
Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần I, U, Ư, K)
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
I
Im lặng biết im lặng (PhậtDạy.4) nghĩa là phải tỉnh thức hoàn toàn lúc nào cần im lặng thì im lặng và lúc nào cần nói thì nói, đáng nói thì nói, không đáng nói thì im lặng. Ðó là sự tỉnh thức trong sự im lặng. “Nói năng hay im lặng đều phải nhiếp tâm không cho tán loạn”, đều phải trong chánh niệm.
Im lặng như Thánh (Phậtdạy.3)(PhậtDạy.4) khi khép mình vào khuôn khổ tu hành thì không nên hội họp nói chuyện để tâm không phóng dật. Im lặng như Thánh là để lắng nghe bốn chỗ thân, thọ, tâm và các pháp đang thanh thản, an lạc và vô sự hay đang bị chướng ngại. Nếu thân, thọ, tâm và các pháp đang bị chướng ngại pháp thì phải sử dụng ngay liền Chánh Niệm Tỉnh Giác hay Ðịnh Niệm Hơi Thở để nhiếp phục tức là đẩy lui chúng ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp để đem lại sự bình an cho nó. Im lặng như Thánh chính là đang tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, người đang tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì đâu còn thời gian rảnh rỗi mà đi nói chuyện, mà thích hội họp.
U
Uẩn (LinhHồn) Trong cơ thể con người có năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn), mỗi uẩn phải làm việc theo nhiệm vụ của nó. Trong một con người bình thường thì có ba uẩn làm việc gồm: Sắc uẩn, Hành uẩn, Thọ uẩn. Khi Sắc Uẩn hoạt động thì con người sống bình thường không có cái gì là mầu nhiệm cả, chỉ khi nào Tưởng Uẩn hoạt động thì tri thức con người không giải thích được nên gọi nó là Mầu Nhiệm. Thường Tưởng Uẩn hoạt động theo sáu căn của con người, có khi đồng thời nó hoạt động cả hai căn, có khi nó chỉ hoạt động theo một căn. Khi có Tưởng Uẩn hoạt động với ba uẩn kia thì con người có nhiều điều mầu nhiệm mà trí thức con người không thể giải thích được, dù khoa học hiện đại cũng không làm sáng tỏ. Khi nó hoạt động vào đôi bàn tay (Sắc uẩn) thì nó sờ vào thân chỗ nào có bệnh là bệnh giảm bớt và lành hẳn. Sự mầu nhiệm này thật sự thì không mầu nhiệm chút nào cả, nếu chúng ta biết rằng Tưởng Uẩn trong thân chúng ta làm ra những sự mầu nhiệm này. Cho nên khi biết sự hoạt động của Tưởng Uẩn thì cuộc sống quanh chúng ta đâu còn cho là Bí Ẩn Kỳ Lạ, đâu còn cho là Tâm Linh.
Uế nhiễm Dục (PhậtDạy.1) Khi bị Uế nhiễm Dục phải bỏ tất cả dục; dục hết là tâm bất động; dục hết là hết khổ, là tâm an vui. Muốn bỏ dục không nhiễm uế, hay tự rửa sạch mọi cấu uế nội tâm thì cần phải tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, tức là hằng ngày phải ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly bất thiện pháp. Ðó là những phương pháp rửa sạch mọi cấu uế ở nội tâm. Ðiều cần nên lưu ý: là khi tu tập không ức chế tâm, mà phải xả tâm. Không xả tâm thì dục không bao giờ hết.
Uế trược (ĐườngVề.6) là những danh, lợi trong cuộc đời, đời sống chưa ba y một bát, chưa thiểu dục tri túc, chưa lấy gốc cây làm giường nằm, chưa cắt bỏ ái kiết sử… Chưa bỏ danh lợi là chưa ba y một bát; chưa ba y một bát là chưa thiểu dục tri túc; chưa thiểu dục tri túc là tâm hồn chưa trắng bạch như vỏ ốc, tâm hồn chưa phóng khoáng như hư không.
Uy quyền (PhậtDạy.1) là quyền thế của vua, của quan, của những người có thế lực đông người.
Ư
Ức chế tâm (ĐườngVề.3)(ĐườngVề.4)(CầnBiết.2) là nén tâm, chịu đựng, ép buộc hay bắt buộc làm cho tâm không khởi niệm (vọng tưởng), v.v… Pháp ức chế tâm gồm có: Niệm Phật A Di Ðà, niệm thần chú, biết vọng liền buông, Chẳng niệm thiện niệm ác, chăn trâu, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Lục Diệu Pháp Môn, Thiền Minh Sát Tuệ, tham thoại đầu, tham công án, v.v... Toàn bộ kinh sách phát triển đều dạy ức chế tâm, nên chẳng cần tư duy theo niệm, chỉ cố ức chế tâm vượt qua những lúc tâm giận hờn phiền não mà thôi. Khi ức chế tâm thấy tâm sân không còn, tưởng là xả tâm vì vậy tâm sân không bao giờ hết. Ức chế tâm có hai cách: 1- Chịu đựng mọi sự giận hờn, căm tức, phiền não, sợ hãi, lo rầu, v.v.. mà không bao giờ nói ra cho một ai biết. Sự chịu đựng này gọi là kham nhẫn. Ví dụ: Trong gia đình có người chồng độc tài luôn luôn bắt vợ con phải tuân theo lệnh của mình, sai bảo đâu làm đó, không được làm trái. Những người bị bắt buộc như vậy gọi là chịu đựng, những người chịu đựng là những người ức chế tâm. Sức chịu đựng sẽ đến một mức độ nào đó thì không còn chịu đựng nổi. Khi không còn chịu đựng nổi thì thần kinh hưng phấn, thần kinh hưng phấn thì người ấy bị rối loạn thần kinh, bị điên khùng, bị tẩu hỏa nhập ma, v.v... Suốt thời gian chịu đựng thì người ấy là người khổ đau tận cùng của cuộc đời mình. 2- Người dùng một đối tượng, một pháp môn để ức chế tâm không khởi niệm vọng tưởng, đó là loại ức chế có pháp môn, có phương cách. Loại ức chế tâm này có đường lối, có phương pháp để dẫn tâm vào thế giới tưởng như: Thiền xuất hồn, Thiền Yoga, Thiền Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ, Thiền Lục Diệu Pháp Môn, Mật Tông, Tịnh Ðộ Tông, v.v…
Ức niệm diệt trách (GiớiĐức.2) là đừng nhớ lại những lỗi lầm của người khác, hãy bỏ qua, không nhớ lại, không bươi móc nhắc lại chuyện cũ, không bươi móc chuyện xấu của người khác.
Ức niệm tỳ ni (GiớiĐức.2) là pháp này không cử tội, cũng không được khiến vị tỳ kheo đó nhớ lại tội mình, vì sự tranh chấp đã được chấm dứt theo pháp phân giải, sau này nếu ai moi móc ra sẽ phạm tội đọa.
Ứng Cúng (CầnBiết.3) là bậc đã xa lìa mọi điều ác, xứng đáng được hưởng thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn. Ứng Cúng là đức hạnh xa lìa những điều ác xứng đáng là nơi phước báu vô lượng để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Đức Thánh Phước Điền”.
Ứng Cúng (PhậtDạy.1) là bậc đã xa lìa mọi điều ác, xứng đáng được hưởng thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn. Ứng Cúng là đức hạnh xa lìa những điều ác xứng đáng là nơi phước báu vô lượng để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Ðức Thánh Phước Ðiền”.
Ứng Lí Hạnh (PhậtDạy.1) hành động sống hằng ngày tương ứng đúng lý với hành động của Phật, của Pháp, của chúng Thánh Tăng và của Giới Luật, đó là những hành động sống Tứ Bất Hoại Tịnh.
Ưu (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là sự phiền não, đau khổ tự khởi lên tức là các bất thiện pháp, nó là những ác pháp làm cho thân tâm bất an, như thân đau nhức, mỏi mệt, nóng rát, tâm lo lắng, sợ hãi, buồn rầu và thương nhớ v.v…
Ưu bi, sầu khổ bệnh chết (ĐườngVề.1)(CầnBiết.3) (trong 12 duyên) là duyên cuối cùng của Mười Hai Duyên này, hợp lại thành thế giới khổ đau của kiếp người quẩn quanh luân hồi mà người đời không rõ thấu.
Ước mong nằm mộng thấy thành tựu điều ao ước (Đường Về.7) (như trúng vé số, như giao cảm nằm mộng thấy sự việc hoặc tai nạn xảy đến đúng như thật). Ðó là tưởng giao cảm, biến thành mộng báo trước (trực giác qua mộng), trực giác qua thân (máy mắt, hồi hộp tim đập), trực giác qua tâm (tâm lo lắng nghĩ ngợi, bứt rứt). Nói về mộng, thì hãy biết đó là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh theo tâm lý, tình cảm của con người rồi nó tự hiện, chủ kháchđều là nó cả. Trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức; còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục; còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng; còn gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ; còn gọi về tri kiến thì nó gọi là tưởng kiến; còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng tri; còn gọi về năng lực thì nó là tưởng lực. Cho nên, tưởng uẩn nó có rất nhiều tên khác nhau, khi nó ở phận sự nào thì nó có một cái tên rất xứng hợp. Vì thế, sự hoạt động của nó cũng không lường. Tóm lại, linh hồn không có, chỉ có tưởng thức biến hiện ra, khiến cho mọi người chưa có trí vô hạn lầm chấp “có sự sống sau khi chết”.
Ước muốn (PhậtDạy.4) là ước muốn chân chánh thoát ra khỏi mọi sự khổ đau, ra khỏi nhà sanh tử, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người; ước muốn tinh cần buông xả, xả bỏ của cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ con, anh em, chị em, cha mẹ và tất cả những người thân quyến thuộc, v.v... chỉ còn lại một đời sống không nhà cửa, không gia đình, ngày đi xin ăn với ba y, một bát. Ước muốn ra khỏi nhà sanh tử, nên phải chịu khó ôm pháp tu hành với tâm thích thú hoan hỉ. Trong ước muốn nếu không có lòng hoan hỉ chấp nhận pháp thì làm sao có ước muốn được.
Kh
Kham nhẫn (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Kham là chịu đựng; nhẫn là nhịn nhục. Kham nhẫn có nghĩa là nhịn nhục chịu đựng bất cứ một ác pháp nào xảy đến. Kham nhẫn có nhiều đối tượng như: thời tiết nóng lạnh, đói khát, ruồi muỗi, mạ lỵ, phỉ báng; các cảm thọ đau đớn, nhức nhối, sung sướng, thích thú, sợ hãi lo lắng, phiền não, giận hờn, v.v… Muốn đạt được tâm kham nhẫn mùi thối, chúng ta phải dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Tâm phải bất động, mùi hôi thối là hương trần. Hương trần là pháp vô thường lúc có, lúc không ta chẳng hề sợ hãi. Hương trần hãy đi! Ði!!! Ta không hề sợ hãi ngươi”. Hoặc chúng ta tác ý câu khác “Tâm phải thanh thản an lạc trước mùi hôi thối, tránh né là hèn yếu” ...
Khắc phục tham ưu (PhậtDạy.2) có nghĩa là làm cho sự ưu phiền trên thân thọ, tâm và pháp không còn đau khổ, phiền não nữa. Do đẩy lui tất cả những sự đau khổ và phiền não trên thân tâm của chúng ta, nên gọi là làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Khẩu ác hạnh (PhậtDạy.1)(CầnBiết.4) là lời nói ác, lời nói hung dữ; khẩu ác hạnh còn có nghĩa là ăn, uống, hút, chích vào thân những thực phẩm độc ác như tiết canh, óc khỉ, rượu, thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, xì ke, ma túy, v.v... Khẩu ác hạnh có hai phần: - Phần I: “Khẩu ác hạnh về lời nói”, có tám: 1. Lời nói dối, 2. Lời nói hung dữ, 3. Lời nói xấu người, 4. Lời nói vu khống người, 5. Lời nói thêm bớt, lời nói thêu dệt, 6. Lời nói lật lọng, 7. Lời nói mỉa mai, 8. Lời nói móc họng. Phần II: “Khẩu ác hạnh về ăn, uống, hút, chích”, có bốn: 1- Ăn thịt chúng sanh, 2- Ăn những chất độc vào thân, 3- Uống rượu, uống máu tươi, 4- Hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện.
Khẩu ác hạnh về ăn uống (PhậtDạy.1) có bốn: 1- Ăn thịt chúng sanh, 2- Ăn những chất độc vào thân, 3- Uống rượu, uống máu tươi, 4- Hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện.
Khẩu ác hạnh về lời nói (PhậtDạy.1) có tám: 1. Lời nói dối, 2. Lời nói hung dữ, 3. Lời nói xấu người, 4. Lời nói vu khống người, 5. Lời nói thêm bớt, lời nói thêu dệt, 6. Lời nói lật lọng, 7. Lời nói mỉa mai, 8. Lời nói móc họng.
Khẩu đầu thiền (CầnBiết.1) là loại thiền miệng, loại thiền chẳng làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi được
Khẩu hành (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4) là những hành động nơi miệng, sự hoạt động của miệng. Sự hoạt động của miệng có hai phần: Ăn và Nói. Miệng nói ra những điều thiện; thường nói ra những lời nói ôn tồn, êm ái và nhẹ nhàng, không nói lời hung dữ, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói xấu người khác, không nói lật lọng, v.v... Miệng phải ăn uống điều độ, không nên ăn uống phi thời; miệng không nên uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, v.v… vì những chất ấy sẽ làm khổ các bạn. Khi nhập Nhị Thiền thì miệng không còn ăn và nói chuyện. Nếu còn ăn và nói chuyện là không nhập Nhị Thiền. Cho nên: “Tầm, tứ là khẩu hành” là để chúng ta biết rõ khi nhập Nhị Thiền là không nói chuyện, không ăn uống được, có nghĩa là miệng không còn hoạt động. Do từ chỗ Tầm tứ diệt là khẩu hành diệt ta suy ra và biết ngay tầm tứ diệt là sáu thức diệt, có nghĩa là khi nhập Nhị Thiền thì người nhập định không phải giống như cây đá vô tri, vô giác, không phải giống như thây ma người chết. Tịnh chỉ khẩu hành nói thì dễ mà tu tập thì không phải dễ. Tịnh chỉ khẩu hành là cả một quá trình tu tập của Phật giáo, đòi hỏi người tu sĩ phải sống đúng giới luật không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. không phải nói ly dục là tâm ta ly dục được liền.
Khẩu hành nghiệp (Truyền Thống.1) là miệng nói một việc gì,
Khẩu hành thanh tịnh (Phậtdạy.3) là hằng ngày mỗi khi nói ra điều gì, đều phải tránh nói ra lời ác, luôn nói lời thiện, tức là nói ra lời nói không làm khổ mình, khổ người. Về phần ăn uống cũng phải đúng cách, có điều độ, không được ăn uống phi thời, tránh xa tất cả các loại rượu, thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, v.v...
Khẩu hành thiện (ĐườngVề.2) là miệng không nói dối, luôn luôn phải nói lời chân thật, là miệng không được nói lời thêu dệt, chuyện xấu nói tốt, chuyện tốt nói xấu, chuyện sai nói đúng, chuyện đúng nói sai, lúc nào cũng phải tránh nói chuyện phiếm, chuyện tào lao, chuyện vô ích; là miệng không nói lật lọng, không nói ngược ngạo, không vu oan giá họa cho kẻ khác; là miệng không nói lời hung dữ, không chửi thề, không la mắng to tiếng, nạt nộ, hù dọa, v.v…. Thấy, nghe sao thì nói vậy không được nói sai sự thật.
Khẩu hòa vô tranh (ThanhQui) là không tranh cãi với bất cứ một người nào cả, luôn luôn nói lời êm dịu, ôn hòa nhã nhặn, v.v... Muốn khẩu hòa vô tranh thì phải sống độc cư để xem xét lại từng tâm niệm của mình, nhờ đó không bao giờ tranh cãi với ai cả. Lời nói hòa hợp sẽ đem lại sự thanh bình cho nhau, cho các nước và cho cả thế giới.
Khẩu nghiệp Chánh Mạng (TâmThư.2) do miệng hành động nhai, nuốt, cắn, xé. Khẩu nghiệp về ăn được xem là thân hành thuộc về Chánh Mạng. Chúng ta dùng tay hoặc dao giết một con vật chết cũng giống như một con thú dữ dùng miệng cắn xé giết một con vật chết vậy. Hai hành động miệng và tay đều giống nhau.
Khẩu nghiệp Chánh Ngữ (TâmThư.2) Khẩu nghiệp là do miệng nói ra lời, phát ra âm thinh. Khẩu nghiệp Chánh Ngữ thuộc về khẩu hành. Trong kinh Hành Thập Thiện nói về khẩu nghiệp có 4 nghiệp ác về lời nói, chứ không nói khẩu nghiệp ác về ăn.
Khẩu nghiệp không thanh tịnh (PhậtDạy.2) - Khẩu có bốn nghiệp không thanh tịnh: 1. Nói lời hung ác. 2. Nói không thật, nói dối nói xảo trá. 3. Nói đâm thọc, nói xấu người, nói vu khống người. 4. Nói lưỡi hai chiều, nói lật lọng.
Khẩu nghiệp về ăn (TâmThư.2) được xem là thân hành thuộc về Chánh Mạng. Khẩu nghiệp về Chánh Mạng thuộc về thân hành.
Khẩu Thiện Hành (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4)(CầnBiết.4) là tất cả những hành động của miệng không làm khổ mình, không khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Người thường chế ngự ăn uống tức là chế ngự tâm dục của mình. Chế ngự tâm dục của mình, đó là làm chủ tâm mình. Thường tu tập làm chủ tâm mình như vậy là thực hiện Khẩu Thiện Hành.
Kem (Đường Về.7) tức là cái miệng của bệnh nhân lúc còn trẻ vì hoàn cảnh gia đình nghèo túng, không có tiền mua thức ăn đầy đủ nên thường nói dối là đã ăn rồi, ngày nay lúc sắp chết phải cúng kem là vậy.
Khéo tích tập (Phậtdạy.3) khéo tích tụ, gom lại, tập họp lại, làm cho nhiều, luôn luôn phải tác ý, càng tác ý nhiều là tích tập nhiều.
Khéo tinh cần thực hành (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4) Khéo tinh cần thực hành có nghĩa là từ lúc bắt đầu tu tập pháp Thân Hành Niệm là phải khéo siêng năng cần mẫn tu tập không được gián đoạn, bỏ qua một giờ, một phút, một giây nào cả. Phải cố gắng tinh cần tập luyện thì mới thấy được những kết quả của pháp môn nầy.
Kết quả tu Pháp môn hướng tâm như lý tác ý (ĐườngVề.3) Có hai nguyên nhân khiến cho khi có người tu có kết quả tốt, lại có người tu không kết quả, đó là: 1- Người nghe pháp môn như lý tác ý mà có lòng tin rất sâu, tin không gì lay chuyển được lòng họ, trường hợp này là vì đời trước họ có tu pháp như lý tác ý rồi nên đã có một thời gian huân nó, bây giờ tu tập trở lại, và vì vậy mà nó có hiệu quả ngay tức thời. 2- Người nghe pháp môn như lý tác ý, cũng tin mà tin chưa sâu, cũng tập tu, nhưng tập tu lấy lệ, tu tập không có bền chí, không có cố gắng, không có ráng sức, không có quyết chí, không có gan dạ liều sống chết với pháp môn này nên không có hiệu quả. Vả lại kiếp trước không có huân tu, chỉ có hiện tại trong kiếp này mà thôi.
Kết tập kinh luật (ĐườngVề.1) lần đầu tiên, để lấy đó làm giềng mối cho đạo Phật ở ngày mai. Sau khi trà tỳ đức Phật xong, các vị đại đệ tử của đức Phật, nhất là ông Ca Diếp đã trực tiếp nghe một số chúng Tỳ kheo vui mừng khi hay tin đức Phật nhập diệt.
Kiến (Phậtdạy.3) nghĩa là ý kiến của mình, sự hiểu biết của mình, sự vay mượn tích lũy những tư tưởng tà kiến của người khác, của kinh sách ngoại đạo, của triết học, của khoa học, y học, v.v...
Kiến bộc lưu (Phậtdạy.3)(CầnBiết.3) là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp.
Kiến giải (ĐườngVề.4) là người tu thiền theo ngoại đạo, tu tập thiền định ức chế tâm “dừng vọng tưởng”. Khi vọng tưởng dừng, hành giả rơi vào định tưởng (Không Vô Biên Xứ Tưởng), từ đó triển khai tưởng tuệ. Hành giả tu đến đây có những “tiểu ngộ” hoặc “đại ngộ” về những công án và các kinh sách phát triển. Trên lộ trình này, hành giả tiếp tục đi sâu vào trạng thái tĩnh lặng, vượt qua không vô biên xứ, nhập vào trạng thái thức vô biên xứ, hành giả “triệt ngộ” (ngộ tất cả các công án và kinh sách phát triển). Các loại thiền định này, không phải là thiền định xả tâm của đạo Phật (ly dục ly ác pháp) nên hành giả đắm chìm trong các pháp thế gian, tâm còn say mê ăn, uống, ngủ, nghỉ phi thời, v.v... và còn ham thích chùa to, tháp lớn, danh tiếng vang lừng. Vì tâm dục và ác pháp không trừ, nên hành giả không thể nhập vào Chánh định vì đã rơi vào kiến giải, tưởng mình như đã tu chứng, do đó bản ngã to lớn ra, cũng từ đó đường tu chấm dứt, chỉ còn biết lợi dụng kiến giải này, để buôn Phật, bán Pháp, làm cho cuộc sống danh lợi càng ngày càng phát triển to lớn như một lãnh chúa. Kiến giải là một tai hại rất lớn cho người tu sĩ chân chánh, họ tưởng là thông suốt giáo lý kinh sách, thiền ngữ, nào ngờ sự thông suốt ấy lại là một tai họa hiểm nghèo cho kiếp đời tu sĩ, đi đến bước đường cùng của sự tu tập, ngoài danh lợi họ không còn thấy gì khác hơn với một số ngôn ngữ bã mía của người xưa, họ chỉ biết cắm đầu vào những kiến giải đó mà thôi. Kiến giải không phải là trí tuệ hiểu biết chân thật mà là tưởng tuệ, phát triển theo chỗ ức chế tâm của thiền định tưởng. Người tu theo đạo Phật phải cảnh giác, phải nghiên cứu kỹ các loại thiền định: loại thiền định nào ức chế tâm là loại thiền định rơi vào kiến giải, chỉ có thiền định của đạo Phật là Bốn Thánh Ðịnh, là loại thiền định xả tâm. Vì thế, thiền định này không rơi vào kiến giải và đưa hành giả đến nơi giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Người tu sĩ cần phải lưu ý: Khi tâm thanh tịnh, tức là vọng tưởng vắng bóng trong lúc tọa thiền, thường phát khởi niệm kiến giải, cảm thấy như mình thông suốt nghĩa lý kinh sách và công án, thì coi chừng bị ma pháp tưởng. Ðây không phải là trí tuệ mà chính là ma tưởng.
Kiến hòa đồng giải (ThanhQui) là có những ý kiến hay kiến giải nào trong sự tu tập có kết quả tốt, hay thì nên đem ra cùng nhau học tập.
Kiến thủ (Phậtdạy.3)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4) Kiến nghĩa là ý kiến của mình, sự hiểu biết của mình, sự vay mượn tích lũy những tư tưởng tà kiến của người khác, của kinh sách ngoại đạo, của triết học, của khoa học, y học, v.v…Thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ “kiến thủ” có nghĩa là bảo thủ cố chấp vào ý kiến hiểu biết của mình hoặc vay mượn của người khác, dù những ý kiến đó sai, mọi người ai nói gì, khuyên gì cũng không chịu buông bỏ những kiến chấp tà tư tưởng, tà pháp ấy, v.v... Kiến thủ là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình, có ba trường hợp: 1- Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác: Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng, như tư tưởng chơn không, Phật tánh, v.v... Cũng nhưthấy những hiện tượng nhập đồng, nhập cốt do cô, cậu hoặc linh hồn người chết oan nhập vào, nói đâu trúng đó, rồicho đó có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình, rồi chấp chặt, ai nói gì cũng không tin. Do sự chấp chặt này, họ phải chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời sống. 2- Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình: Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay, là giỏi, ai nói gì cũng chẳng nghe. 3- Kiến thủ vì tự ái, hay vì ngoan cố cứng đầu: Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không chịu từ bỏ, xa lìa. Biết rằng kiến thủ là những điều sinh ra ngu muội, khiến cho ta phải chịu muôn ngàn thứ khổ đau. Thế mà ít người bỏ được những kiến thủ đó!
Kinh Ðịa Tạng Vương (Đường Về.7)(CầnBiết.1) là một loại kinh mê tín của Ðại thừa giáo, của giáo pháp Bà La Môn, do các Tổ biên soạn ra, dựa theo sự mê tín của những người dân còn lạc hậu, tin rằng người chết có linhhồn, nên kinh này đặt ra Bồ Tát Ðịa Tạng xuống Ðịa Ngục giải cứu những linh hồn tội lỗi. Họ bảo rằng nếu ai tụng kinh này và cúng bái, tế lễ sẽ được ngài Ðịa Tạng cứu khổ thoát khỏi vòng lao lý ở Ðịa Ngục. Khi người mới chết linh hồn được quỷ sứ bắt về hành tội, do lúc ông bà ở trên dương thế làm điều ác đức, nên chết xuống Ðịa Ngục bị hành xử đủ mọi cực hình. Nên khi trong nhà có người chết phải đến nhờ quý thầy Ðại thừa đến tụng kinh cầu siêu, mà thường là đem kinh Ðịa Tạng Vương ra tụng để cầu ngài cứu họ thoát cảnh Ðịa Ngục. Mỗi thất đều có cúng dâng lên hương hoa, trà quả cùng những thực phẩm bánh trái, cơm canh cúng chư Phật, và cầu ngài Ðịa Tạng xuống Ðịa Ngục giải cứu. Suốt trong 49 ngày được cúng bái như vậy thì vong linh người chết sẽ khỏi tội và được đi tái sanh. Tức là trong 49 ngày những người thân còn sống rước Thầy tụng kinh và mua lễ vật cúng bái... như kinh sách Ðại thừa dạy.
Kinh nghiệm tu hành (Tạoduyên) kinh nghiệm tu hành của Trưởng Lão Thích Thông Lac, Ngài chỉ rõ ràng từ giác ngộ chân lý đến phần sống buông xả ly dục ly ác pháp để giữ gìn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, rồi đến các pháp hành tu tập, pháp nào tu trước và pháp nào tu sau.
Kinh sách chính của đạo Phật (PhậtDạy.4)(ĐườngRiêng)(12Duyên) 1. Bốn bộ kinh A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng nhất A Hàm). 2. Năm bộ kinh Nikaya (Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, Tiểu bộ kinh). Tuy rằng, bốn bộ kinh A Hàm và năm bộ kinh Nikaya là kinh gốc của đạo Phật, nhưng trong ấy các Tổ đã có sự thêm bớt rất nhiều, nhất là kinh A Hàm, các Tổ đã dịch làm lệch ý của Phật và còn soạn viết những bài kinh làm gạch nối giữa Tiểu Thừa và Ðại Thừa.
Kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông (PhậtDạy.4)(ĐườngRiêng)(12Duyên) những loại kinh sách giả hiệu Phật giáo, không phải là Phật thuyết mà do kiến giải của các tổ viết ra, được kết tập bởi những người tu hành chưa chứng đạo, một tạng kinh xô bồ không biết bài kinh nào tu trước, bài kinh nào tu sau, mang tính trừu tượng, mơ hồ, mê tín, ảo tưởng, không thực tế, được truyền thừa từ nước này sang nước khác, trong một thời gian khá dài trên 2000 năm, hoàn toàn mâu thuẫn với tinh thần giáo pháp của Phật, thường để dìm kinh sách Nguyên Thủy Phật giáo. Kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông là kinh sách Phật giáo mà tư tưởng của người Trung Quốc. Những kinh sách này không giúp đạt được cứu cánh niết bàn. Nó toàn là những kinh sách tư tưởng Khổng Giáo và Lão Giáo của người Trung Quốc do kiến tưởng giải của các Tổ Trung Quốc viết ra. Kinh sách phát triển do người sau biên soạn rồi gán danh Phật thuyết để dễ lừa đảo những người khác.
Kinh sách kiến giải (ĐườngVề.4) là do người tu thiền theo ngoại đạo, tu tập thiền định ức chế tâm “dừng vọng tưởng” viết. Những kinh sách kiến giải này được phổ biến sâu rộng, trong mọi từng lớp con người ở xã hội, khiến cho mọi người đều sống trong tưởng tuệ, sống trong một thế giới mơ hồ, trừu tượng, ảo ảnh Phật tánh, Thượng Ðế, Thần linh, v.v… Những kiến giải này đã dẫn dắt bao nhiêu thế hệ con người đi vào thế giới siêu hình, đến chỗ mê tín, cuồng tín, lạc hậu. Từ đó ông lên, bà xuống, bói khoa, bùa chú, trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, cúng bái, cầu khẩn, tế tự, xin xăm, bói quẻ, xem ngày tốt xấu, ngồi thiền nhập định tưởng, v.v... Những kinh sách kiến giải này đã đưa những người tu sĩ Phật giáo đi đến chỗ “Ðời chẳng ra Ðời, Ðạo chẳng ra Ðạo”, giới luật chẳng nghiêm túc, đạo hạnh chẳng có gì, oai nghi tế hạnh thì thô tháo, ăn, nói, cười cợt không đúng cách. Hạng tu sĩ chưa chứng này đâu biết rằng kinh sách kiến giải của họ soạn viết ra giết biết bao nhiêu thế hệ con người đã qua.
Kinh sách phát triển Ðại ThừaPhật giáo (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.1)(Tạoduyên) kinh sách được biên soạn sau khi Phật Sakya Gotama tịch diệt, cũng gọi là kinh sách Đại thừa, là một loại kinh sách tưởng do các Thầy Tổ tu hành chưa tới đâu, hiểu chữ nghĩa sai lạc biên soạn, làm sai lạc ý nghĩa của Phật giáo; một loại kinh không phải Phật thuyết, đọc vào chỉ toàn là luận lý thuyết suông, thực hành thì vay mượn những pháp môn của ngoại đạo. Kinh sách phát triển Ðại Thừa quá nhiều, nhưng chẳng biết tìm đâu ra một cuốn kinh nào để tu đến nơi đến chốn. Chính những người đã viết ra những bộ kinh sách đang bày bán, sống chạy theo dục lạc thế gian như những người khác, vì thế biết rõ họ chưa giải thoát, họ tu cũng chẳng đến đâu.
Kinh tạng truyền tụng (PhậtDạy.1) là những lời dạy của các bậc Thánh và chư Phật được ghi chép lại thành sách. Kinh tạng ở đây gồm có cả những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vì ba lần chép lại một bản kinh là đã chép sai lời dạy của Ngài, chứ chưa nói chi là kiến giải, tưởng giải viết ra; nên người xưa nói: tam sao thất bổn.
Kinh Vu Lan Bồn (ĐườngVề.6) là kinh sách phát triển của Ðại Thừa, xây dựng đạo lý của mình trên hình thức cứu độ, kinh khéo léo dùng tập thể cứu độ để đánh lừa người khác, mạo nhận là Phật dạy để không ai truy tìm sự lừa đảo này được.
Khi ăn, uống thuốc men đều phải …. giữ gìn đầy đủ” (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) phải lưu ý từ hành động ăn uống hằng ngày đến uống thuốc thang trị bệnh đều phải nhẹ nhàng vén khéo, ăn không chậm lắm mà cũng không nhanh lắm, ăn như thế nào để vừa đủ quan sát từng hành động nhai nuốt một cách cụ thể rõ ràng mà không bỏ sót hành động nhai nuốt nào cả. Ăn uống và thuốc thang là để giúp cho thân bình an, nhờ có thân bình an mới tu tập đúng chánh pháp của Phật, nhờ tu tập đúng chánh pháp của Phật mới thoát khỏi kiếp sanh tử luân hồi. (Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).
Khi ăn, uống, nhai, nuốt (4Tâm) phải cẩn thận trong khi ăn uống kẻo nhai nuốt lầm chúng sanh. Thí dụ khi ta vội vã ăn một cái bánh có mấy con kiến là ta nuốt chúng luôn. Ta phải từ từ, lấy que nhỏ đưa con vật (kiến, sâu) ra khỏi thức ăn của ta (rau cải, trái cây, bánh v.v...). Người tu sĩ cũng như cư sĩ đều phải thực tập như thế. Luôn luôn phải như lý tác ý: “Khi ăn, uống, nhai, nuốt ta phải cẩn thận để không nhai nuốt chúng sanh. Làm cho chúng sanh đau khổ, chết chóc trong khi ta ăn uống là một điều tội lỗi”.
Khi co, duỗi, cúi, ngước (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) co là co tay, co chân; duỗi là duỗi tay, duỗi chân; cúi là cúi đầu, cúi cổ; ngước là ngước đầu, ngước cổ. Tỉnh thức trong mỗi thân hành từ cái co tay phải biết co tay; từ cái co chân phải biết co chân, từng hành động của thân không được bỏ sót, không được quên hành động nào, nên đây là pháp Thân HànhNiệm tức là lấy hành động của thân làm niệm để tu tập tỉnh thức, thân hành lúc nào cũng có, nên sự tu tập sẽ được liên tục không có gián đoạn, xả tâm ly dục ly ác pháp dễ dàng để tu tập tỉnh thức, tu tập định tỉnh, tu tập Tứ Thần Túc. (Thân Hành Niệm là pháp tu tập từ bắt đầu vào đạo cho đến khi chứng đạo. Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).
Khi đã xuất gia (OaiNghi) Khi đã xuất gia thì buông xả sạch hết những vật chất thế gian, thì người đã xuất gia còn gì đâu mà giải quyết, họ đã giao hết cho anh em, chị em, hoặc chồng hay vợ và con cái. Ðời sống của họ chỉ còn ba y một bát, đi xin cơm ăn hằng ngày, đó là để thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật. Người xuất gia là người đã quyết chí tu tập làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi, thì phải đầy đủ ý chí, cương quyết nhất định không rời nơi mình xuất gia một phút giây nào cả, duy nhất là bền chí nhập thất tu tập, cho đến khi tu tập chứng đạo xong mới thôi. Cho nên, từ khi xuất gia cho đến khi chứng đạo không rời tu viện nửa bước. Những người xuất gia như vậy mới thật là những người xứng đáng xuất gia; mới mong chứng đạo. Xuất gia rồi có đi đâu đều phải đi chung trong đoàn thể Tăng đoàn hay đoàn thể Ni đoàn, chứ không được đi riêng rẽ, đi một mình. Người xuất gia mà đi riêng rẽ, đi một mình là phạm giới luật. Con đường tu tập để được giải thoát sinh tử luân hồi là một chiến trận vĩ đại, nên những người xuất gia đang chiến đấu một mất một còn để đòi quyền làm chủ, độc lập tự do của một kiếp người.
Khi đắp y, mang bát (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) Ðắp y là mặc áo cà sa, áo vấn theo người Ấn Ðộ mặc; mang bát là mang một cái thố có nắp đậy dùng để đựng cơm và thực phẩm. Nghĩa của câu này là khi mặc áo phải biết rõ từng hành động đang mặc áo; khi mang bát đi xin cơm cũng phải biết rõ ràng từng hành động mang bát từ bắt đầu đi khất thực cho đến khi ngồi lại ăn cơm không được quên, không được nhớ chuyện khác chỉ biết rõ từng hành động của thân từ khi mang bát đi khất thực cho đến lúc về ăn cơm, đừng quên những hành động nhỏ nhặt nào trên thân. (Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).
Khi đi biết mình đi (PhậtDạy.4) là phải biết mình đi, phải đi trong chánh niệm, tức là đi trong thiện pháp. Đi trong thiện pháp là đi không dậm đạp lên chúng sanh, là đi trong tâm ly dục ly ác pháp. Ði biết mình đi là biết từng bước đi của mình, biết rõ ràng khi dỡ chân lên cũng như lúc để chân xuống, tâm tỉnh thức theo dõi từng hành động của chân bước. Bước đi phải nhẹ nhàng thoải mái không chậm lắm, nhưng cũng không nhanh, đi vừa kịp tâm chú ý bước chân đi, đi khoan thai như người vô sự, đi như người đi nhàn du nhưng đều biết rất rõ bước đi, phải tỉnh thức trên bước đi. Ðó là phương pháp tu tập tỉnh thức để tâm được tỉnh thức. Nhờ tu tập tỉnh thức đi mình biết mình đi, đó là hành động đi nhưng tỉnh thức trên hành động đi được thì sẽ tỉnh thức từng tâm niệm được. Tỉnh thức từng tâm niệm được thì xả bỏ tất cả ác pháp và tâm tham, sân, si dễ dàng. Tu tập “Khi đi biết mình đi” là tu tập Chánh niệm tỉnh giác định, một loại định tâm trên bước đi; một loại định phá hôn trầm, thùy miên, vô ký rất tuyệt vời, nếu người nào chịu khó siêng năng tu tập hằng ngày thì sức tỉnh thức càng ngày càng gia tăng, sự ly dục ly ác pháp càng ngày càng xả ly rất nhiều. Nhờ đó, tâm thanh thản, an lạc và vô sự càng lúc càng chứng đạt, càng chiếm nhiều thời gian dài hơn.
Khi đi khất thực (OaiNghi) đến nơi nào để xin ăn thì mới lấy bát ra ôm, đến khi khất thực đầy bát thì bỏ bát vào túi mang về thất thọ trai, chứ không được ôm bát từ lúc mới bắt đầu đi cho đến khi về thất. Ôm bát như vậy không đúng oai nghi của người khất thực.
Khi đứng biết mình đứng (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) tức là đứng ngay thẳng biết đứng ngay thẳng; đứng cong vòng biết đứng cong vòng; đứng một chân biết đứng một chân; hay đứng nghiêng biết đứng nghiêng; hoặc đứng ẹo biết đứng ẹo, v.v... Ðứng ở vị trí nào biết vị trí ấy. Biết rất rõ ràng chỗ đang đứng, chung quanh chỗ đang đứng, đứng đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc, v.v... Khi đứng yên biết thân đứng yên, biết thân đứng ngay thẳng, mắt nhìn xuống cách chỗ đứng 2m50, biết thân rung động theo từng nhịp hơi thở ra vào rõ ràng. (Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).
Khi liếc ngó hai bên biết mình liếc ngó hai bên (PhậtDạy.4) (trong nhóm 6 oai nghi tu tập: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) là tỉnh thức trong từng hành động của mắt, là tỉnh thức trong thân hành mắt, mắt nhìn hay liếc ngó hai bên thì phải biết mắt liếc ngó hai bên, biết rất rõ mắt nhìn, mắt liếc trong chánh niệm, tức là nhìn liếc ngó một cách ngay thẳng chánh trực, không nhìn chăm chăm vào mặt người khác làm cho họ ngại ngùng, không liếc xéo liếc ngang người làm cho người khác khó chịu, bao giờ cũng giữ mắt trong chánh niệm, ánh mắt hiền dịu với một lòng yêu thương và tha thứ những lỗi lầm của người khác. Muốn được tỉnh thức trong từng cái nhìn, cái ngó, cái liếc thì phải tu tập tỉnh thức với đôi mắt. Mắt làm điều gì chúng ta nên biết mắt đang làm điều đó, không bị dính mắc chấp đắm, không bị lôi cuốn vào ác pháp và lòng ham muốn. Nhìn hay liếc ngó hai bên thì phải biết mình liếc ngó hai bên. (Thân hành niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc. Sức tỉnh thức đạt được thì tâm định tỉnh đâu còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập được).
Khi mất lòng yêu thương (YêuThương.1) có nhiều trường hợp xảy ra: 1.- có những ý kiến cố chấp tạo thành những cuộc cãi cọ tranh hơn thiệt, biến cuộc sống bất an cho nhau. 2.- người này đối với người khác sinh ra thù ghét, có khi đi đến chỗ ẩu đả và gây ra án mạng. 3.- bạo lực gia đình thường xảy ra, do vợ hay chồng muốn chiếm hữu làm quyền của riêng mình (ghen, tuông). 4.- con người thường có tính hay sợ sệt, nhút nhát, thiếu can đảm không dám nhận nhận lỗi mình, thường đổ lỗi cho người khác. 5.- tánh tình không thẳng thắn, quanh co, lừng chừng, biến mình trở thành người thụ động, ai nói sao nghe vậy. Cuối cùng chẳng khác nào người a dua, xua nịnh. 6.- người ta thường hay nói thẳng trong đầu khiến mọi người căm ghét mất thiện cảm. 7.- người ta thường mạt sát và hay nói xấu người khác. 8.- chỉ biết mình và coi ai trên đời này cũng chẳng ra gì.
Khi muốn làm thầy dạy người tu (TrợĐạo) thì phải tu chứng đạo có nghĩa là làm chủ được bốn sự khổ đau của kiếp người sinh, già, bệnh, chết. Trong kinh sách Phật dạy mọi người phải cân nhắc khi muốn làm thầy dạy người tu. Người tu chứng đạo sẽ dạy như thế nào thì tu như thế nấy thì sẽ chứng đạo. Người tu không chứng đạo cũng giống như người không biết lõi cây, chặt cành lá (sư thầy dạy người cúng dường tam bảo sẽ được phước báu lớn) lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây, hay chặt võ ngoài (lấy cái học có bằng lên tòa thuyết pháp dạy lạy sám hối, niệm Phật cầu vãng sinh, không biết pháp gì làm chủ sinh, già, bệnh, chết), lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. hay lấy giác cây (dạy kiến tánh thành Phật hay dạy chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền, hay dạy biết vọng liền buông của Thiền Tông) mà cho đó là lõi cây. (Trung Bộ, kinh số 29. Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây, Mahasaropama-Sutta, MN.29).
Khi nói (4Tâm) phải cân nhắc, suy tư chín chắn rồi mới nói. Lấy đó làm câu pháp hướng để không nói lời làm khổ mình, khổ người. Lời nói ác độc, nói đùa, mỉa mai cũng làm cho người ta đau khổ. Hầu hết chúng ta không biết trau dồi lời nói, khi muốn nói là cứ nói tùy thích, không hề nghĩ đến hậu quả của nó. Không nên đặt điều nói lời oan ức cho người khác (chuyện có nói không, chuyện không nói có). Nếu mình không muốn người ta nói lời oan ức cho mình thì mình cũng đừng nói lời oan ức cho người. Phải gìn giữ lời nói đúng đắn, không làm khổ mình, khổ người để trau dồi tứ vô lượng tâm. "Ta là người hay nhiều chuyện, lắm mồm, vậy hàng ngày ta phải trau dồi miệng". "Từ nay ta phải yên lặng, sống thầm lặng (độc cư), không được lắm mồm trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng." Tùy theo nhược điểm của mình mà đặt thêm cho mình những câu pháp hướng tương tự cho phù hợp với đặc tướng của mình. Phải thường xuyên như lý tác ý câu này: “Ta không nói thì thôi, mà nói ra thì phải làm vui lòng người. Nói ra mà làm vui lòng người là ta thương người. Làm người ta phải thương người, thấy sự đau khổ của người như chính sự đau khổ của ta.”
Khi thọ thực chung (OaiNghi) Khi thọ thực chung trong đoàn thì tất cả những dụng cụ cá nhân trong khi ăn uống phải mang theo đầy đủ, không được mượn dụng cụ của người khác, không được chạy tới chạy lui đi lấy dụng cụ. Khi ngồi xếp bằng vào vị trí ăn uống thì phải giữ gìn im lặng, không được nói chuyện. Trước khi ăn uống mọi tu sĩ đồng chắp tay kính ngưỡng tỏ lòng biết chư Phật đã chỉ dạy pháp tu hành giải thoát và ông bà cha mẹ đã bố thí có thân mạng này mới có ngày nay tu tập. Ăn uống trong sự im lặng, không nên khua chén, khua bát, khua đũa, khua muỗng, v.v... Ăn uống rất nhẹ nhàng, khoan thai, nhai nuốt không nghe tiếng kêu. Sau khi ăn xong, mọi người cùng chắp tay thầm đọc lời biết ơn của người làm ra thực phẩm, đọc xong thì mỗi tu sĩ đều đứng lên mang bát trên vai, đồng chắp tay xá chà nhau rồi theo thứ tự người lớn tuổi đi trước, người nhỏ tuổi đi sau, và cuối cùng ai về thất nấy.
Khinh An là duyên của Lạc (12Duyên) Có An Lạc là phải có Khinh An. Duyên của Lạc là phải có duyên của Khinh An, nếu thân tâm có Niềm Vui thì phải có Khinh An.
Khinh An Giác Chi (ĐườngVề.9)(TrợĐạo) là một trạng thái an lạc giải thoát của thân, bởi vì Khinh An Giác Chi thuộc về thân. Khi một người nhập Bất Ðộng Tâm do ly dục sanh hỷ và lạc, hỷ và lạc do Bất Ðộng Tâm sanh ra là Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi. Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi là kết quả của Bất Ðộng Tâm, kết quả của Bất Ðộng Tâm là kết quả của Tứ Niệm Xứ, kết quả của Tứ Niệm Xứ là kết quả của Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi và Tinh Tấn Giác Chi. Trên trạng thái Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện trạng thái tâm an lạc, nhẹ nhàng thì đó là Khinh An Giác Chi trong trạng thái thân tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ.
Khinh công tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là người dùng tưởng uẩn điều khiển sức nhẹ như bông.
Khí công tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là người dùng tưởng uẩn điều khiển khí lực.
Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống (PhậtDạy.1) Ở đây có nghĩa là chọn lấy một nơi thanh vắng để sống độc cư, một mình trong cảnh cô đơn.
Khó tiêu (ĐườngVề.1) có nghĩa là không dứt bỏ được, không xa lìa được, không tiêu hóa được.
Khoái lạc nơi miệng (TâmThư.2) Người ăn một cái bánh rất ngon, nhưng khi nuốt qua khỏi cổ thì cái ngon cũng không còn. Cái ngon khi ăn cái bánh là khoái lạc nơi miệng.
Không bị ức chế (TâmThư.1) thân tâm không bị ức chế, võ não xám không bị ức chế. Không bị ức chế thì không bị hưng phấn. Không bị hưng phấn thì sự sống của người chứng đạo vẫn bình thường như mọi người khác, nhưng rất phi thường vì thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Khi cần muốn nhập định nào thì hướng tâm tác ý câu trạch pháp của thiền định đó, tức khắc thân tâm làm theo sự hướng tâm và nhập định, chứ không điều thân, điều tức, điều tâm để diệt tầm tứ rồi mới nhập Nhị Thiền. Nhập thiền định mà nhập theo kiểu ức chế là không đúng theo thiền định Phật giáo. Và như vậy không bao giờ nhập Nhị Thiền Chánh định được.
Không chấp đắm vào SẮC (TrợĐạo) không chắp đắm vào thân TỨ ÐẠI.
Không có khó khăn (CầnBiết.1) chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật, tức là sống đúng giới luật.
Không dâm dục (8QuanTrai) là không hành dâm với bất cứ ai, ngay cả với người phối ngẩu.
Không dính mắc vào sự khen chê (ĐườngVề.5) có nghĩa là khi có người khen mình, mình không khởi tâm vui mừng vì mừng vui thì bản ngã càng lớn là tâm danh còn. Và khi bị người chê, thì ta không buồn giận, nhưng phải quán xét ta có làm điều gì sai quấy hay không mà bị người chê. Nếu có sai quấy lỗi lầm thì tự răn mình sửa đổi, còn nếu không có lỗi lầm thì an nhiên tự tại trước lời khen chê, phải tự tin nơi mình. Khi nghe có người nói xấu mình một điều gì thì đừng vội tin, vì tin liền là mình mất tự chủ, mà phải suy xét cho kỹ nếu đúng thì ta tự răn mình và sám hối, sửa đổi. Còn nếu lời nói xấu sai thì ta xả, không quan tâm tới nữa.
Không dự tính làm phước lành (hành), không dự tính làm phi phước lành (hành), không dự tính làm bất động lành (hành) (12Duyên) vị Tỳ kheo muốn giải thoát thì ngay đó phải diệt VÔ MINH, đoạn tận vô minh, không chấp thủ, hướng về sự giải thoát, không có dự tính, không có dụng ý, không còn chấp thủ bất cứ một pháp nào, dù thiện thì tâm (thức của người ấy)không hướng về việc thiện, hay dù làm phi phước lành (làm một việc bất thiện), thì tâm (thức của người ấy) không hướng về việc bất thiện, chỉ hướng về sự giải thoát, nên được giải thoát.
Không được thọ dụng thịt động vật (ĐườngVề.1) khi thấy, nghe và nghi: “thấy” thực phẩm của người Phật tử cúng dường có thịt chúng sanh thì không được ăn; “nghe” người khác nói trong thực phẩm đó có thịt chúng sanh thì không được ăn; tâm sanh “nghi ngờ” thực phẩm này có thịt chúng sanh vì có mùi tanh thì không được ăn. Đức Phật không cấm ăn thịt chúng sanh mà chỉ có lời khuyên để chúng Tỳ kheo ý thức sự đau khổ của chúng sanh mà không ăn thịt tức là thực hiện lòng từ bi, là sống đúng đạo đức hiếu sinh. Trường hợp thấy, nghe thì quá rõ ràng, còn trường hợp nghi ngờ, dường như mơ hồ, nhưng thực ra tất cả thịt động vật đều có mùi riêng của nó, làm sao chúng ta không nghi ngờ, mà đã nghi ngờ thì không được phép ăn, vì lương tâm và tình thương của chúng ta, không cho phép nuôi mạng sống mình bằng sự khổ đau của loài vật khác. Tu hành mà còn ăn thịt chúng sanh, thì thành ác quỷ chứ làm sao thành Phật được. Ðời sống tu sĩ sống ngược lại với đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh của đạo Phật. Ðức Phật dạy tiếp cho các vị Tỳ kheo không nên ăn thịt chúng sanh, bằng phương pháp tu tập và trau dồi “Tứ Vô Lượng Tâm”.
Không gián đoạn thiền định (ĐườngVề.6) khi người mới bắt đầu tu để nhập Sơ Thiền thì làm gì có thiền định để không gián đoạn thiền định. Không gián đoạn thiền định, tức là đức Phật muốn nhắc chúng ta tu Ðịnh Niệm Hơi Thở, tức là nương hơi thở xả tâm không gián đoạn: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”…“Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi biết tôi thở ra”... “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô, quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra, v.v...”. Thiền định của Phật không phải dùng hơi thở ức chế tâm mà dùng hơi thở để xả tâm, cho nên Phật dạy: “muốn nhập Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền thì Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý”.
Không gian tham, trộm cắp (10Lành) là người yêu chuộng công bình, tôn trọng của cải kẻ khác như của mình. Nếu của cải mình làm ra mà bị người ta lấy hết thì mình xót xa, tiếc nuối, thì người mất của cũng đau khổ như thế.
Không làm khổ mình, khổ người (TâmThư.1) Đạo đức của Phật giáo có hai vế rõ ràng: không làm khổ mình, khổ người. Do không làm khổ mình, khổ người nên người tu sĩ Phật giáo không có hy sinh. Đạo Phật là Đạo Đức Hiếu Sinh Trí Tuệ cho nên làm một điều gì đều có sự suy nghĩ kỹ lưỡng không làm khổ mình khổ người rồi mới làm, còn làm được lợi ích có một bên thì nhất định không làm. Đạo Phật dạy giúp đỡ mọi người là đem hết sức của mình ra giúp, nhưng không được làm khổ mình. Đó là đức hiếu sinh đa hướng, chứ không phải một hướng. Người tu sĩ Phật giáo đã biết thân, thọ, tâm và pháp là vô thường, không có cái nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì hy sinh giúp người thoát khổ, thoát chết, nhưng tâm vẫn bất động. Tâm bất động thì cái thọ khổ không tác động vào tinh thần sắt đá, nhất là trước các loại cảm thọ của thân mà tâm bất động, đó là một loại thiền định xả cảm thọ thì tâm mới bất động. Nhờ sức định lực của Tứ Thiền quét sạch các cảm thọ nên tâm không còn cảm nhận thọ khổ vì thế tâm mới bất động dễ dàng. Còn có một tâm bất động khác đó là do ý chí ngút ngàn, xem thường các cảm thọ, mặc dù tâm chưa có thiền định nhưng nhờ tín lực "chết bỏ", không sợ các cảm thọ nên thản nhiên trước sự đau đớn tận cùng của sức chịu đựng bản thân. Tu hành muốn đạt được chỗ tâm bất động không phải dễ. Tâm bất động có hai phần: 1- Tâm bất động thuộc về tâm do tri kiến giới luật đức hạnh. 2- Tâm bất động thuộc về thân do tri kiến tỉnh thức định Tứ Thiền…
Không một sở hữu gì (PhậtDạy.1) người tu sĩ không có của cải tài sản, không có gia đình, không có nhà cửa thì không có sự ràng buộc, không bị dính mắc. Do không bị tài sản, của cải ràng buộc, dính mắc thì đó là giải thoát phần thô về vật chất. Nếu phần vật chất đã lìa xa thì phần nội tâm quét cũng không còn khó khăn. Hai phần này gom lại là tâm đã ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng (TâmThư.1) là luôn luôn lúc nào cũng thấy lỗi người, không thấy lỗi mình.
Không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham trong tâm (CầnBiết.3) Ý nghĩa của câu này là không biết cách xuất ly dục tham, nên dục tham thường khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi là nén tâm. Do đó dù có tu thiền định gì đi nữa thì vẫn bị sân, hôn trầm thùy miên, trạo cử, trạo hối và các loại tưởng định khởi lên.
Không nói dối (CữSĩTu) Phải thành thật, chuyện có nói có, chuyện không nói không. Nói dối có lợi cho người còn chẳng nói, huống là nói dối có lợi cho mình, mang hại cho người khác.
Không nói phản lại đối với đời (TruyềnThống.2) là đời sống như thế nào là phải nói đúng như thế nấy. Người nói không đúng sự thật của cuộc đời là nói phản lại cuộc đời. Nói phản lại cuộc đời là nói sai sự thật, nên những người nói phản lại cuộc đời là những người lạc hậu, mê tín, ngu si, dại khờ đem tiền cho người khác ăn mà tai hoạ bệnh tật vẫn đến với mình (tiền mất tật mang). Ví dụ: Ðời đau khổ mà nói rằng đời không đau khổ, đời không có chi là hạnh phúc mà nói rằng đời là hạnh phúc, đó là nói phản lại cuộc đời. Ví dụ 1: Người nào cho thân ngũ uẩn này là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì người ấy nói phản lại cuộc đời, người ấy nói sai, nói không đúng sự thật. Người nói không đúng sự thật là người nói dối. Người nói dối phải chịu qui luật nhân quả, cho nên người nào nói dối là người sẽ chịu nhiều đau khổ. Người nào không nói phản lại cuộc đời là nói thân ngũ uẩn này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta. Người nói như vậy là nói đúng như thật, không nói sai, người nói như vậy không bao giờ có đau khổ. Ví dụ 2: Người nào cho rằng không có luật nhân quả là người nói phản lại cuộc đời, người nói như vậy là người sẽ chịu nhiều sự khổ đau trong cuộc đời này, ngược lại người nào nói có luật nhân quả và thấy biết mọi sự việc xảy ra đều do nhân quả thì người ấy thoát khổ. Ví dụ 3: Người nói không phản lại cuộc đời là người nói đúng sự thật. Nói đúng sự thật là phải nói thân ngũ uẩn này là vô thường, là vô ngã, là khổ đau, nhưng nói rằng thân này là thường hằng, là có linh hồn, là có Phật tánh, là thường lạc ngã tịnh là nói sai, nói không đúng sự thật là nói phản lại cuộc đời. Do nói phản lại cuộc đời mà phải chịu nhiều khổ đau. Ví dụ 4: Người nào cho thân này không phải là thân nhân quả là người nói phản lại cuộc đời, nói sai sự thật. Bởi vì thân này, động dụng một chút xíu là tạo nhân tạo quả ngay liền tức khắc, cho nên nói thân này là thân nhân quả, là nói đúng không nói sai. Thân nhân quả là thân có phiền não đau buồn, giận hờn ganh tỵ, ghen ghét, tỵ hiềm, thường bệnh đau, khổ sở, nhức mỏi, mệt nhọc, vui mừng, an lạc, hạnh phúc, yên vui... Ví dụ 5: Người nói cho thân này thanh tịnh trong sạch là nói sai sự thật, là nói phản lại cuộc đời, chính vì thân này là thân bất tịnh, uế trược, hôi thối, dục lạc ham thích mùi tục lụy nên chịu nhiều khổ đau. Ví dụ 6: Không có thế giới siêu hình mà bảo rằng có thế giới siêu hình là nói phản lại cuộc đời.
Không phải chiếc bè sang sông (CầnBiết.5) là Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Bất Hoại Tịnh, và Giới Luật.
Không phẫn nộ vọng niệm (PhậtDạy.1) Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng pháp tác ý trong chánh tư duy để diệt. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sở hành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. “Nhờ Tâm không phóng dật mà Ta thành Chánh Giác”, đây là lời di chúc của đức Phật đã xác định lúc sắp nhập Niết bàn. Ðối với Phật giáo thì vọng niệm là một đối tượng để tu tập Ðịnh Vô Lậu. Có tu tập Ðịnh Vô Lậu thì mới chứng quả A La Hán vô lậu. Câu kệ dạy: “Không phẫn nộ vọng niệm” xác định được pháp tu không ức chế tâm. Người tu hành hiện nay ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Ðó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Không phóng dật (PhậtDạy.2) là sống độc cư, là sống phòng hộ sáu căn, là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. “Sống cung kính, tuỳ thuận không phóng dật” có nghĩa là phải cung kính, tôn trọng hạnh độc cư, vì có cung kính, tôn trọng hạnh độc cư thì tâm mới không phóng dật. Tâm còn phóng dật là tâm chưa giải thoát.
Không sát sanh (Đường Về.7)(CữSĩTu)(10Lành) Từ con người cho chí các loại côn trùng nhỏ lớn không nên giết hại, không nên xui bảo người khác giết hại, không nên thấy người khác giết hại vui theo. Không sát sanh có hai phần: 1- Trực tiếp sát sanh. 2- Gián tiếp sát sanh. Trực tiếp sát sanh là tự cầm dao, gậy, gộc hoặc tay, chân làm cho chúng sanh chết. Gián tiếp sát sanh là xui bảo người khác đoản mạng chúng sanh hoặc ăn thịt chúng sanh. Cư sĩ giữ được giai đoạn thứ nhất Giới sát sanh là không tự cầm dao giết chúng sinh (trực tiếp sát sanh). Giai đoạn thứ hai (gián tiếp sát sanh) sự giữ gìn rất khó khăn vì còn tùy thuận mọi người trong gia đình. Nhưng khi chúng ta có quyết tâm làm Phật, thương yêu chúng sanh với cõi lòng yêu thương chân thật, thương chúng sanh như con của chúng ta thì chắc chắn chúng ta không nỡ ăn thịt chúng. Ở đây, khi có quyết tâm cứu mình ra khỏi biển khổ của kiếp làm người, thì việc ngưng trực tiếp hay gián tiếp sát sanhlà cần thiết cho giai đoạn đầu tu tập ngăn ácdiệt ác của đạo Phật.Giới sát sanh là giai đoạn vỡ lòng cho người mới tu tập.Muốn giữ giới sát này chỉ có lòng thương yêu chân thật của mình đối với chúng sanh thì không khó. Ðến bữa ăn ta ngồi vào bàn ăn như mọingười nhưng chọn thực phẩm rau cải, nước tương là món ăn chính của ta để màăn. Nếu thấy mọi người chú ý ta vờ gắp thịt cá bỏ vào chén nhưng lại không ăn. Xưa, Lục tổ Huệ Năng 15 năm sống vớibọn người thợ săn, đến bữa ăn đều ăn chungvới họ nhưng chỉ ăn rau và muối.Mười lăm năm Ngài không phạm giới sát sanh mà bọn người thợ săn chẳng biết. Nếu chúng ta có quyết tâm thực hiện lòng từ bi để cứu mình ra khỏi biển khổ, thì trong hoàn cảnh nào cũng tùy thuận được mà không bị lôi cuốn vào pháp ác.
Trong kinh điển Phật dạy trước mọi cảnh,muốn tâm được giải thoát, thì phải “thiện xảo”. Thiện xảo đối với các pháp ác để tâm được thanh thản, an lạc. Thiện xảo với các pháp thiện để tăng trưởng lòng thanh thản, an lạc. Thiện xảo ly tâm dục và các ác pháp; thiện xảo nhập định; thiện xảo tỉnh thức; thiện xảo an trú trong định; thiện xảo xuất định, v.v...
Tất cả mọi pháp tu tập của Phật đều dạy phải thiện xảo, có thiện xảo mới có kết quả tốt, mới có giải thoát thân tâm của mình. Vấn đề không ăn thịt chúng sanh là mộtvấn đề thiện xảo đối với tất cả mọi người trong gia đình không khéo sẽ làm khổ mình, khổ người. Trong sự tu tập không có pháp môn nào dễ, mà chỉ có người khéo léo thiện xảo thì vượt qua tai ách khổ đau bằng sự chuyển đổi nhân quả ác thành nhân quả thiện, nên Phật dạy: "Ðứng lại thì chìm xuống. Bước tới thì trôi dạt. Chỉ duy có vượt qua”. Vậy vượt qua chỉ là thiện xảo trên các pháp để chủ động ra ngoài mọi sự tác động của nhân quả đang làm khổ đau cho mình và cho tất cả chúng sanh. Không sát sanh tức là giữ mạng sống, tha chết cho người (ân xá), cho vật (không sát sanh) sẽ được mười điều lợi ích như sau: 1/. Tất cả chúng sanh đều kính mến. 2/. Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sanh. 3/. Trừ sạch thói quen giận hờn. 4/. Thân thể thường được mạnh khỏe. 5/. Tuổi thọ được lâu dài. 6/. Thường được Thiên Thần hộ trì. 7/. Ngủ ngon giấc và không chiêm bao, ác mộng. 8/. Trừ được các mối thù oán. 9/. Khỏi bị đọa vào ba đường ác. 10/. Sau khi chết được sanh lên cõi Trời.
Không tà dâm (CữSĩTu)(8QuanTrai) là không được lang chạ, ăn nằm với người không phải là vợ hay chồng của mình (là giới thứ ba trong ngủ giới). Người phật tử còn tại gia không được lén lút tà dâm, khiến gia đình tan nát.
Không tầm tu thiền định (PhậtDạy.1) Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa.
Không tánh (của Nguyên Thủy) (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.5)(CầnBiết.5) Không tánh tức là tâm không động, tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm ly dục ly ác pháp. Không tánh là vô tướng tâm định tức là tâm không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Chữ KHÔNG có nghĩa là không có chướng ngại pháp, tức là tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu là tâm bất động, đó là cứu cánh của Phật giáo. Không Tánh tức là tánh không còn lậu hoặc, làm chủ nghiệp, không còn tái sanh luân hồi. Chữ KHÔNG TÁNH phải hiểu nghĩa đúng đắn theo Tứ Diệu Đế, phải hiểu là chỗ bất động tâm, chứ không phải là tánh không. Không tánh không có nghĩa là không có, mà cũng không có nghĩa là chân không, tánh không, Chân Không Diệu Hữu, Trí Tuệ Bát Nhã, v.v... , như nghĩa của các nhà Ðại Thừa. Hiểu nghĩa theo kiểu Đại Thừa và Thiền Tông "Không tánh" là tánh không, là Phật tánh, là sai. Không tánh là tâm thanh thản an lạc và vô sự, là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người. Đức Phật đã xác định rất rõ vô tướng tâm định vẫn là pháp hữu vi do tâm tư (ý thức) tạo nên cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt. Người đang tu tập phải tu tập cho đạt được và an trú bất động tâm này. Người đã tu tập xong thì luôn luôn an trú bất động tâm này. Người sẽ tu tập là phải hướng đến an trú bất động tâm này. Khi tất cả những loại tưởng (thôn tưởng, nhân tưởng, lâm tưởng, địa tưởng, không vô biên xứ tưởng, thức vô biên xứ tưởng, vô sở hữu tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng) đã được loại trừ xong thì còn lại một cái đó là vô tướng tâm định. Khi nào tu tập đoạn diệt hết tâm dục tức là diệt hết lòng ham muốn tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là vô tướng tâm định, không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vô tướng tâm định tức là tâm không phóng dật, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm không động hay gọi “không tánh”. Không tánh tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Không tánh người vật (ĐườngVề.5) là không tác ý người và vật thì tâm ta không tánh người vật, tức là không khởi niệm người vật, (chỉ còn cỏ, cây, đất, đá, núi, rừng). Nhưng ta thấy rằng tâm ta không người vật, thật có không điên đảo, sự thực hiện như vậy tâm ta thanh tịnh người vật không có, nên không gây ưu phiền cho ta đó là thanh tịnh không tánh người vật.
Không tổn khuyết (PhậtDạy.4) là không sức mẻ; là không bẻ vụn giới; là không phạm những giới nhỏ nhặt.
Không tu Thập Thiện (10Lành) thì ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo đủ mười điều ác; đó là nhơn quả khổ đau, là địa ngục. Địa ngục là con đường khổ đau nhất trong sáu nẻo luân hồi. Đâu có đợi xuống địa ngục mới khổ, mà ngay trong cuộc sống hiện tại này, nếu ai làm đủ mười điều ác, chắc chắn phải chịu một đời hoàn toàn đau khổ.
Không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp (PhậtDạy.1) Ăn uống ngày một bữa mà từ năm này đến năm khác không bao giờ ăn uống phi thời. Không ăn thịt chúng sanh tức là ăn trường chay, dù có bệnh đau đến chết, dù có sự bắt buộc nào, dù có hoàn cảnh như thế nào nhất định không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Người không ngủ nghỉ phi thời dù cho hoàn cảnh nào cũng nhất định không ngủ nghỉ phi thời; bằng mọi cách cố gắng nỗ lực kiên trì phá vỡ hôn trầm, thùy miên vô ký. Ðó là người không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
Không tưởng (PhậtDạy.4)(Tạoduyên)(CầnBiết.5) là tâm không vọng tưởng, là tâm không niệm thiện niệm ác. Không Tưởng là không có thật, chỉ do sự tưởng tượng. Không tưởng cũng còn chỉ các định vô sắc .Ðó là đã tu sai pháp lạc vào thiền Ðại Thừa, thiền Ðông Ðộ và thiền Minh Sát Tuệ, không còn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ được nữa.
Không tham dục (10Lành) nghĩa là không tham đắm, không dính mắc, chớ không phải đem quăng hết tài sản, của cải, hoặc làm biếng, không chịu làm ăn sanh sống. Người không tham đắm dục lạc thế gian sẽ được năm món công đức tự tại: 1/ Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại, vì nhơn các căn được đầy đủ. 2/ Của cải được tự tại, vì tất cả giặc thù đều không làm hại được. 3/ Phước đức tự tại, vì khi tâm muốn gì đều được như ý. 4/ Các của cải quí báu đều được người đem đến dâng hiến. 5/ Ðược hưởng phần lợi gấp trăm lần mình đã định, vì kiếp trước mình không có lòng bỏn xẻn.
Không tham lam trộm cắp (CữSĩTu) là “Giới Ðức Buông Xả”. Người tu sĩ cũng như những người cư sĩ tại gia cần phải học hiểu và sống đúng đức hạnh này. Người có đức buông xả là người không tích lũy, không tham lam vật chất của cải tài sản. Làm ra của cải bằng mồ hôi nước mắt của mình, nhưng không vì thế để của cải làm khổ mình, thường sống đơn giản, lìa xa vật chất. Người có đức buông xả thường tư duy vật chất thế gian tạo thành “sanh y” nghĩa là các pháp vây quanh chúng ta tạo thành cuộc sống. Của cải càng nhiều cuộc sống càng khổ đau nhiều. Người có tâm buông xả, xa lìa vật chất thế gian là người có tâm hồn giải thoát, là người tu tập đúng chánh pháp của đạo Phật, là người sống đúng Giới hạnh của bậc Thánh cư sĩ nam và Thánh cư sĩ nữ. Giới Ðức Buông Xả giúp cho con người mất của không buồn, có của cải nhiều không tham đắm, dính mắc. Trong cần lao mà xa lìa tâm tham lam, trộm cắp, gian xảo, lừa đảo là Giới Ðức Buông Xả. Cần lao làm ra của cải nhưng lại không dính mắc, tham đắm vào những vật dụng hoặc tiền của làm ra được, đó là hành động tốt. Làm ra của cải giúp cho mọi người khác, hành động giúp cho mọi người khác là đức hạnh buông xả. Nhờ có sống đúng với đức cần lao nên không thành kẻ ăn bám của xã hội, không thành gánh nặng cho những người khác. Cho nên, lập đức buông xả nhưng phải cần lao vì mình, vì người, để sự hiện hữu của mình có ích cho mình, cho người, chứ không phải bỏ đời, trốn đời như người ta đã nghĩ sai về Phật giáo.
Giới Ðức Buông Xả đối trị được tâm tham lam, trộm cắp, giúp cho thân tâm không dính mắc vật chất thế gian, giúp cho tâm luôn được thanh thản, an lạc và vô sự. Người muốn sống được giới đức buông xả này thì phải thường xuyên quán các pháp vô thường, vô ngã, do duyên hợp và thường đau khổ.
Không trộm cắp (CữSĩTu) Tiền bạc, châu báu ngọc ngà, thức ăn vật uống v.v... của người, nếu người không cho không được tự nhiên lấy, nếu lấy thành trộm cướp.
Không uống rượu (CữSĩTu) Không được uống các thứ rượu mạnh, nhẹ, không nên hút thuốc lá, thuốc lào và ác thứ nghiện ngập khác như chè, cà phê, trầu cau, v.v... Không uống rượu là “Giới Ðức Minh Mẫm”. Một người được gọi là có Ðức Hạnh Minh Mẫn Sáng Suốt thì không nên để thân tâm đắm nhiễm các ác pháp thế gian như: thuốc lá, cà phê, chè (trà), cần sa, thuốc phiện và bất cứ những loại rượu nào khiến cho người ta say mê, nghiện ngập, gây tác hại cho thân bệnh tật và thần kinh căng thẳng, rối loạn, làm cho con người như ngây, như dại, v.v... làm cho con người nghiện ngập bỏ không được. Người uống rượu không phải là người khôn ngoan, mà là người ngu si đệ nhất. Ðắm nhiễm những thứ này thì oai nghi tế hạnh không còn nữa. Giới Ðức Minh Mẫn xác định cho chúng ta thấy Thánh, Tiên, Phật là những người sáng suốt minh mẫn, vì Giới Ðức Minh Mẫn giúp cho mọi người không còn ngu si đắm mê hút thuốc lá và uống rượu nữa.
Không Vô Biên Xứ Tưởng (ĐườngRiêng) đức Phật đến thọ giáo với Ngài Alara Kalama, và được hướng dẫn, chẳng bao lâu sau đức Phật đã chứng nhập được tận tường Không Vô Biên Xứ Tưởng nhưng vẫn thấy tâm tham, sân, si, mạn, nghi còn nguyên vẹn nên đức Phật đến từ giã Ngài Alara Kalama mong sao tu tập được giải thoát mọi khổ đau của bản thân và sau này có thể giúp đỡ mọi người tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết..
Không vô biên xứ tưởng định (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là loại định không vô biên xứ tưởng trong bốn định vô sắc của ngoại đạo.
Không vọng ngữ (CữSĩTu) là “Giới Ðức Chân Thật” để đem lại lợi ích cho mình, cho người và cho cả hai. Người không nói dối là một con người thật là người. Vọng ngữ thuộc về khẩu nghiệp, nên chỉ loài người mới mắc tội vọng ngữ. Người không vọng ngữ là người tạo cho mình một uy tín đối với mọi người, một sự kính trọng tuyệt vời, một lòng tin yêu quý và tôn trọng sâu sắc. Vọng ngữ chia làm bốn phần: 1- Nói dối. 2- Nói lời hung ác. 3- Nói lưỡi hai chiều. 4- Nói lật lọng.
Khổ (12Duyên)(ĐạoĐức.2)(ĐườngVề.2) Khổ (12Duyên) là những nỗi buồn, lo lắng, sợ hãi, thương ghét, giận hờn, nhớ nhung, mong chờ, v.v... Khổ (ĐạoĐức.2)là chân lý thứ nhất của loài người. Trạng thái khổ đau của con người gồm có bốn khổ gốc: sanh, già, bệnh, chết. Do mọi người đều chấp nhận “khổ” nên nó là sự thật, là chân lý. Ðã sinh ra làm người thì không ai thoát ra khỏi bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết này, ngoại trừ những bậc tu chứng theo đúng lộ trình Phật giáo “Bát Chánh Ðạo”. Khổ (ĐườngVề.2) có ba cái khổ: Khổ khổ - Hoại khổ - Hành khổ. Ba thứ khổ này (1- Khổ khổ: Cái khổ chồng chất lên cái khổ. 2- Hoại khổ: có hình tướng đều phải bị hoại diệt vì luật vô thường chi phối từng giây từng phút, 3- Hành khổ: Mọi hành động của chúng ta thương, ghét, giận, hờn, lo lắng, ưa thích, ham muốn, v.v...). Hành khổ chia ra làm tám thứ khổ: 1/ Sanh khổ (có hai nghĩa sự sanh đẻ và đời sống. a) Khổ trong lúc sanh ra, b) Khổ về đời sống có hai phương diện vật chất và tinh thần), 2/ Lão khổ, 3/ Bệnh khổ, 4/ Tử khổ, 5/ Ái biệt ly khổ (chia ra làm hai loại: Sanh ly khổ, Tử biệt khổ), 6/ Cầu bất đắc khổ, 7/ Oán tằng hội khổ, 8/ Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Khổ hạnh (ĐườngRiêng) không mang lại sự giải thoát mà còn làm thêm khổ đau.
Khổ khổ (ĐườngVề.2) là cái khổ chồng chất lên cái khổ; bản thân đã là khổ mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là khổ khổ.
Khổ là duyên của Lòng tin (12Duyên) Khổ là những nỗi buồn lo lắng sợ hãi thương ghét giận hờn, nhớ nhung, mong chờ, v.v... Tất cả những điều đó gọi chung là Khổ.
Khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng (CầnBiết.5) Khi ở trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì quan sát thân, thọ, tâm pháp, thấy có niệm này hay niệm khác của năm dục trưởng dưỡng khởi lên thì biết rằng tâm ái dục chưa đoạn diệt. Khi biết rõ như vậy thì hãy tác ý đẩy lùi những niệm ấy ra khỏi tâm, nếu các niệm ấy còn tới lui nhiều lần thì dùng chánh tri kiến tư duy năm dục trưởng dưỡng theo pháp mà đức Phật đã dạy: Các sắc do mắt nhận thức khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả hỷ khả ý liên hệ đến dục hấp dẫn thì phải diệt ngay, không được để trong tâm một phút giây nào khác, phải đoạn diệt tâm ái dục đó đi. Khi dục ái còn là năm dục trưởng dưỡng còn, năm dục trưởng dưỡng diệt thì tâm dục ái diệt. Tâm dục ái còn là do sự phòng hộ sáu căn không chặt. Chính là không giữ độc cư trọn vẹn nên năm dục trưởng dưỡng tăng thịnh, vì thế an trú trong an trú không trọn vẹn, nên sự hộ trì chân lí không trọn vẹn, thành ra sự tu hành Tứ Niệm Xứ không có kết quả tốt tức là không sung mãn Tứ Niệm Xứ.
VIẾT TẮT CÁC SÁCH
(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai;
***