm vui thì phải có tâm hân hoan, thân tâm có cảm giác nhẹ nhàng an ổn, rất vui mừng. Sự vui mừng này Đức Phật gọi là Hỷ.

Hỷ lạc do tu hành thiền định có (ĐườngVề.6) không giống như hỷ lạc của dục lạc. Hỷ lạc do thiền định xuất hiện tùy theo ở mỗi loại định, như hỷ lạc của Sơ Thiền do “ly dục” sanh ra, khi tâm không còn ly dục thì hỷ lạc của Sơ Thiền liền mất, (không còn ly dục, tức là tâm phóng dật chạy theo các đối tượng của nó: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Tâm chạy theo dục lạc, tức là tâm xuất Sơ Thiền. Tâm còn ly dục ly ác pháp, tức là tâm còn an trú trong Sơ Thiền.) Hỷ lạc của Nhị Thiền do định sanh, cao hơn hỷ lạc do ly dục sanh ở Sơ Thiền. Khi tâm còn tịnh chỉ tầm tứ, tức là tâm an trú trong Nhị Thiền, tâm an trú Nhị Thiền có hỷ lạc do định sanh. Khi tâm hết hỷ lạc, tức là tâm không tịnh chỉ tầm tứ. Do vậy, muốn giữ gìn hỷ lạc không cho mất, nếu Sơ Thiền thì phải giữ gìn tâm không phóng dật, còn Nhị Thiền thì phải giữ gìn cho tâm tịnh chỉ tầm tứ. Hỷ lạc của Sơ Thiền và Nhị Thiền không có tăng trưởng thêm mà chỉ có một mức độ của nó mà thôi. Tam Thiền thì xả sạch hỷ, Tứ Thiền thì xả lạc, xả khổ và xả luôn cả đối tượng của nó tức là tâm thanh tịnh, nên không có hỷ và lạc của tưởng và thọ nữa, mà là một trạng thái vắng lặng bất động.

Hỷ lạc (TrợĐạo) là hân hoan vui vẻ và an lạc. Khi dẹp bỏ lòng ham muốn thì lại được tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự.

Hỷ lạc do định của Nhị Thiền sinh ra (ĐườngRiêng) gồm có: 1- Hỷ do định sinh. 2- Lạc do định sinh. 3- Nội tỉnh nhất tâm tức là tỉnh giác vào nội thân tâm.

Hỷ lạc do ly dục sanh (ĐườngVề.8) không phải loại hỷ lạc trong 18 loại hỷ tưởng. Hỷ lạc do ly dục, ly ác pháp sanh thì không còn dục, vì thế mà gọi là hỷ lạc do ly dục sanh. Hỷ lạc của ý thức dục, hỷ lạc của tưởng thức dục đều phải xả hết (xả hỷ, xả lạc), duy chỉ có hỷ lạc của ly dục thì không xả vì đó là tâm thanh tịnh của chúng ta (không còn dục), nó là trạng thái Niết Bàn, nên khi nhập sâu vào định thì nó cũng không mất.

Hỷ thọ, lạc thọ (ĐườngVề.10) Hỷ thọ thuộc về tâm; lạc thọ thuộc về thân. Thân ngồi, hay nằm, hay đi, hay đứng đều cảm thấy an lạc, đó gọi là lạc thọ, còn tâm cảm thấy thanh thản, an ổn, vô sự không phóng dật, đó là hỷ thọ. Hỷ lạc là trạng thái thân và tâm thanh thản, an lạc, vô sự, lúc nào tâm cũng không phóng dật, đó chính là trạng thái của tâm thanh tịnh đang hiện tiền trong cuộc sống không lúc nào mất thì người đó đang nhập Bất Động Tâm.

Hỷ tưởng (ĐườngVề.8) là do dục tưởng, 18 loại hỷ tưởng này sanh ra được là do sự tu tập theo giáo pháp phát triển nên ức chế tâm, ý thức dục bị ngưng hoạt động, ý thức dục không hoạt động được nên tưởng thức dục sanh hỷ lạc. Trạng thái an lạc mà còn dục tưởng thì không có giải thoát được. Hỷ lạc của ý thức dục, hỷ lạc của tưởng thức dục đều phải xả hết (xả hỷ, xả lạc), duy chỉ có hỷ lạc của ly dục thì không xả, vì đó là tâm thanh tịnh của chúng ta (không còn dục), nó là trạng thái Niết Bàn, nên khi nhập sâu vào định thì nó cũng không mất. Vì thế, hỷ lạc của Sơ Thiền là loại hỷ lạc của người giải thoát dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, ba lậu hoặc này không còn tác dụng được tâm của người nhập Sơ Thiền, còn Nhị Thiền do ức chế ý thức làm cho ý thức ngưng hoạt động, tưởng thức thay thế hoạt động nên sanh ra hỷ lạc, cũng giống như khi ngủ mới có chiêm bao.

Hỷ vô lượng dục lạc (4Tâm) là cái vui ngắn ngủi, mê muội của người phàm phu, chạy theo trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Hỷ vô lượng dục lạc có sức cám dỗ con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Đây là hỷ vô minh, còn gọi là hỷ ảo giác (chạy theo ăn ngon, mặc đẹp, v.v...). Vui theo dục lạc là vui theo với ác nghiệp.

Hỷ vô lượng tâm (4Tâm) là vui, vui vẻ với mọi người (người thương, kẻ oán). Nói cho đủ là tùy hỷ. Vô lượng là tràn đầy, phủ trùm. Hỷ tâm có hai loại: 1/ Hỷ vô lượng dục lạc (vui theo ngũ dục lạc) Đây là cái vui ngắn ngủi, mê muội của người phàm phu, chạy theo trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Nó có sức cám dỗ con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Cái vui này, ở xa như hạt kim cương, khi đến gần chỉ là hạt nước mắt. Đó là hỷ vô lượng dục lạc. Tâm con người là một cái túi không đáy, chạy theo dục lạc để tận hưởng, và không bao giờ biết ngừng, như con thiêu thân lao vào ánh đèn. Thế nên con người cứ phải quanh đi lộn lại sanh tử muôn đời, muôn kiếp, không bao giờ dứt khổ. Khi có nhà lá thì mong có căn nhà ngói. Lúc có nhà ngói thì mơ được căn nhà lầu. Hoặc là kẻ đang đi xe đạp thì ước ao được đi xe Honda. Khi có xe Honda thì lại muốn có xe hơi như người ta. Đây là hỷ vô minh, còn gọi là hỷ ảo giác (chạy theo ăn ngon, mặc đẹp, v.v...). Vui theo dục lạc là vui theo với ác nghiệp. Hỷ dục lạc thế gian là hỷ ác, tạo cảnh địa ngục trần gian. Chẳng cần phải đợi mai sau, cái hỷ này tạo cho ta địa ngục ngay tại trần thế. Cái hỷ đau khổ của biển đời trầm luân nầy chỉ có người trí mới thoát được, còn người vô minh, mê muội khó mà thoát khỏi. Chúng ta tu tập pháp Phật Giới, Định, Tuệ, thì phải có trí tuệ siêu việt mới mong tu tập được pháp này; nếu không thì ta vẫn còn nằm trong vòng tay của các loại hỷ nầy. Bấy lâu nay chúng ta chỉ nghe Hỷ Vô Lượng Tâm, tức là thiện pháp. Nếu tốt thì mới là nẻo của Đạo Phật, nẻo của thiện pháp, của sự giải thoát, an lạc. Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng thì ta phải nhắc tâm ta bằng như lý tác ý: “Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau; vậy ta phải lánh xa cái hỷ này” Thỉnh thoảng ta lại nhắc tâm như thế này để xa lìa, yểm ly ngũ dục lạc: "Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau. Ta hãy lánh xa các loại hỷ này.”; "Hỷ của ngũ dục lạc là ảo giác, là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người. Ta hãy lánh xa các loại hỷ này.” Câu này ta cũng phải thường xuyên nhắc đi nhắc lại để đoạn dứt lòng ưa thích thế gian. Tùy theo đặc tánh của mỗi người mà ta tùy nghi thêm vào câu pháp hướng để có đủ sức mạnh và giúp ta thoát khỏi những cám dỗ của vật chất. "Vui theo ác pháp là hỷ tâm vô lượng ác, làm đau khổ chúng sanh, là giết hại chúng sanh. Ta hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ bỏ hỷ này.”

Hỷ vô lượng tâm giải thoát (4Tâm) là vui với việc làm từ thiện của người khác. Khi có người bố thí, cúng dường, hoặc xây nhà thương, trường học thì ta liền tán thán, vui theo, và tận tâm giúp đỡ với lòng hân hoan, sung sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của thì ta nên đóng góp, giúp đỡ người. Nếu không có tiền của thì ta hãy bỏ công sức ra phụ giúp công tác từ thiện ấy. Vì tâm bi vô lượng, thấy quá nhiều khổ đau trong xã hội nên ta không thể ngồi yên mà tư duy suông. Ta phải làm một cái gì đó để góp phần ban vui, cứu khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người được no ấm, thoát khỏi bệnh tật, khổ đau. Bệnh viện, thuốc thang chỉ xoa dịu sắc thân của họ. An ủi, cảm thông, khuyên nhủ là xoa dịu thương đau của tinh thần. Còn gì sung sướng cho bằng khi con người thấy rõ đường đi lối về của nhân quả! Biết được nhân quả thì loài người không làm điều ác. Loài người không làm điều ác thì trần gian này là cõi Niết Bàn, là Thiên Đàng và không còn có người bất hạnh trong xã hội.


 

VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.

***