• chanhungphatgiao
  • quetsan
  • vandao2
  • ttl1
  • tinhtoa2
  • toduongtuyetson
  • amthat3
  • benthayhocdao
  • vandaptusinh
  • tinhtoa1
  • thanhanhniem1
  • daytusi
  • ThayTL
  • khatthuc1
  • tamthuphattu
  • amthat2
  • thanhanhniem3
  • lopbatchanhdao
  • amthat1
  • phattuvandao3
  • lailamtoduong1
  • phattuvandao1
  • thanhanhniem2
  • ttl3
  • tranhducphat
  • huongdantusinh
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
JGLOBAL_PRINT

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (vần T2/5)

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

T (2/5)

Tinh cần tu tập (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) là phải siêng năng tu tập từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ những giây phút nào cả, tu tập những pháp môn mà Đức Phật đã dạy gồm có: 1/ Mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở. 2/ Định Vô Lậu. 3/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. 4/ Định Sáng Suốt. 5/ Tác ý đẩy lùi các chướng ngại pháp trên Tứ Niệm Xứ. 6/ Tu Tập Thân Hành Niệm.

 

Tinh cần đoạn tận (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Khi tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham tức là biết tâm có dục. Biết tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm cho nó hết dục. Làm cho nó hết dục tức là đoạn tận. Có tinh cần tu tập như vậy thì mới "đoạn tận" được lòng ham muốn, mọi ác pháp, mọi khổ đau của kiếp làm người trong từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ phút nào cả. Đức Phật dạy phương pháp đoạn tận tâm tham, tâm sân, tâm si,...: “Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải được khéo tác ý”. Về thân thì tinh cần đoạn tận: Mỗi khi thân có đau nhức hay bệnh tật thì cũng nên an trú vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Bền chí mà tác ý như vậy cho đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ nữa mới thôi. Trước khi muốn đoạn tận các sự phiền não và tất cả bệnh khổ đau nơi thân và tâm thì quý bạn phải tu tập cách thức an trú tâm cho được trong hơi thở, trong bước đi, nói cách khác tổng quát hơn là an trú trong thân hành.

Tinh cần hộ trì (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”.

Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi. Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ.

Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có: 1- Mùi thơm 2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Ðối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành). Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp.

Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần: 1- Hộ trì miệng về ăn, uống. 2- Hộ trì miệng về nói. - Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh. Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác... - Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Ðức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y. Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ.

Hộ trì thân: có hai phần: 1/ Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng. 2/ Đẩy lùi các bệnh tật trên thân. Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở. - Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ. - Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi.

Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật. Sử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có nội lực mạnh mẽ. Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi.

Tinh Tấn Giác Chi (ĐườngVề.9)(TrợĐạo) Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện là lúc nào cũng thấy siêng năng trong trạng thái thân tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ. Siêng năng tu tập Niệm Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi, là chọn lựa niệm thiện, niệm thiện tức là niệm bồ đề, niệm bồ đề tức là niệm giải thoát, cho nên siêng năng tu tập niệm giải thoát tức là Tinh Tấn Giác Chi. Người siêng năng tu tập Tinh Tấn Giác Chi là người sống trong thiện pháp tức là người ly dục ly ác pháp, người ly dục ly ác pháp nên do ly dục sanh hỷ lạc, vì thế trong kinh dạy: “Trong khi ấy tỳ kheo tu tập Tinh Tấn Giác Chi đi đến viên mãn. Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Này các tỳ kheo, trong khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi tỳ kheo tinh tấn tinh cần, trong khi ấy Hỷ Giác Chi bắt đầu khởi lên nơi tỳ kheo”. Bây giờ tâm chúng ta có hỷ, hỷ giải thoát là hỷ không liên hệ với vật chất tức là hỷ do ly dục ly ác pháp, như vậy hỷ do ly dục ly ác pháp là Hỷ Giác Chi.

Tinh Tấn Như Ý Túc (ĐườngRiêng) có nghĩa là thân tâm siêng năng theo ý muốn của mình không còn biếng trễ.

Tính chất thiện pháp (GiớiĐức.2) là nền đạo đức nhân quả thiện, chẳng làm khổ mình khổ người mà Ðức Phật đã triển khai thành một pháp hành để thực hiện Thiền định, đó là “Tứ Chánh Cần”, cũng chính từ gốc pháp môn này, mới làm chủ sự sanh tử, luân hồi.

Tính của địa giới (TruyềnThống.1) Tính của địa giới là dung chứa, dù dơ bẩn bất tịnh hay trong sạch thanh tịnh thì tính địa giới không có phân biệt phiền hà than trách, không có vui mừng hay khen chê. Cho nên khi học về tính của địa giới thì có sự ước mong tâm mình như tính địa giới, như đất. Tính của đất ví như trên đất ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, như quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu, tuy vậy đất không lo âu, không dao động, không nhàm chán. Do tu tập sự tu tập tánh như đất, khi các xúc khả ái, không khả ái khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Do tu tập tính như đất thì tâm ta sẽ không còn phiền não, sân hận, lo âu, sợ hãi nữa. Ngược lại bản chất của địa giới là địa giới, chứ không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta.

Tính của gió (TruyềnThống.1) là gió thổi các đồ tịnh, thổi các đồ bất tịnh, thổi phẩn uế, thổi nước tiểu, thổi nước miếng, thổi mủ, thổi máu, tuy vậy gió không lo âu, không dao động, không nhàm chán; thổi tất cả các ác pháp và các dục, tham, sân, si. Cho nên tu tập tính như gió là phải thổi tan tất cả các ác pháp. Muốn tâm thành gió thật sự thì phải tu tập như thế nào để có một sức lực mạnh mẽ như gió, để khi sử dụng thì tâm mạnh như gió mới thổi tan đi mọi ác pháp.

Tính của hư không (TruyềnThống.1) là không có một vật gì trú được dù là vật ác hay vật thiện, dù là dơ bẩn hay không dơ bẩn, dù có phiền não hay không phiền não, dù có thọ lạc hay thọ khổ, tính của hư không cũng không dung chứa.

Tình thương đa hướng (TâmThư.1) là Mặc dù tu hành chưa chứng đạo, nhưng giúp ai vui và chính lòng mình cũng vui thì đó là tình thương đa hướng. Trong đời người sinh ra là có sẵn tình thương nhất hướng và đa hướng chứ không phải tu xong mới có đa hướng, nếu đợi tu xong mới có tình thương đa hướng thì tình thương đa hướng không phải là của con người. Những gì đức Phật dạy chúng ta trong đời sống con người đều đã có sẵn. Chân lí của con người là những gì của con người đã có sẵn, còn những gì chưa có mà mới tạo ra chân lí đâu được gọi là chân lí của loài người. Tình thương nhất hướng hay đa hướng đều là đức hiếu sinh, vì thương đa hướng nên không làm khổ mình, khổ người, còn tình thương nhất hướng không làm khổ người nhưng làm khổ mình.

Tình thương đúng chỗ (ThiềnCănBản) là đặt tình thương trong thiện pháp, nhưng tình thương của Phật giáo là tình thương đa hướng nên hướng thiện hay hướng ác đều đặt tình thương được cả. Thương yêu, thương xót, thương hại mọi người, chứ không phải thương nhân quả của mọi người. Cho nên nhân quả họ làm là họ phải gánh chịu, còn riêng chúng ta thương thì chúng ta chỉ mong họ thấy được nhân quả để đừng sử dụng nhân quả ác làm khổ mình khổ người. Hình ảnh xấu xa của họ là hình ảnh của nhân quả ác. Ðã biết là nhân quả thì còn để ý hành động ác đó để làm gì. Cho nên thương người mà thấy cái xấu của người khác thì làm sao thương người được, cái khó nhất là thấy cái tốt của người khác, cái dễ nhất là thấy cái xấu của người khác. Học đạo đức mới thấy rõ mình là người thiện hay là người ác, nếu mình thấy lỗi người, nói lỗi người thì mình là người bất thiện, người ác; nếu thấy lỗi người mà không nói lỗi người, không bơi móc lỗi người khác là người thiện… ngược lại toàn là người ác.

Tình thương một hướng (TâmThư.1) là con vui mà người khác khổ; hoặc người khác vui mà con khổ. Trong đời người sinh ra là có sẵn tình thương nhất hướng và đa hướng chứ không phải tu xong mới có đa hướng, nếu đợi tu xong mới có tình thương đa hướng thì tình thương đa hướng không phải là tình thương của con người. Những gì đức Phật dạy chúng ta trong đời sống con người đều đã có sẵn. Chân lí của con người là những gì của con người đã có sẵn, còn những gì chưa có mà mới tạo ra thì đâu được gọi là chân lí của loài người. Tình thương nhất hướng hay đa hướng đều là đức hiếu sinh, vì tình thương đa hướng nên không làm khổ mình, khổ người, còn tình thương nhất hướng không làm khổ người nhưng làm khổ mình.

Tỉnh thức trong hành động (8QuanTrai) Nghĩa là tu tỉnh thức trong mỗi hành động thân, khẩu, ý. Làm tất cả mọi công việc đều tu tập được cả, như quét sân, nấu cơm, lặt rau, v.v... Nên nhớ kỷ phải dùng pháp hướng tâm để tập tỉnh thức trong hành động.

Tịnh tu tam nghiệp “Thân–Khẩu–Ý” (3Quy5Giới) bằng cách: 1) - Thân: Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục là đã trở về với đức tánh “Thanh-tịnh”. 2) - Khẩu: Không vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ, lưỡng thiệt tức là trở về với đức tánh “Chơn-chánh”. 3) - Ý: Không tham lam, sân hận và si mê tức là đã trở về với đức tánh “Giác-ngộ”. Nói tóm, là phải tu tập mười thiện pháp để cho thân khẩu ý thường được tương ưng với Phật-Pháp-Tăng tức là đã quy-y tam bảo đúng pháp.

Tịnh chỉ (Phậtdạy.3) là ly dục ly ác pháp, nghĩa là khi tâm ly dục ly ác pháp thì tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm bất động, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si nữa là tâm có đủ bảy năng lực giác chi, nhờ bảy năng lực ấy mới làm cho khẩu hành ngưng hoạt động, mới làm cho tưởng uẩn ngưng hoạt động. Nếu tâm chưa có đủ bảy năng lực giác chi thì khó mà nhập định được. Không phải nói ly dục là tâm ta ly dục được liền. Muốn ly dục, ly ác pháp thì phải bỏ hết cả cuộc đời để tu tập, vừa sống đúng phạm hạnh, vừa tu tập cho đúng pháp môn. Nếu sống đúng Phạm hạnh, mà tu tập không đúng pháp môn thì được lợi ích phân nửa, còn Phạm hạnh sống không đúng mà chỉ tu đúng pháp thì chẳng ích lợi gì, trái lại còn có tai hại, nghĩa là sống phạm giới, phá giới mà tu tập thiền định, thì sẽ rơi vào tà thiền, một loại thiền rất nguy hiểm, làm mất đường giải thoát.

Tịnh chỉ âm thanh, ly “động’’ (Phậtdạy.3) tức là diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền. Bởi vì khi nhập Nhị Thiền thì sáu căn ngưng hoạt động (Sáu căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý). Diệt tầm tứ tức là diệt ý căn. Ý căn là một căn trong nhóm sáu căn. Nên ý căn diệt thì bắt buộc các căn kia cũng bị diệt. Tịnh chỉ âm thanh ly “động’’ là âm thanh ngưng thì không còn nghe tiếng động. Giống như người đang ngủ say, ý căn không hoạt động nên tầm tứ không có, thì tất cả sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp cũng không có (Cả một không gian vắng lặng. Toàn bộ ý thức bị ngưng bặt, chỉ còn cái biết của tưởng thức mà thôi. Giống như người trong giấc chiêm bao).

Tịnh chỉ các hành trong thân (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) thì phải hiểu nghĩa là các sự hoạt động trong thân đều ngơi nghỉ, ngưng hoạt động. Tịnh chỉ các hành tức là đình chỉ hơi thở ra, vô. Người có đủ năng lực làm ngừng hơi thở là người làm chủ sự sống chết. Người làm chủ được sự sống chết là người nhập Tứ Thiền. Lời dạy Tịnh chỉ các hành là nhập Tứ thiền làm chủ sự sống chết. Tại vì trong kinh đức Phật có dạy: “Tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền”. Và ở đây câu này Phật dạy:“Tịnh chỉ các hành trong thân”. Các hành trong thân tức là hơi thở vô và hơi thở ra. Do kinh dạy tịnh chỉ các hành trong thân, nên chúng tôi biết là tịnh chỉ hơi thở; tịnh chỉ hơi thở là nhập Tứ Thiền làm chủ sự sống chết. Theo nghĩa lời dạy trên của đức Phật, khi muốn làm chủ sự sống chết thì phải nhập Tứ thiền. Tứ Thiền là một loại thiền định với mục đích của nó là giúp chúng ta tịnh chỉ hơi thở. Ngoài thiền định này ra thì không còn có một thứ thiền định nào làm chủ sống chết được, nên được gọi là Tứ Thánh Ðịnh. Tứ Thánh Ðịnh là loại thiền định của các bậc Thánh. Ðó là một sự xác quyết chắc chắn không thay đổi của Phật giáo. Nhập được Tứ Thiền là làm chủ sự sống chết. Còn đạt được trí tuệ Tam Minh thì chấm dứt luân hồi tái sanh.

Tịnh chỉ hơi thở (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.6) Hơi thở là sự hoạt động tự nhiên của thân để tiếp thu thể khí bên ngoài nuôi dưỡng thể khí bên trong. Hơi thở là sự hoạt động nội của thân, là mạng sống của con người. Nghĩa đen của bốn chữ tịnh chỉ hơi thở là: “dùng năng lực tâm thanh tịnh (tức là năng lực Thất Giác Chi) dừng sự hoạt động nội thân để toàn thân hoàn toàn bất động nhập Tứ Thiền”. (Muốn nhập Tứ Thánh Ðịnh thì chỉ “Khi nào có đủ 7 năng lực Giác Chi thì mới nhập được”). Trạng thái của Tứ Thiền là trạng thái thân tâm bất động, khi nhập định Tứ Thiền thì thân tâm thành một khối, nên nó còn có tên gọi là “Tâm định trên thân, thân định trên tâm”. Chỉ có thiền định này làm chủ sự sống chết và chính nó mà ngày xưa đức Phật đã đạt được đạo giải thoát, chứ không phải là một loại thiền tầm thường. Các Tổ đã gán cho Tứ Thiền những danh từ “Phàm phu thiền, ngoại đạo thiền, Nhị Thừa Thiền”.

Tịnh chỉ khẩu hành (Phậtdạy.3) Khẩu hành là sự hoạt động của miệng. 1- Miệng dùng để ăn, 2- Miệng dùng để nói chuyện. Nghĩa đen của “tịnh chỉ khẩu hành” là dùng tâm thanh tịnh (tức là năng lực Thất Giác Chi) dừng sự hoạt động của miệng nhập Nhị Thiền, tức là dừng lại sự nói chuyện và không ăn uống”. Tịnh chỉ là ly dục ly ác pháp, làm cho tâm thanh tịnh, làm cho tâm bất động, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa, làm cho tâm có đủ bảy năng lực, nhờ bảy năng lực ấy làm cho khẩu hành ngưng hoạt động. Tịnh chỉ khẩu hành là cả một quá trình tu tập của Phật giáo, đòi hỏi người tu sĩ phải sống đúng giới luật không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Không phải nói ly dục là tâm ta ly dục được liền. Tịnh chỉ khẩu hành, nói thì dễ mà tu tập thì không phải dễ. Tịnh chỉ khẩu hành có hai phần: 1- Không ăn. 2- Không nói.

Tịnh chỉ mộng tưởng (Phậtdạy.3) Tịnh chỉ là ly dục ly ác pháp, làm tâm thanh tịnh, làm tâm bất động, làm tâm có đủ bảy năng lực Giác Chi, nhờ bảy năng lực Giác Chi ấy mới làm cho tưởng uẩn ngưng hoạt động. Mộng tưởng là sự hoạt động của tưởng, tưởng tri những điều không có thật, là những trạng thái do tưởng uẩn tạo ra giống như những người lên đồng, nhập cốt, giống như các nhà ngoại cảm, giống như giấc chiêm bao. Nghĩa đen của tịnh chỉ mộng tưởng là “dùng năng lực tâm thanh tịnh (tức là năng lực Thất Giác Chi) dừng sự hoạt động của tưởng uẩn nhập Tam Thiền”.

Tịnh chỉ mộng tưởng, ly “hỉ” (Phậtdạy.3) ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền. Bởi vì khi nhập Tam Thiền thì không còn chiêm bao. Tịnh chỉ mộng tưởng tức là chiêm bao không còn. Muốn nhập Tam Thiền thì phải tịnh chỉ sự hoạt động của tưởng uẩn, vượt qua thế giới tưởng, tức là lìa xa 18 loại hỷ tưởng. Mười tám loại hỷ tưởng: - Sáu loại tưởng trần (gồm có: 1/ Sắc tưởng, 2/ Thinh tưởng, 3/ Hương tưởng, 4/ Vị tưởng, 5/ Xúc tưởng, 6/ Pháp tưởng) - Sáu loại tưởng thức (gồm có: 1/ Nhãn tưởng thức, 2/ Nhĩ tưởng thức, 3/ Tỷ tưởng thức, 4/ Thiệt tưởng thức, 5/ Thân tưởng thức, 6/ Ý tưởng thức) - Sáu tưởng thông (gồm có: 1/ Thiên nhãn tưởng thông, 2/ Thiên nhĩ tưởng thông, 3/ Tỷ tưởng thông, 4/ Thiệt tưởng thông, 5/ Thần túc tưởng thông, 6/ Tha tâm tưởng thông). Tịnh chỉ mộng tưởng, ly hỷ: đó là trạng thái Tam Thiền, trong kinh thường dùng ly hỉ trú xả nhập Tam Thiền.

Tịnh chỉ ngôn ngữ (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.6) Ngôn là lời nói; ngữ là chữ viết; tịnh là thanh tịnh; chỉ là ngưng, là dừng lại. Muốn nhập Sơ Thiền thì phải Dùng tâm thanh tịnh dừng lời nói và đừng viết chữ mới nhập được Sơ Thiền. Khi tâm thanh tịnh (ly dục ly ác pháp) thì lúc bấy giờ mới có thể tịnh chỉ ngôn ngữ. Muốn tâm ly dục ly ác pháp (tâm thanh tịnh) thì phải siêng năng tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm và sống độc cư, sống trầm lặng, như đức Phật đã dạy 42 bài kệ sống độc cư và thường ca ngợi cuộc sống trầm lặng của vị khất sĩ.

Tịnh chỉ tầm tứ (ĐườngVề.6) là tịnh chỉ ý thức, ý thức không còn hoạt động giao lại cho tưởng thức hoạt động, do thế đức Phật dạy diệt tầm tứ định sanh hỷ lạc. Hỷ lạc ở đây do tưởng uẩn lưu xuất, vì tưởng thức đang hoạt động thay thế cho ý thức, nên ta có cảm giác hỷ lạc.

Tịnh chỉ thọ, ly “xúc” (Phậtdạy.3) lìa các cảm thọ nhập Tứ Thiền, vì khi nhập Tứ Thiền thì các cảm thọ ngưng hoạt động. Thọ là các cảm thọ nơi thân và tâm, khi nhập Tứ Thiền phải “Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh” tức là xả thọ. Cảm thọ có ba: 1- Thọ lạc. 2- Thọ khổ, 3- Thọ bất lạc bất khổ. Muốn xả được thì phải có đủ năng lực của bảy Giác Chi do tu tập Tứ Như Ý Túc. Khi hướng tâm nhập Sơ Thiền thì phải dùng Trạch Pháp Giác Chi. Trong kinh: “Tâm ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền” đó là câu trạch pháp hướng tâm của Thất Giác Chi nhập Sơ Thiền. Và Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cũng đều dùng Trạch Pháp hướng tâm tùy theo loại định. Đức Phật xác định trạng thái của Tứ Thiền “Trạng thái vắng lặng trong tỉnh thức (của Thức uẩn) xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh”.

Tịnh Ðộ Tông (ĐườngVề.1)(GiớiĐức.1) đã biến Phật giáo thành Thần Giáo, thành tôn giáo mê tín, cúng bái, cầu khẩn, niệm Phật cầu vãng sanh như Ðạo Bà La Môn. Vị tỳ kheo Tịnh Ðộ Tông có vợ con như một người cư sĩ Bà La Môn, họ sống làm mọi nghề như người thế tục, ăn thịt, uống rượu say sưa, ngủ mả, nằm đường, ngủ bụi, ăn quán, ngồi lều, đụng đâu ngồi đó, chẳng có chút hổ thẹn; lại còn được Giáo Hội tấn phong Hòa Thượng, Thượng Tọa... Tịnh Ðộ Tông đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, chuyên cúng bái tụng niệm, cầu siêu, cầu an, lên đồng, nhập xác, xưng ông này, bà kia, Phật, Tổ, Quan Thánh Ðế Quân, v.v... thường đốt tiền vàng mã, quần áo kho đụn, và còn làm nhiều điều mê tín dị đoan khác nữa. Tịnh Ðộ Tông xây dựng một thế giới siêu hình có cõi Cực Lạc Tây Phương, làm mất ý nghĩa chân thật của đạo Phật. Riêng Phật giáo xây dựng một cảnh giới Niết Bàn cụ thể và thực tế, không có trừu tượng, mơ hồ như cõi Cực Lạc Tây Phương. Bốn Thánh Ðế, “Diệt đế” là cảnh giới Niết Bàn của chư Phật, diệt đế tức là diệt cái nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ của con người. Cảnh giới Niết Bàn là một trạng thái tâm hồn không có tâm ham muốn và ác pháp đau khổ, chớ không có cảnh giới siêu hình nào cả ở trên thế gian này; Tịnh Ðộ Tông bịa đặt ra cảnh giới Cực Lạc Tây Phương, để đưa con người đi đến chỗ mê tín lạc hậu, chuyên cúng bái, cầu khẩn, làm những việc vô ích, hao tài tốn của, chẳng lợi mình, lợi người.

Tịnh hạnh (ĐườngVề.6) tức là giới luật.

Tịnh khẩu (ThiềnCănBản) là ít nói, nói ra không làm khổ mình khổ người và nói ra có lợi ích cho mình cho người; là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh; là nói lời thiện, tức là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người; phải làm chủ thân, miệng, ý nên khi nói không được cười đùa, không được nói tếu, không được nói châm chọc, không nói mỉa mai, không nói móc lò. Nói phải suy nghĩ kỹ. Lời nói để diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp, không làm khổ mình khổ người. Không phải Tịnh khẩu là không nói; không nói là á khẩu.

Tịnh nhân (TâmThư.2) các cư sĩ cạo tóc là tịnh nhân, người mới tập sự xuất gia, những người ấy xin thế phát chứ chưa thọ giới. Cư sĩ cạo tóc đều không sao cả chỉ tập sự làm tu sĩ cho nên có nhiều người gọi thầy. Trong Phật giáo danh xưng thầy có nhiều: Thầy Tịnh nhân (Người mới cạo tóc chưa thọ giới), thầy Sa Di (Người thọ 10 giới) thầy Tỳ Kheo (Người thọ 250 giới). Ngoài đời thầy giáo: người dạy học văn hóa; thầy cúng: người chuyên cúng bái tụng niệm; thầy đồ: người dạy chữ Nho; Thầy thuốc: người trị bệnh theo phương pháp đông y; thầy bùa: người vẽ bùa trị bệnh v.v...Cho nên tiếng thầy rất thông dụng và có sự tôn trọng, cung kính cũng giống như danh từ xưng hô tôn trọng bằng chú, bác, cô, dì vậy thôi. Danh xưng gọi thầy là một từ xưng hô tốt không có gì đáng ngại!

Tịnh xá (ĐườngVề.2) có nghĩa là ngôi nhà ở thanh tịnh.

Tỉnh giác (PhậtDạy.4)(Đường Về.7)(CầnBiết.5)(12Duyên)(TruyềnThống.1)(CữSĩTu)(MuốnChứngĐạo)(Tạoduyên)(TâmThư.1) Tỉnh là bình tỉnh, giác là đang quan sát. Tỉnh giác chỉ cho biết trong hành động đang làm và đang quán xét để phân loại hành động thiện hay ác, tức là ý thức không bị tưởng xen vào, không bị vọng tưởng lôi kéo. Có tỉnh giác thì không bị các pháp trói buộc; tỉnh giác là tỉnh táo trong các niệm, biết rõ ràng các niệm không bị ảnh hưởng những sự hiểu biết sai lầm ảo tưởng, hư tưởng của người khác, không bị những hiểu biết do ngũ dục lạc sai bảo, cám dỗ và lôi cuốn vào ác pháp. Tỉnh giác là ý thức không bị mê mờ trước các pháp và bị lung lạc trước các cảm thọ do dục. Tỉnh giác là trí thức tỉnh táo sáng suốt trong mọi hành động và việc làm; là ý thức đang sống trong hiện tại với các đối tượng và việc làm. Tỉnh giác là tỉnh táo, biết rõ ràng, không bị lờ mờ, thân phải tỉnh thức hoàn toàn, thân không uể oải, lười biếng, tâm không mê mờ và không ở trạng thái lúc tỉnh lúc mê, hay trạng thái hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, v.v… biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Tỉnh giác là không có một chút xíu nào hôn trầm thùy miên trong thân tâm. Có tỉnh giác mới quan sát kỹ lưỡng, do quan sát kỹ lưỡng mới thấy được từ tâm niệm của mình vừa khởi lên là thấy liền và ngay đó biết cả niệm đó là ác pháp hay niệm thiện pháp, nó muốn gì, muốn làm gì. Khi tâm ham muốn một điều gì thì biết ngay tâm ham muốn điều đó. Mỗi niệm khởi lên đều không lọt qua sự quan sát và như vậy mới có thể gọi là tỉnh giác, nhờ có tỉnh giác như vậy mới nhiếp phục được mọi tham ái, mọi ưu bi, mọi khổ đau trên đời này. Tỉnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp. Tỉnh giác là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Tỉnh giác trong hơi thở là biết rất kỹ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra. Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra. Ở đây, chúng ta nên hiểu đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kỹ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra. Tỉnh Giác là phương pháp đầu tiên, một pháp môn rất căn bản cho những người mới vào đạo Phật. Như thế nào là chú tâm tỉnh giác: ban ngày khi đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các triền cái. Ban đêm trong canh một, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái. Ban đêm trong canh cuối, khi vị ấy đi kinh hành và trong khi ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái. Nhờ có Tỉnh Giác mới gọt sạch từng tâm niệm ngũ triền cái và thất kiết sử. Nhưng muốn được Tỉnh Giác thì chỉ có pháp Như lý Tác Ý và Đi Kinh Hành. Tỉnh giác chỉ là giai đoạn đầu mới tu tập tỉnh thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không. Khi tâm ham muốn một điều gì thì biết ngay tâm ham muốn điều đó, đó là tâm tỉnh giác. Khi tâm tỉnh giác được như vậy thì ý thức bảo: “Tâm không được ham muốn, ham muốn đó là ác pháp, là pháp khổ đau”. Ý thức lệnh bảo như vậy thì tâm chấm dứt ham muốn. Khi tâm đang sân giận, ý thức bảo: “Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp ác, là pháp đau khổ” khi tác ý như vậy là tâm không còn sân giận. Khi thân già yếu, ý thức bảo: “Thân vô thường, nhưng không được yếu đuối run rẩy phải quắc thước”; khi tác ý như vậy thì thân lần lần không còn yếu đuối và run rẩy, luôn luôn quắc thước. Khi thân bị bệnh, ý thức bảo: “Thân phải mạnh khỏe, tất cả bệnh tật đều phải lui ra khỏi thân”. Lệnh của ý thức như vậy thì bệnh lần lần lui ra sạch. Khi thân sắp chết, thở không được thì ý thức bảo: “Thân phải thở lại bình thường, không được chết”. Ý thức ra lệnh như vậy thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường. Khi thân đang mạnh khoẻ bình thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý thức ra lệnh:“Hơi thở phải tịnh chỉ, từ bỏ thân tứ đại này”. Lệnh như vậy thì hơi thở lần lần ngưng hoạt động, tâm nhập vào chỗ bất động Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Niết Bàn. Tỉnh giác là một pháp môn tu tập của Phật giáo nguyên thủy để giúp con người chủ động thực hiện đức hiếu sinh và các đức hạnh khác, là tâm bình tỉnh trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn sáng suốt quan sát từng đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Tỉnh giác là tâm an vui, là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý của mình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì, tỉnh giác là thiện pháp không làm khổ mình khổ người. Tỉnh giác đã có nghĩa cẩn thận, cho nên dùng Tỉnh giác thì không dùng cẩn thận. Tỉnh giác có sự thanh tịnh và bình tĩnh nên thường dùng Tỉnh giác Chánh niệm chứ không nói Tỉnh giác Tà niệm. Tỉnh giác là một giới đức trong pháp môn Quán vô lậu của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh, nếu tu tập đúng đặc tướng. Tỉnh giác là pháp xuất thế gian, còn cảnh giác là pháp thế gian. Tỉnh giác là pháp xuất thế gian. Tỉnh giác là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập tỉnh giác ít xảy ra tai nạn. Nếu có tỉnh giác thì không cần cảnh giác, vì trong Tỉnh Giác Chánh Niệm thì thường quan sát kỹ các đối tượng. Quan sát kỹ các đối tượng không phải là cảnh giác mà là bản chất của Tỉnh giác. Ở đạo đức nhân bản - nhân quả thì dùng từ tỉnh giác, còn ở góc độ thông tin thế gian thì dùng từ cảnh giác. Nếu dùng tỉnh giác cho cuộc sống hằng ngày thì không cần dùng cảnh giác, dùng cảnh giác thì phải dùng thêm tỉnh giác mới đem lại sự bình an cho mình thật sự, còn chỉ dùng riêng có cảnh giác là đem đến cho mình một sự bất an lo lắng.

Tỉnh giác trong từng hơi thở (ThiềnCănBản) Phải siêng năng hướng tâm, giữ gìn thân bất động, trụ tâm tại một điểm duy nhất. Từ bắt đầu tọa thiền cho đến xả thiền, phải tỉnh giác hoàn toàn trong hơi thở bằng ý thức, coi chừng rơi vào tưởng thức mà không biết. Khi chưa hướng tâm “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” mà có an là sai, phải không có một trạng thái gì trong hơi thở thì mới thật sự là Ðịnh Niệm Hơi Thở.

Tính nhút nhát (CầnBiết.4) là tính sợ hãi trước cảnh vắng vẻ cô đơn nơi rừng sâu núi thẳm, trước mọi loài vật, mọi người hung ác, trước mọi gian nan thử thách. Tính nhút nhác là một tính xấu cần phải được khắc phục bằng tính gan dạ, can đảm, dũng cảm, không hề sợ hãi trước cảnh vắng vẻ cô đơn nơi rừng sâu núi thẳm, trước mọi loài vật, mọi người hung ác, trước mọi gian nan thử thách. Nhưng tính sợ hãi các lỗi lầm của mình là một đức hạnh tốt; một đức hạnh cần phải được rèn luyện và tu tập để ngày ngày được phát triển đức sợ hãi những lỗi lầm của mình càng to lớn hơn.

Tinh tấn (PhậtDạy.2)(PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là siêng năng, cần cù tu tập. Tinh tấn này phải hiểu là, hằng giờ, hằng phút, hằng giây luôn luôn phải siêng năng quan sát 4 chỗ thân, thọ, tâm và pháp để xem xét sự động tịnh, sự thanh thản, an lạc và vô sự hay sự bất an, sự mất thanh thản, an lạc và vô sự. Khi thân tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự thì phải dùng pháp đẩy lui những chướng ngại pháp đang tác động vào thân tâm, tức là phải khắc phục những tham ái, ưu bi, sầu khổ nơi tâm hoặc những cảm thọ đau nhức bệnh tật nơi thân. Nhưng khi tất cả những cảm thọ và các ác pháp do tâm không có khởi ra, thì nên cảnh giác những trạng thái si mê hôn trầm, thùy miên sẽ tấn công.

Tỉnh thức (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.3)(CầnBiết.4) Tỉnh thức là sự bình tĩnh, không mê mờ, rất tỉnh táo, biết rất rõ, tâm không bị chi phối trong thất tình lục dục, trong kiến chấp, trong ngã chấp, v.v... là sự nhận biết nhanh chóng ra các ác pháp trong sát na (nháy mắt), là sức tỉnh thức rất tự nhiên không có sự bắt buộc và gò bó của những loại thiền ức chế tâm, sức tỉnh thức đó là định tỉnh chánh niệm không phải do ức chế tâm mà có được, mà do tâm không phóng dật, nhờ tâm ly dục, ly ác pháp, nhưng không phải nhìn đăm đăm hơi thở mà có tỉnh thức. Làm mải miết cho xong mà không có suy tư và cũng không quên mình đang làm là tỉnh thức, không cần hướng tâm. Làm mải miết mà có suy tư là thất niệm (bị vọng tưởng). Làm mải miết không có suy tư mà cũng không nhớ đang làm (làm theo thói quen) là thất niệm vô ký. Phải dùng pháp hướng nhắc tâm tỉnh thức. Người ta tập tỉnh thức để tỉnh thức nhận biết được ác pháp để đẩy lui chúng ra khỏi thân tâm của chúng ta, để đem lại cho thân tâm chúng ta một sự thanh thản, an lạc và vô sự, đó mới chính là sự giải thoát của đạo Phật. Bởi tỉnh thức không có nghĩa biết tỉnh thức mà tỉnh thức phải biết đâu là chánh niệm và đâu là tà niệm. Như vậy sự tu tập tỉnh thức mới thực sự có ích lợi lớn cho mình cho người, còn tu tập tỉnh thức mà chỉ biết tỉnh thức thì đó là tu sai không ích lợi, mất thời giờ vô ích và mất công sức mỏi mệt.

Tỉnh thức trên bước đi (CữSĩTu)  gồm có bốn giai đoạn tu tập: Giai đoạn thứ nhất: Ði kinh hành nhưngười vô sự. Trước khi đi nên tác ý như sau: “Ði kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi chân trái bước thì đếm một; chân phải bước đếm hai; chân trái bước đếm ba; chân phải bước đếm bốn... cứ như vậy, mỗi bước chân đếm tăng lên một số cho đến 20. Ðúng hai mươi bước thì đứng lại tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi tiếp tục đi lại như cũ. Và cứ tu tập như vậy cho đến khi đúng 30 phút thì xả nghỉ. Giai đoạn thứ hai: Ði kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước thì đứng lại tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác ý xong liền hít vô thở ra 5 hơi thở (hít thở bình thường). Khi hít thở 5 hơi thở xong liền tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Ði kinh hành 20 bước cộng năm hơi thở suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. Giai đoạn thứ ba: Ði kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước thì đứng lại rồi ngồi xuống theo kiểu bán già hoặc kiết già, giữ lưng thẳng, mắt nhìn phía chóp mũi, tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác ý xong liền hít vô thở ra 5 hơi thở (hít thở bình thường). Khi hít thở 5 hơi thở xong thì đứng dậy rồi tác ý: “Ði kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tác ý xong lại bước đi kinh hành nhưtrước. Ði kinh hành 20 bước cộng thêm tư thế ngồi hít thở 5 hơi thở. Tu tập như vậy suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. Giai đoạn thứ tư: Ði kinh hành theo pháp môn “Thân Hành Niệm”. Phương pháp này tu tập theo lệnh truyền của pháp môn như lý tác ý. Ðây là một mẫu truyền lệnh của pháp môn Thân Hành Niệm: (Xin lưu ý: Tác ý truyền lệnh xong, rồi thân mới thực hiện hành động theo): - Co tay trái để sau lưng! - Tay phải để lên tay trái! - Chân trái (chuẩn bị)! - Dở gót (lên)! - Dở chân (lên)! - Ðưa (chân) tới! - Hạ chân (xuống)! - Hạ gót (xuống)! - Chân phải (chuẩn bị)! - Dở gót (lên)! - Dở chân (lên)! - Ðưa (chân) tới! - Hạ chân (xuống)!- Hạ gót (xuống)! - Chân phải (chuẩn bị)! - Dở gót (lên)! - Dở chân (lên)! - Ðưa (chân) tới! - Hạ chân (xuống)!- Hạ gót (xuống)! Ðến bước thứ 20 thì thêm hành động “Kéo (chân) về!”, trước hành động “Hạ chân (xuống)!”, để hai bàn chân hạ xuống đứng ngang bằng nhau. Khi đứng lại xong, tiếp tục truyền lệnh cách thức ngồi: - Tay phải buông thõng xuống! - Tay trái buông thõng xuống! - Tay trái đưa thẳng ngang mặt! - Tay phải đưa thẳng ngang mặt! - Hai chân co ngồi xuống! - Tay trái chống đất sau lưng! - Tay phải chống đất sau lưng! - Hạ thân ngồi xuống! - Chân trái duỗi ra! - Chân phải duỗi ra! - Chân trái co lại! (kiểu bán già) - Chân phải co lại gác lên chân trái! (kiểu bán già) - Tay phải đặt lên giữa hai bàn chân! - Tay trái đặt lên tay phải! - Lưng thẳng (lên)! - Hít thở 5 hơi! (Hít thở bình thường, mỗi một lần “Hít vào - Thở ra” thì đếm 1 lần, đếm từ 1 đến 5). Ðếm đủ 5 hơi thở xong tiếp tục truyền lệnh cách thức đứng lên: - Tay trái chống đất sau lưng! - Tay phải chống đất sau lưng! - Chân phải duỗi ra! - Chân trái duỗi ra! - Chân phải co lại! - Chân trái co lại! - Ngồi lên! - Tay trái đưa thẳng ngang mặt! (Hoặc: Tay trái chống gối trái!) - Tay phải đưa thẳng ngang mặt! (Hoặc: Tay phải chống gối phải!) - Hai chân đứng lên! Khi đứng lên xong quý phật tử tiếp tục đi 20 bước vòng thứ 2... và cứ tu tập như vậy cho đến 30 phút thì xả nghỉ.

Tĩnh (giác) và Tỉnh (thức) (TâmThư.1) khác nghĩa, khác hình dạng chỉ có đồng âm. Chữ Tĩnh (giác) dấu ngã (~), chữ Tỉnh (thức) dấu hỏi (?). Chữ “Giác” có nghĩa là “Giác ngộ” mà giác ngộ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện. Chữ “giác” có nghĩa là “quán xét” hay “suy xét”. Chữ “thức” có nghĩa là tỉnh táo biết rất rõ nhưng không phân biệt pháp nào thiện hay pháp nào ác. Thiện ác hai pháp như nhau, nên chữ “thức” có nghĩa là “tập trung”. “giác” có nghĩa là “giác ngộ" mà giác ngộ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện.

Tu (ĐườngVề.3)(Đường Về.7)(TâmThư.1) là sửa đổi, thay đổi, làm tốt lại, làm thiện lại, là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình, khổ người, là bảo vệ và giữ gìn trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và cảm thọ, tức là giữ gìn tâm thanh thàn, an lạc và vô sự từ ngày này sang ngày khác. Không phải tu là gõ mõ, tụng kinh, niệm Phật, lần chuỗi, ngồi Thiền hay lạy hồng danh sám hối. Ðó là hình thức tu tập chịu ảnh hưởng ngoại lai của các tôn giáo khác, chẳng giúp gì cho giải thoát tâm tham, sân, si, phiền não, thương, ghét, giận hờn, thù oán, tật đố, nghi kỵ và các ác pháp khác. Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ không phải tu là làm cho chúng ta trở thành người ngu ngu, ngơ ngẩn như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai, nói nói, cười cười một mình. Tu đâu có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường. Ðâu phải tu có thần thông là chứng đạo, đâu phải ngồi thiền nhiều là chứng đạo. Phật giáo nói tu tập là nói sống không làm khổ mình, khổ người. Sống không làm khổ mình khổ người là hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý. Tu là đem lại cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc xéo, liếc ngang, không nói xấu, không nói lỗi người khác, không li gián người này với người kia. Tu là đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, thoải mái. Tu là tỉnh giác, nhưng tỉnh giác đâu có nghĩa là chỉ có biết cảm nhận bước đi và hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tỉnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp.Tu tập là sửa sai những điều làm khổ mình, khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngập; sửa sai những lời nói ác, lời nói dối, lời nói li gián khiến cho mọi người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người. Sửa sai để trở thành con người tốt, con người có đạo đức. Tu theo Phật giáo chỉ có sửa sai tâm tính của mình, vì thế đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” hoặc “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Tu không có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình, khổ người. Tu không phải ngồi thiền nhiều là chứng đạo. Ngồi thiền nhiều chỉ nhập định tưởng. Ðịnh tưởng là một loại thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Xưa đức Phật nhập vào các định tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu xong Ngài ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách.

Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.6) Vừa làm, vừa không suy tư chỉ biết hành động đang làm. Chính đang làm hành động mà biết đang làm là tỉnh giác, chớ không phải buông xả, có tỉnh giác mới biết cái đúng cái sai, mới biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mà buông xả. Buông xả là tu Ðịnh Vô Lậu. Tâm tỉnh giác trong hành động làm, tức là tâm biết mình đang làm công việc đó, không có niệm khởi thì đó mới chỉ là tỉnh giác, chứ chưa xả niệm. Không phải tâm biết hành động làm là buông xả mà chính pháp hướng tâm là buông xả. Khi tâm có niệm chướng ngại pháp khởi sanh thì phải tỉnh ngay niệm khởi đó để dùng Ðịnh Vô Lậu quán xét cho thấu suốt niệm khởi đó để hoàn toàn đẩy lui khỏi tâm thì mới gọi là xả tâm. Tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh tức là tu trong các hành động của thân (Thân Hành Niệm ngoại). Ðó là một pháp môn ngăn các pháp ác tuyệt vời. Ðịnh Niệm Hơi Thở cũng là một pháp môn ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời. Hai loại thiền định này (Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh và Ðịnh Niệm Hơi Thở) là những pháp môn ngăn chặn mười pháp ác. Nếu hành giả siêng năng, chuyên cần, tinh tấn tu tập thì các pháp ác không xen vào được trong tâm, vì thế, tâm không phóng dật, luôn hướng vào trong thân và định vào thân, tâm hồn hành giả lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, cuộc sống trở thành trầm lặng, thánh thiện và độc cư.

Tu chưa xong (TâmThư.1) mà phá hạnh độc cư, thiếu sự phòng hộ là tâm còn tham, sân, si chưa xả sạch, nên chuyện gì cũng muốn biết.

Tu chứng (ĐườngRiêng) chứng tâm VÔ LẬU.

Tu Ðịnh Niệm Hơi Thở (8QuanTrai)(Tạoduyên) ngồi kiết già hoặc bán già, lưng thẳng, hai mắt nhìn xuống chót mũi, kế đó hít vào một hơi thở, chậm, nhẹ, dài. Khi nào hít vào hết thì thở ra cũng chậm, nhẹ và dài để tâm gom lại. Khi thở ra hết thì trở lại hơi thở bình thường, kèm theo pháp hướng tâm: "Tôi thở, tôi biết tôi đang thở" và theo dõi hơi thở. Khi biết rõ hơi thở ra vào đều đều thì không cần phải nhắc câu "Tôi thở, tôi biết tôi đang thở" nữa, mà phải nhắc tâm mình bằng câu khác để xả tâm tham, sân, si trong khi đang thở. Cứ sau 5 hơi thở hoặc 10 hơi thở thì xả tâm bằng câu: "Quán ly tham, tôi biết tôi đang thở", rồi thở 5 hơi thở. Sau khi xả tâm tham đó lại nhắc tâm xả tâm sân bằng câu: "Quán ly sân, tôi biết tôi đang thở". Rồi thở tiếp 5 hơi thở, và nhắc tâm xả tâm si bằng câu: "Quán ly si, tôi biết tôi đang thở". Cứ tiếp tục 5 hoặc 10 hơi thở thì một lần hướng tâm: "Quán đoạn dứt tâm tham, tôi biết tôi đang thở". "Quán đoạn dứt tâm sân, tôi biết tôi đang thở". "Quán đoạn dứt tâm si, tôi biết tôi đang thở". Tiếp tục như thế, cứ cách 5 hơi thở thì một lần hướng tâm (mục đích là đừng để cho một niệm khác tự động xen vào trong khi ta đang theo dõi hơi thở). Tu tập Ðịnh Niệm hơi thở như vậy độ 10 phút thì xả nghỉ 10 phút. Nếu có sức ngồi tu tập bền lâu thì cũng chỉ nên tu tập đủ 30 phút thì xả nghỉ. Suốt ngày đêm cứ tu tập trong từng hành động, trong công việc làm hay lúc đi kinh hành. Luôn luôn tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở kèm theo pháp hướng để xả tâm. Tu Ðịnh Niệm Hơi Thở, từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ 19, nếu vào định thật sự rồi, tức là vào chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự (chân lí thứ ba của đạo Phật trong Tứ Diệu Ðế) thì cũng là chứng ngộ luôn (khi đạt được đề mục thứ 19). Cái khuyết ở trường hợp này là người tu dễ chìm trong si định, cái định si mê, ham ngủ, lười biếng. Nếu người thầy khéo gỡ mối, đưa họ qua khỏi trạng thái si mê này thì họ chứng đạo.

Tu Ðịnh Niệm Hơi Thở với hơi thở dài, ngắn (TâmThư.2) thì phải biết hơi thở mình thở dài ngắn rõ ràng. Khi tập hơi thở phải vận dụng, nếu hơi thở dài thì phải thở đều đều chậm dài, không được thở lúc dài lúc ngắn.

Tu Ðịnh Vô Lậu (8QuanTrai) Ðịnh Vô Lậu chuyên nhất vào sự suy xét và quán. Quán những sự việc xẩy ra trong đời sốnghằng ngày của ta. Khi quán xét thấy trong tâm ta đang mắc phải một ác pháp nào đó khiến cho tâm bất an và bất toại nguyện, thì hãy dùng pháp hướng mà xả nó đi. Hãy dùng pháp hướng ra lệnh để làm cho tâm bất toại nguyện, ưu phiền đó rời khỏi tâm ta. Thí dụ khi đang giận ai thì ta dùng pháp hướng như sau: "Tôi giận, tôi biết tôi đang giận"; hoặc là "Hít vô, tôi biết tôi đang giận; thở ra, tôi biết tôi đang giận" rồi theo dõi 5 hơi thở (hoặc 10 hơi) chậm, nhẹ. Với pháp hướng như thế, thở vào, thở ra 5 hơi chậm, nhẹ thì sẽ thấy cơn giận bắt đầu giảm cường độ. Tiếp theo có thể dùng câu pháp hướng: "Quán từ bỏ tâm sân, tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân, tôi biết tôi thở ra". Hít vô thở ra 5 lần rồi lập lại câu pháp hướng ấy, thì ta sẽ thấy cơn giận giãm đi quá nửa. Tu tập xả tâm được rồi thì an nhiên tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở, đi kinh hành và tu tập trong tất cả hành động khác.

Tu đúng cách (ĐườngVề.6) tức là tu tập xả tâm; xả tâm đúng cách tức là phải khéo léo thiện xảo. Tu tập đúng cách là không bao giờ ức chế tâm, là phải biết pháp nào tu trước pháp nào tu sau. Trong pháp Tam Vô Lậu Học thì giới luật phải tu trước, phải sống đúng giới luật không có vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào rồi mới tu tập thiền định. Sau khi nhập xong Tứ Thiền thì mới bắt đầu tu trí tuệ. Tu tập Tứ Thánh Ðịnh thì phải tu tập Sơ Thiền trước tiên, sau khi Sơ Thiền được sung mãn thì mới tu tập Nhị Thiền, sau khi Nhị Thiền được sung mãn thì mới tu tập Tam Thiền, sau khi Tam Thiền được sung mãn thì mới tu tập Tứ Thiền. Người tu sĩ đạo Phật giới luật chưa nghiêm trì mà tu thiền định thì chẳng bao giờ có thiền định được. Ðó là những người tu không đúng cách.

Tu đúng căn cơ, đặc tướng (ĐườngVề.6) khi tu hành chúng ta phải biết căn cơ của mình. Căn cơ thể hiện qua nhân tướng và hành tướng. Ví dụ: Hành tướng ngoại tự nhiên của mình là đi chậm, thì khi tu tập phải theo hành tướng đi chậm mà tu, không được đi nhanh, cũng không đi quá chậm. Khi hành tướng tự nhiên của mình đi nhanh thì khi tu tập không được đi chậm hoặc quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi với tướng tự nhiên của mình. Hành tướng nội tự nhiên của mình hơi thở chậm thì nên khi tu tập nên theo hơi thở chậm; nếu hành tướng tự nhiên hơi thở nhanh thì khi tu tập nên theo hơi thở nhanh, không nên hơi thở chậm mà khi tu tập thì lại thở nhanh cũng như hơi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu như vậy không tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế mà có sự ức chế thì có chướng ngại pháp, là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật, tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo. Nhân tướnglà hình dáng của cơ thể, có người có nhân tướng cao, nhưng cũng có người có nhân tướng thấp, người đẹp, người xấu, người trắng, người đen, người mập người ốm, người mặt dài, mặt ngắn, mặt vuông, mặt chữ điền, mặt bầu, mặt tròn... Người tu theo đạo Phật không nên ước có nhân tướng đẹp mà tu tập. Mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ chứ không phải tướng tốt. Dưới đôi mắt của Phật thì nhân tướng của con người chỉ là tứ đại duyên hợp, bất tịnh uế trược không có đáng cho chúng ta quan tâm, nhưng trong khi tu tập chúng ta biết sử dụng nhân tướng để tu tập. Chúng ta phải tu tập vừa phải, chứ không bắt ép nó tu tập nhiều, không được khổ hạnh ép xác, mà cũng không được lợi dưỡng phá giới luật. Ngày ngày tu tập phải tùy theo đặc tướng của mình mà thực hiện cho đúng pháp thì có kết quả lợi ích rất lớn.

Tu đúng pháp (ĐườngVề.6) là sau khi nghiên cứu tường tận biết rõ pháp môn nào là của Phật, pháp môn nào không phải của Phật. 1/ Pháp môn của Phật là pháp xả tâm, chứ không phải là pháp môn ức chế tâm. 2/ Pháp môn của Phật là pháp môn vô ngã ác pháp, hữu ngã thiện pháp. 3/ Pháp môn của Phật là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. 4/ Pháp môn của Phật là pháp môn toàn thiện. 5/ Pháp môn của Phật là một pháp môn đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. 6/ Pháp môn của Phật là một pháp môn huấn luyện tâm, rèn luyện tâm, như lý tác ý. 7/ Pháp môn của Phật là một pháp môn dùng để dẫn tâm vào đạo đức làm người. Nếu quý Phật tử biết rõ đúng pháp thì sẽ tu tập đúng pháp. Ngoài bảy sự hiểu biết trên đây là đúng về Phật pháp, còn là sự hiểu sai, hiểu sai Phật pháp tức là tu sai, tu sai thì phí công vô ích mà còn tạo thêm gánh nặng cho Phật tử (tín đồ) cúng dường. Trước khi tu thì phải nghiên cứu cho tường tận lời dạy của đức Phật rồi mới tu.

Tu tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả đúng pháp (TruyềnThống.1) tìm nơi vắng vẻ như gốc cây, cánh đồng hoang vắng, bờ suối, nghĩa địa, nhà mồ, ta ngồi kiết già, lưng thẳng để thân tâm được đi vào yên lặng xong thì mới bắt đầu tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", khi tác ý như vậy thì hãy lắng tâm nghe hơi thở vô ra. Khi nghe hơi thở vô ra đều đặn ta lại tác ý “Lòng thương xót (tâm bi) chúng sanh phải phủ trùm mười phương không bỏ sót một chúng sanh nào cả, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý như vậy xong, ta hãy lắng nghe hơi thở ra vô với lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh. Hoặc tác ý ngắn như:“Hít vô tôi biết tâm tôi thương xót chúng sanh, thở ra tôi biết tâm tôi thương xót tất cả chúng sanh”. Và cứ như thế tiếp tục tu tập thì kết quả đến với ta là ta không bao giờcòn làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh nữa.

Tu tập (PhậtDạy.2) có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực hành, biết linh động khi thực hành cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi hoàn cảnh…

Tu hành (ĐườngRiêng) không phải chỗ ngồi mà cũng không phải chỗ hết vọng tưởng, mà chỗ tâm tỉnh thức biết rõ từng tâm niệm của mình để xả và ly tất cả các niệm chướng ngại pháp làm tâm bất an. Do xả ly hết các niệm chướng ngại pháp nên tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Trong khi tu hành là phải tâm luôn luôn lúc nào cũng phải tỉnh giác sáng suốt, không bị hôn trầm thuỳ miên tấn công.

Tu hành đúng (PhậtDạy.2) là hằng ngày, chỉ biết quan sát lại thân mình, tìm xem có những ác pháp nào xâm chiếm vào nó thì phải ngăn và diệt. Còn về tâm cũng vậy, khi có một niệm nào khởi lên lầm lỗi thì phải mau mau diệt. Hằng ngày mà nổ lực tu tập và sống đúng thì cuộc sống an lạc và hạnh phúc tuyệt vời. Chỉ cần tu tập và sống đúng là đã giải thoát rồi, còn gì để tu tập nữa.

Tu hành theo đạo Phật (CầnBiết.2)  là phải tự lực dùng sức lực của mình, luôn luôn phải trau dồi thân tâm và rèn luyện tu tập, cố sức xả bỏ những tâm niệm đầy tham muốn vàcác ác pháp đang vây quanh. Khi muốn xả bỏ như vậy, thì chúng ta không những cần phải gan dạ, lầm lỳ, kiên trì, chịu đựng, kham nhẫn... mà còn phải đầy đủ nghị lực để mạnh dạn dứt bỏ những thói hư, tật xấu. Muốn tu theo đạo Phật để thoát cảnh khổ đau của kiếp làm người, thì phải dùng sức tự lực của chính mình, chứ không phải bằng tha lực của người khác như trong các kinh sách phát triển dạy.

Tu hành thiền định của đạo Phật (ĐườngVề.2) là ở chỗ ngăn ác diệt ác pháp và đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, không phải chỗ ngồi thiền, tụng kinh, bái sám, niệm chú, niệm Phật, v.v… Người tu có đối tượng xả tâm nhanh, còn người tu không có đối tượng kết quả xả tâm chậm hơn, nhưng nhiều khi có đối tượng tức là có chướng ngại pháp trong tâm mà không xả, chỉ có kham nhẫn chịu đựng, cho nên trong lòng rất buồn phiền và đau khổ, đó là tu có đối tượng lại ức chế tâm thành ra tạo khổ thêm cho mình chứ không có giải thoát.

Tu hành tu sai (PhậtDạy.2) là dụng công quá nhiều, phí năng lượng, phí sức nên bị hôn trầm thùy miên vô ký tấn công.

Tu hơi thở (ThiềnCănBản) cần phải tập kỹ, tập hơi thở cho đúng tức là đầu tiên tập nhiếp tâm cho được trong hơi thở, rồi sau đó phải tu tập an trú trong hơi thở cho được. Tu tập cho có chất lượng, không nên tập trung cao. Không được tu lờ mờ, tu lấy lệ. Phải luôn nhắc tâm, không được để tâm mê mờ trong hơi thở. Tu ít mà chất lượng cao, còn tu lờ mờ thì phí thời gian vô ích. Phải tu cho thật là tu, tu cho có sức chủ động, điều khiển hơi thở và trụ tâm vững chắc. Tu ít, chất lượng nhiều; không cần ngồi nhiều, chỉ cần tu một phút mà có chất lượng chủ động điều khiển tâm và hơi thở nhiếp phục nhau cho tốt.

Tu năm căn (TrợĐạo) là bảo vệ và hộ trì: 1- Hai con mắt; 2- Hai lỗ tai; 3- Hai lỗ mũi; 4- Miệng; 5- Thân, phải dùng pháp môn Ðộc cư. Muốn tâm không phóng dật thì phải độc cư sống một mình. Sống một mình là phương pháp tu tập Năm Căn. Dùng Pháp NHƯ LÝ TÁC Ý tác ý lôi các căn vào trong thân: 1- Mắt phải nhìn vào trong thân. 2- Tai phải nghe vào trong thân. 3- Mũi phải ngửi mùi trong thân. 4- Lưỡi phải nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng). 5- Thân phải cảm giác nóng, lạnh, mát mẻ, đau nhức trong thân.

Tu pháp môn giải thoát vô lậu (Tạoduyên) thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường, như muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản sự làm chủ sống chết được nữa.

Tu tập (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3)(12Duyên)(TâmThư.1) là dùng ý thức tư duy, suy nghĩ cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, v.v... rồi chọn lựa câu tác ý cho hợp với đặc tướng của mình, hoặc chọn lựa những hành động nội ngoại của thân, để tạo thành niệm. Nhờ nương niệm ấy tu tập tỉnh giác, nhờ tỉnh giác an trú thân tâm, nhờ an trú thân tâm mới xả ly tham, sân, si, mạn, nghi được. Tu tập có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực hành, biết linh động khi thực hành cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi hoàn cảnh. Chữ tu tập của Phật giáo có nghĩa là tu sửa đổi những lỗi lầm, để không còn lỗi lầm nữa, để từ bỏ thói hư tật xấu, để từ người xấu trở thành người tốt, để từ phàm phu trở thành Thánh nhân, nghĩa là thực hành nhưng thực hành rất linh động nhằm thực hiện đạo đức làm người, làm Thánh. Tu tập không có nghĩa là ngồi thiền, gõ mõ tụng kinh, niệm chú, niệm Phật. Từ xưa đến nay, người ta hiểu hai chữ tu tập là phải theo một tôn giáo nào và tu tập để thành Tiên, thành Phật, để được sinh về cõi Trời, cõi Phật, cõi Cực Lạc Tây Phương, chứ không mấy ai lưu ý tu là sửa sai những lỗi lầm, ngăn ngừa các ác pháp và diệt trừ các ác pháp để cho tâm được thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, v.v... Tu tập là xả những chướng ngại pháp, còn giải quyết công việc mà dùng tri kiến giải thoát thì cũng như tu tập xả tâm không có gì khác đâu. Tu theo đạo Phật là sống xả tâm cho hết lậu hoặc, chứ không tu tập cái gì. Lậu hoặc còn là còn tu tập; lậu hoặc hết là hết tu tập; hết tu tập là chứng quả, đang tu cũng thấy giải thoát, chứng quả cũng thấy giải thoát. Tu tập là triển khai tri kiến giải thoát. Trí tuệ giải thoát là do huân tập sự hiểu biết giải thoát, từ đó ly tham, sân, si, mạn, nghi đều bằng tri kiến hiểu biết. Muốn đoạn diệt sự khổ đau của kiếp người thì phải bằng trí tuệ. Pháp đầu tiên mới vào tu tập là pháp môn Bảy Giác Chi, gồm có: 1- Trạch Pháp Giác Chi, 2- Niệm Giác Chi, 3- Tinh Tấn Giác Chi, 4- Khinh An Giác Chi, 5- Hỷ Giác Chi, 6- Ðịnh Giác Chi, 7- Xả Giác Chi. (phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng sự khác biệt giữa Bảy pháp Giác Chi và Bảy năng lực Giác Chi). Khi bắt đầu vào pháp tu tập thì phải sử dụng pháp Bảy Giác Chi, trong đó Trạch Pháp Giác Chi là pháp môn tu tập thứ nhất và pháp như lý tác ý đi song hành theo bảy trường hợp xả tâm. Pháp tu cuối cùng để nhập các định và thực hiện Tam Minh là tu bảy năng lực Giác Chi.

Tu tập an trú (TâmThư.1) chỉ tác ý một lần đầu rồi ngồi im lặng bất động cho đến hết giờ không có một niệm và hôn trầm thùy miên nào xẹt vào. Khi tu tập nhiếp tâm và an trú tâm đúng thì sức tỉnh giác rất cao nên không bị hôn trầm thuỳ miên. Còn tu tập sai thường dễ bị hôn trầm thùy miên do sức tỉnh giác không có, do tiêu hao năng lượng, do dụng công ức chế tâm nhiều, do thức nhiều mà không chịu xả nghỉ ngơi lấy sức.

Tu tập Chánh Tinh Tấn (ĐườngVề.9) là tu tập gồm có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Tu tập Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng tức là tu tập Thân Hành Niệm, tu tập Thân Hành Niệm tức là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh tức là tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở và đi kinh hành, tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở và đi kinh hành tức là tu tập Tứ Niệm Xứ.

Tu Tập Chín Giai Đoạn (TrợĐạo) 1- Nghe Chân Pháp Của Phật (thì phải Thân Cận Bậc Tu Chứng Đạo, đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết.) 2- Có Lòng Tin (thì phải được Nghe Chánh Pháp của Phật.) 3- Pháp môn Như Lý Tác Ý (thì phải có Lòng Tin.) 4- Chánh Niệm Tỉnh Giác (thì phải tu tập Như Lý Tác Ý.) 5- Chế Ngự Các Căn (thì phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.) 6- Ba Thiện Hạnh (thì phải tu tập Chế Ngự Các Căn (Độc Cư).) 7- Tứ Niệm Xứ (thì phải tu tập Ba Thiện Hạnh. Ba Thiện Hạnh tức là Ý hành thiện, Khẩu hành thiện, Thân hành thiện. 8- Bảy Năng Lực Giác Chi (thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ.) 9- Tam Minh để làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi (thì phải có đủ Bảy Năng Lực Giác Chi. Bảy Năng Lực Giác Chi xuất hiện khi tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ trong suốt 7 ngày đêm).

Tu tập chứng quả A La Hán (TâmThư.2) Muốn chứng quả A La Hán làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi và có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông thì tu tập không được nhiếp tâm ỨC CHẾ Ý THỨC diệt trừ vọng tưởng. Vì ức chế ý thức là tu tập sai pháp thiền định của Phật giáo. Hiểu rõ được điều này thì người nào tu tập cũng đều chứng quả A La Hán dễ dàng, chứ không phải chỉ những người có thượng căn, lợi căn mới tu tập được, còn những người trung, hạ và độn căn thì tu tập chẳng được. Ở đây không cần thượng, lợi, trung, hạ và độn căn mà chỉ có NHIỆT TÂM biết sống đúng giới luật đức hạnh, biết xả sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì người nào cũng luyện tập Tứ Thần Túc được dễ dàng. Cho nên chứng quả A La Hán là do các con, do phước báu của chúng sinh, chứ không phải do Thầy. Phật giáo còn hay mất không phải Thầy, Thầy không có trách nhiệm bảo vệ nó mà trách nhiệm bảo vệ nó là của các con và chúng sinh. Vì đó là quyền lợi của các con, của chúng sinh, chứ Thầy chẳng có quyền lợi gì trong đó nữa vì Thầy đã tu xong. Chỉ vì thương xót các con và chúng sinh mà Thầy ra công dựng lại giáo pháp chân chánh của Phật để giúp cho các con và chúng sinh mà thôi, còn chánh pháp này mất hay còn là do các con và chúng sinh. “GIỚI LUẬT” chính là A La Hán. Người tu chứng quả A La Hán còn nhân quả với chúng sanh trong hiện tại, chứ tương lai thì chấm dứt, đường đi nước bước chứng quả A La Hán Thầy đã viết rất rõ ràng, qua những kinh sách và những bức tâm thư Thầy gửi cho mọi người trong nước cũng như ở nước ngoài là đủ sức cho họ tu tập chứng quả A La Hán.

Tu tập Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác (ĐườngVề.1) giúp ta tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám và thường sống trong thiện pháp.

Tu tập Ðịnh Vô Lậu (ĐườngVề.1) giúp ta sống trong chánh niệm diệt trừ tà niệm.

Tu tập đức tùy thuận (ThiềnCănBản) là một việc làm khó khăn vô cùng, chỉ có sống ly dục, tránh các duyên, và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn thì mới có thể ly dục, ly ác pháp dễ dàng mà thôi.

Tu tập đúng cách (CầnBiết.3) là tu tập xả tâm, xả tâm đúng cách tức là phải khéo léo thiện xảo, tu tập đúng cách là không bao giờ ức chế tâm. Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tu trước pháp nào tu sau.

Tu tập Giới Luật (PhậtDạy.2) là giai đoạn tu quán: dùng tri kiến giải thoát mà nhìn mọi sự vật tức là Chánh Tri Kiến; dùng tri kiến giải thoát tư duy suy nghĩ mọi sự vật, mọi pháp, tức là Chánh Tư Duy.

Tu tập hành động Thân Hành (MuốnChứngĐạo) là Tỉnh Thức trong Thân Hành, Ý tứ cẩn thận mỗi hành động của thân. Muốn được tỉnh thức trong Thân Hành thì nên tu tập 19 đề mục Hơi thở trong pháp môn Định Niệm Hơi Thở, vì pháp môn Định Niệm Hơi Thở đã dạy phương pháp tu tập rất rõ ràng từ sơ cơ đến đạt được tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Tu tập kỹ lưỡng (PhậtDạy.4) là siêng năng nhiều. nhưng siêng năng phải đúng cách (Chánh tinh tấn) tu cho có chất lượng, luôn luôn phải để ý xem kết quả trong sự tu tập có đạt được chất lượng tốt hay không, còn siêng năng không đúng cách (Tà tinh tấn) là tu tập lấy có, tu tập không kỹ lưỡng, tu tập không cân nhắc từng hành động, từng hơi thở, từng tâm niệm, từng ác pháp, từng hoàn cảnh, v.v... Càng tu tập kỹ lưỡng tức là càng cân nhắc từ hành động tỉnh giác tu tập để ngăn và diệt ác pháp và các dục.

Tu tập ly dục ly ác pháp (PhậtDạy.2) biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm, ngăn ngừa không cho sáu trần xúc chạm với sáu căn. Lỡ sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ thì cố gắng giữ tâm không hề giao động trước ba cảm thọ. Do biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm như vậy thì đó là tu tập ly dục ly ác pháp. Tu tập ly dục ly ác pháp tức tu tập thiền của Phật giáo (Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền do ly dục sinh hỷ lạc). Nếu hằng ngày chuyên cần làm những công việc này, tức là ngăn ác và diệt ác pháp thì tâm ta không còn lỗi lầm. Tâm không còn lỗi lầm là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm vô lậu, là tâm hết khổ đau.

Tu tập năm căn (TrợĐạo) Sống độc cư một mình là phương pháp tu tập năm căn. Nhờ sống độc cư một mình nên năm căn không tiếp xúc với các duyên năm trần bên ngoài mà kinh sách Phật giáo gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Muốn bảo vệ giữ gìn năm căn ấy được thanh tịnh thì tâm phải không phóng dật nên phải sống độc cư một mình.

Tu tập nhập “Nhị Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “Tư Ðà Hàm”. Ngoài pháp “Nhị Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tư Ðà Hàm” được.

Tu tập nhập “Sơ Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng quả Thánh “Tu Ðà Hoàn”. Ngoài pháp “Sơ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tu Ðà Hoàn” được.

Tu tập nhập “Tam Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “A Na Hàm”. Ngoài pháp “Tam Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A Na Hàm” được.

Tu tập nhập “Tứ Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “A La Hán vô lậu và hướng tâm đến Tam Minh”. Ngoài pháp “Tứ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A La Hán” được.

Tu tập Niệm Giác Chi (ĐườngVề.9) là tu tập Tứ Chánh Cần, bởi vì, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý, Ðịnh Niệm Hơi Thở tức là pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm

Tu tập pháp hướng tâm (ĐườngVề.5) Người mới tu tập thì pháp hướng tâm đi liền với hành động hít thở ra vô, để dễ nhiếp tâm. Nhưng khi chuyên sâu vào hơi thở cho đúng theo phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở thì pháp hướng tâm phải đi trước rồi hành động thở sẽ theo sau, cho nên trong bài kinh Thân Hành Niệm Ðức Phật dạy về hơi thở “sẽ” hít vô “sẽ” thở ra. Chữ “sẽ” có nghĩa là tác ý trước khi hít thở. Trong khi tu tập, hơi thở thứ năm dứt, ta nín thở tác ý. Sau khi tác ý xong ta mới hít vô và thở ra. Ðúng năm hơi thở lại tác ý một lần.

Tu tập pháp môn năm căn (TrợĐạo) là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho năm căn chạy theo năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chúng ta đạt được năm thành quả đó là ngũ lực.

Tu tập pháp môn Thân Hành Niệm (Phậtdạy.3)(CầnBiết.5) thì phải tu tập tác ý theo từng hành động thân hành niệm nội hay ngoại. Tu tập Thân Hành Niệmtức là tập luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo, chứ không phải sự tập trung tâm vào bước đi hoặc mọi hành động của thân để cho tâm không khởi niệm vọng tưởng, đó là sự tu tập sai lầm của các cư sĩ và tu sĩ trong bao thế kỷ nay, họ đã từng tu tập như vậy mà chẳng có ai đạt được ích lợi gì cho bản thân của mình và cho người khác. Còn tu tập rèn luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngay trên mỗi hành động của thân đều tỉnh giác, thiện hay ác đều biết, thường ngăn chặn và diệt trừ các ác pháp (tà niệm), để có chánh niệm sống trong thiện pháp, liền có sự giải thoát, khiến cho thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự.

Tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ (PhậtDạy.4)(TâmThư.2) thì phải để tâm tự nhiên quán trên thân và cũng để tự nhiên tâm sẽ nhiếp phục tất cả ưu phiền, chứ đừng dùng sức tập trung ức chế không niệm là sai. Tu đến đây phải thiện xảo linh động khéo léo, nhất là phải phòng hộ sáu căn trọn vẹn thì tâm mới xả sạch tham, sân, si, mạn, nghi, đừng ức chế tâm trên Tứ Niệm Xứ mà hãy để tâm tự nhiên, khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm còn độc thoại. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

Tu tập sự tu tập tâm như hư không (TruyềnThống.1) hãy nương vào hơi thở mà tác ý như câu này “Tâm tôi phải giống như hư không, không dung chứa một vật gì cả: tham, sân, si cũng không dung chứa; phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét cũng không dung chứa; bệnh tật khổ đau, sanh tử gần kề một bên tâm cũng không dung chứa...”, tôi biết tôi hít vô và thở ra”. Hay tác ý một câu khác như:“Tâm tôi như hư không nhất định không dung chứa ác pháp và dục, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”. Hằng ngày siêng năng tu tập như vậy thì tâm sẽ như hư không. Khi đi kinh hành hay làm bất cứ một công việc gì thì nên nương tâm theo hành động làm việc đó mà tác ý như trên thì một ngày không xa tâm sẽ trở thành hư không thật sự, có nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, phiền não và khổ đau nữa.

Tu tập sự tu tập về lòng từ (TruyềnThống.1) thì "an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.Như vậy cùng khắp thế gian, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quãng đại vô biên không hận không sân". Tu tập về lòng từ thì cái gì thuộc về sân tâm sẽ được trừ diệt. Từ tâm là một pháp môn trong tám pháp môn độc nhất của Phật giáo đưa người tu hành đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn mọi sự khổ đau của kiếp làm người. Pháp độc nhất thì phải được đặt trên một nền tảng đạo đức vững chắc, đó là “GIỚI LUẬT”.

Tu tập tâm hỉ vô lượng (TruyềnThống.2) là giữ gìn tâm lúc nào cũng hoan hỉ vui vẻ khi gặp ác pháp cũng như gặp thiện pháp. Muốn tu tập tâm hoan hỉ như vậy thì tất cả pháp đến phải chia ra làm ba loại. 1. Pháp ác 2. Pháp thiện 3. Pháp không thiện không ác. Ba pháp này đến khiến cho thân tâm bất an. Muốn cho thân tâm được an ổn khi gặp các pháp này thì chỉ còn cách theo pháp như lý tác ý: “Tâm hãy hoan hỉ trước tất cả các pháp dù các pháp ấy có cay đắng như thế nào; có ngọt ngào như thế nào; có đau khổ như thế nào, cũng nên xem nó là pháp hữu vi vô thường không đáng phải bận tâm". Hãy luôn luôn phải giữ gìn tâm vui vẻ, thanh thản, vô sự v.v.. xem như các pháp ấy không có mặt ở đây. Tu tập tâm hoan hỉ thì phải có lòng tha thứ và yêu thương, dù các pháp ấy có cực ác tột cùng, nhưng cũng nên mở rộng lòng yêu thương và tha thứ thật sự. Để mở rộng lòng thương yêu và tha thứ thật sự thì phải có một phương pháp giữ gìn tâm luôn luôn được hoan hỉ. Đó là pháp “như lý tác ý". Nhờ pháp như lý tác ý tâm luôn luôn được hoan hỉ sống trong cảnh nghịch cũng như cảnh thuận của đời người; nhờ pháp như lý tác ý mà tâm luôn được vui sống an tịnh. Muốn được sống giải thoát như vậy phải thường xuyên tác ý câu này: “Tâm hãy hoan hỉ sống an tịnh”.

Tu tập tâm vô lậu (ĐườngVề.3) đây là cốt lõi trên đường tu tập giải thoát của đạo Phật, tất cả pháp hành trong Phật Giáo đều nhắm vào một mục đích duy nhất là vô lậu. Những điều cần thiết vừa đủ để tu tập tâm vô lậu phải rất thiện xảo và phải luôn nhớ đừng quên: Lúc nào tu Ðịnh Vô Lậu để quán vô lậu; lúc nào tu Ðịnh Niệm Hơi Thở để quán vô lậu; lúc nào đi kinh hành để quán vô lậu; lúc nào làm việc để quán vô lậu; lúc nào tu Ðịnh Niệm Hơi Thở để tác ý vô lậu; lúc nào đi kinh hành để tác ý vô lậu, lúc nào làm việc để tác ý vô lậu.

Tu tập tâm vô lậu bằng pháp Như Lý Tác ý (CầnBiết.3) Muốn đạt được tâm vô lậu, như mùi hôi thối bằng pháp Như Lý Tác ý, phải dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Tâm phải bất động, mùi hôi thối là hương trần. Hương trần là pháp vô thường lúc có, lúc không ta chẳng hề sợ hãi. Hương trần hãy đi! Đi!!! Ta không hề sợ hãi ngươi”. Hoặc chúng ta tác ý câu khác “Tâm phải thanh thản an lạc trước mùi hôi thối, tránh né là hèn yếu”... Khi tu tập để diệt trừ lậu hoặc với tri kiến, với phòng hộ, với thọ dụng, với kham nhẫn, với tránh né, với trừ diệt và với tu tập, thì đều phải dùng pháp Như Lý Tác Ý. Nếu không dùng pháp Như Lý Tác Ý mà tu tập bảy pháp trên đây để diệt lậu hoặc thì đó là ức chế tâm, chứ không phải đoạn diệt lậu hoặc.

Tu tập Thân Hành Niệm cho tâm thật định tỉnh trên thân hành (ĐườngVề.5) thì Xả Giác Chi sẽ xuất hiện, Xả Giác Chi xuất hiện thì mới giúp xả sạch tâm tham, sân, si... tức là trên pháp Thân Hành Niệm ly dục ly ác pháp để vào Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Dùng ý thức tu tập pháp Thân Hành Niệm để ly dục ly ác pháp, đó là tu tập cho ý thức thanh tịnh, tu tập cho ý thức chánh niệm, cho ý thức tỉnh giác, cho ý thức định tỉnh, chứ không có tâm thanh tịnh ở chỗ này. Ðạo Phật lấy“Thân Hành" mà tu tập cho tâm được tỉnh thức. Nhờ tâm tỉnh thức mà thấu suốt được lý nhân quả vô thường, do thấu suốt được lý nhân quả vô thường nên các pháp ác không tác động vào thân tâm được. Do các pháp ác không tác động vào thân tâm được nên tâm định tỉnh; tâm định tỉnh tức là tâm không phóng dật. Khi tâm không phóng dật là tâm giải thoát; tâm giải thoát là tâm có đủ Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi là bảy năng lực giúp chúng ta làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Pháp của Phật là pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp chứ không phải pháp tập trung tâm để nhập định. Chánh định của Phật muốn nhập được là phải có Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi có được là nhờ ý thức ly dục ly ác pháp, tức là ý thức thanh tịnh.

Tu tập thiền định của Phật giáo (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(Tạoduyên)(TâmThư.2) là ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, có nghĩa là sống trong các pháp dù thiện hay ác mà không bị pháp nào làm tâm dao động được, đó là đang tu tập thiền định, chứ không phải ngồi trong thất ức chế tâm cho hết vọng tưởng là tu tập thiền định, tu tập như vậy là tu tập tà thiền, tà định. Đối với Phật giáo, muốn tu tập thiền định phải tu học giới luật đức hạnh, xả sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm mới thanh tịnh. Từ chỗ tâm thanh tịnh đó làm cơ sở cho tu tập thiền định. Mới là tu tập đúng thiền định của Phật giáo. Tâm thanh tịnh chưa phải là thiền định. Tu tập thiền định của Ðạo Phật chỉ để làm chủ sanh già bệnh chết, và chấm dứt tái sanh luân hồi. Khi tu tập phải dùng pháp môn Tứ Chánh Cần (tức là Tấn Lực, là Ðịnh Tư Cụ, là giới hành của Ðạo Phật) mới nhập được Sơ Thiền.

Tu tập thiền định Ðịnh Vô Lậu (12Duyên) của đạo Phật: Khi có niệm khởi lên, ta quán xét niệm ấy có làm khổ mình, khổ người không? Nếu niệm ấy đưa đến khiến ta phiền não, khiến ta mất an vui, thanh thản, cũng như niệm đó khiến cho người khác mất an vui thanh thản, thì đó là niệm ác. Khi ta biết nó là niệm ác thì niệm ấy liền biến mất, nếu không biến mất thì ta dùng pháp như lý tác ý diệt ngay niệm ác đó; nếu nó còn tới lui thì ta tiếp tục quán xét cho thông suốt để trừ bỏ, xả ly và đoạn dứt. Khi trừ bỏ, xả ly, đoạn tận niệm ác thì sự thanh tịnh của tâm và các thiện pháp sẽ hiện tiền trước mắt, tâm sẽ được hoàn toàn an lạc và thanh thản. Chúng ta quán xét cố gắng ly tầm dục và ác pháp dù chúng ta có mỏi mệt nhưng phải cố gắng tiếp tục phán xét để ly tầm dục và ác pháp cho được. Sự mỏi mệt cũng là một ác pháp, vì thế chúng ta đừng nên dao động tâm mà tiếp tục sự tu hành đẩy lui các chướng ngại pháp trong đó có pháp mỏi mệt. Sự mệt mỏi đến mức độ nào đó là nội thân ta tự nhiên phản xạ hoặc ta quán xét trấn an và định tỉnh tâm, tức là tâm không dao động về sự mỏi mệt, khi đó ta liền đạt được nhất tâm. Chúng ta quán xét để ly dục ly ác pháp (tầm dục) thì chúng ta đạt được nhất tâm. “nếu suy tư, quán xét nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm… “Ta phát tâm dũng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tỉnh, nhất tâm”.

Tu tập thiện pháp (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) tức là giữ gìn giới luật nghiêm túc, làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Tu tập thiền ức chế tâm (Phậtdạy.3) nhiếp phục và ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, là khi ngồi thiền không có vọng tưởng, còn lúc xả thiền ra là đủ thứ vọng tưởng, tưởng danh, tưởng lợi, tưởng ăn uống và sắc dục.

Tu tập thiền xả tâm (PhậtDạy.4) (tu tập nhóm 6 oai nghi: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) thì phải nương vào những oai nghi mà đức Phật đã dạy: 1/ Khi đi biết mình đi. 2/ Khi đứng biết mình đứng. 3/ Khi liếc ngó hai bên. 4/ Khi co duỗi cúi ngước. 5/ Khi đắp y, mang bát. 6/ Khi ăn uống thuốc men đều phải nhẹ nhàng phù hợp với oai nghi, phải khéo tìm phương tiện từ bỏ năm ấm cái, cho đến đứng, ngồi, nằm, thức, ngủ, nói năng hay im lặng đều phải nhiếp tâm không cho tán loạn.

Tu tập thủy giới hành (TruyềnThống.1) là tu tập sự tu tập như tính của nước, ví như trong nước người ta rửa đồ bất tịnh, rửa đồ tịnh, rửa sạch phân uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch mủ, rửa sạch máu, v.v... tuy vậy nước không lo âu, không dao động, không nhàm chán. Khi tu tập tâm như tính của nước thì chúng ta nên tác ý tu tập hằng ngày như tác ý câu:“Tâm như nước phải mát lạnh trước mọi ác pháp” hoặc “Tâm như nước phải rửa sạch tham, sân, si, như rửa sạch các chất bẩn vậy”. Khi tác ý như vậy thì nên lắng tâm để cảm nhận tâm lúc bấy giờ nghe như mát lạnh, nghe như dễ chịu trong thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu lắng nghe tâm như nước thanh thản, an lạc và vô sự, đó là nước đã rửa đồ dơ uế trược, bất tịnh, nước đã rửa tất cả các ác pháp.

Tu tập tỉnh thức (ĐườngVề.10) bằng pháp thân hành niệm phá sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký (phá tâm si ám). Tâm si ám bị triệt tiêu thì chánh niệm mới hiện tiền, có chánh niệm thì ác pháp không xen vào được, ác pháp không xen vào được thì tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, mà tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là giải thoát của Phật giáo.

Tu tập tỉnh thức để ở trong chánh niệm (Phậtdạy.3) thì luôn luôn nương vào thân hành niệm nội hay ngoại mà tập luyện với pháp môn như lý tác ý. Ví dụ: Nương vào hơi thở tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”,hay nương vào bước đi mà tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành”hay theo từng mỗi bước đi tác ý “Ly tham, ly sân, ly si, ly nghi, ly mạn”.

Tu tập Tứ Chánh Cần (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.6)(Đường Về.7) là ngăn ác pháp và diệt ác pháp, ngăn ác pháp và diệt ác pháp, tức là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp, tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm hướng vào trong thân, nói cách khác là tâm định trên thân. Tâm định trên thân, tức là “gom ý thức diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền”. Tu tập Tứ Chánh Cần có bốn phần: 1- Ngăn ngừa các ác pháp, giúp tâm không phóng dật theo các pháp bên ngoài. 2- Ðoạn diệt các ác pháp, quyết tâm tận diệt các ác pháp, khi các ác pháp làm chướng ngại tâm, làm cho tâm phiền não và khổ đau. 3- Luôn luôn giữ gìn và bảo vệ tâm trong thiện pháp, không để tâm bị ác pháp xâm chiếm. 4- Lúc nào cũng tìm mọi cách để tâm được thanh thản, an lạc và vô sự. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tu tập bốn loại định: 1/ Ðịnh Niệm Hơi Thở, 2/ Ðịnh Vô Lậu, 3/ Ðịnh Sáng Suốt, 4/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. (Nên nhớ luôn luôn tu các định này phải kết hợp với pháp như lý tác ý). Tu tập Tứ Chánh Cần là “ngăn” và “diệt” các ác pháp để luôn luôn “sinh” thiện “tăng trưởng” thiện pháp. Nên lưu ý những danh từ: “ngăn” và “diệt”; “sinh” và “tăng trưởng”. “Ngăn” nghĩa là ngăn ngừa, ngăn chặn,ngăn cản không cho vào. “Diệt” nghĩa là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại. “Sanh” nghĩa là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất. “Tăng trưởng” nghĩa là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.

Tu tập Tứ Niệm Xứ (Phậtdạy.3)(PhậtDạy.4)(ĐườngVề.3)(Đường Về.7)(TrợĐạo)(CầnBiết.5) là tu tập để tâm thanh thản an lạc và vô sự tự nhiên chứ không được bắt buộc ức chế tâm giữ gìn thanh thản, an lạc và vô sự. Mục đích của Tứ Niệm Xứ là khắc phục đẩy lui những điều làm cho thân, thọ, tâm, pháp bất an, cho nên có vọng niệm hay cảm thọ đến là dùng câu tác ý đuổi đi, không cần phải dùng câu pháp hướng dài dòng, chỉ ngắn gọn đủ nghĩa. Tu tập Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu. Nên lưu ý những danh từ: “quán, nhiếp phục, tham ưu”. “Quán”nghĩa là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận. “Nhiếp phục” nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không còn giận hờn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. “Tham ưu” nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp. Khi ngồi tu có những trạng thái gì xảy ra đều do tưởng cả, nên tác ý : “tưởng hành lui đi”, đuổi đi là đúng. Khi tu tập Tứ Niệm Xứ, bị trạo cử thì nên tác ý nhắc tâm đuổi ác pháp đó đi. Do ý thức chủ động điều khiển tâm nên không bị tưởng lôi. Tình trạng trạo cử thân tâm là do nghiệp nhân quả cộng thêm tưởng uẩn tác động vào thân tâm. Do đó, dùng ý thức tác ý dẹp trạo cử tức là chuyển nghiệp nhân quả. Chuyển nghiệp nhân quả tức là dẹp luôn tưởng uẩn, cho nên dù tưởng uẩn có biết nó cũng phải ra đi theo nghiệp. Tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vậy hãy học và tu tập về các phần trên thân, thọ, tâm và pháp. Thứ nhất: Quán thân có nghĩa là luôn luôn tỉnh giác trên thân, biết rõ thân có xảy ra những cảm thọ gì, ở đâu, chỗ nào trên thân, nhờ tỉnh giác như vậy các bạn sử dụng đúng pháp để nhiếp phục những cảm thọ ấy không còn tác động vào thân các bạn được nữa. Thứ hai: Quán các cảm thọ có nghĩa là tỉnh giác trên thân biết rõ thân đau bệnh gì, nhức mỏi chỗ nào, nhờ đó các bạn mới đối trị và nhiếp phục đẩy lui chúng ra khỏi thân của các bạn bằng phương pháp như lý tác ý và an trú tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại. Đây là phương pháp làm chủ bệnh trong pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có Phật giáo mới có mà thôi. Thứ ba: Quán tâm có nghĩa là xem rất kỹ về tâm, tâm đang động hay tâm đang tịnh, tâm đang tịnh là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Còn khi nào tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự là tâm rơi vào hai trạng thái một là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không; hai là tâm đang phóng dật, phóng niệm. Khi tâm rơi vào hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không thì hãy nhớ giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh đừng để vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào và tu tập pháp môn Thân Hành Niệm. Nếu tu tập đúng như vậy thì hôn trầm, thùy miên, ngoan không sẽ không còn nữa. Trong Định Niệm Hơi Thở có hai đề mục phá hôn trầm thùy miên vô ký tuyệt vời, đó là “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Đề mục thứ hai: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Khi vận dụng hơi thở dài tức là hơi thở chậm thì hôn trầm cũng không bén mảng đến thân tâm các bạn được. Thứ tư: Quán các pháp có nghĩa là xem xét rất kỹ về các pháp đang tác động vào thân tâm của các bạn, những pháp ấy làm cho thân tâm của các bạn bất an, thì các bạn dùng pháp phòng hộ các căn. Khi phòng hộ các căn thì các pháp sẽ không xâm chiếm vào thân tâm của các bạn được. Trong định Niệm Hơi Thở có hai đề mục phòng hộ thân tâm của các bạn rất tuyệt vời, đó là: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” Hai đề mục trên đây muốn có kết quả tốt và hiệu nghiệm thì các bạn hãy siêng năng tu tập cho chứng đạt được sự an trú vào hơi thở. Trên đây là cách thức tu tập quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp trong pháp môn Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải dùng pháp như lý tác ý quét chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp bằng 18 đề mục của Ðịnh Niệm Hơi Thở, phải thiện xảo áp dụng đúng cách. Chỉ tu tập Tứ Niệm Xứ khi tâm hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng. Nếu tâm còn hôn trầm loạn tưởng thì không nên tu tập Tứ Niệm Xứ.

Tu tập về giới hành nhãn căn (TruyềnThống.1) Khi học tu giới hành con mắt ta nên in đậm trong trí và quyết chắc, tin chắc con mắt là vật vô thường, là sự khổ đau, không phải của ta, không phải là ta, không phải là bản ngã của ta.

Tu tập về tâm hỷ (TruyềnThống.1) cái gì thuộc về bất lạc sẽ được diệt trừ. Tu tập tâm hỷ thì "an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm kết hợp với hỷ quảng đại vô biên không hận, không sân". Sự tu tập tâm hỷ, có nghĩa là phải luôn luôn tác ý lòng hân hoan đối với vạn vật chỗ nào cũng có lòng hân hoan. Do chỗ nào cũng có lòng hân hoan, nên các ác pháp và chướng ngại pháp sẽ được hóa giải không còn tác dụng vào thân tâmchúng ta

Tu tập xả tâm (TâmThư.1)(TâmThư.2) là một lợi ích rất lớn mà nó đã thể hiện hai phần: - Lợi ích thứ nhất là giúp cho hành giả sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả, thường không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, để trở thành những bậc thánh thiện trong loài người. - Lợi ích thứ hai là giữ gìn và bảo vệ chân lí “tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự”. Nếu tâm tâm bất động ấy luôn luôn hiện tiền thì hành giả chứng quả A La Hán. Sự xả tâm ly dục ly ác pháp có một tầm quan trọng nhất trên con đường tu tập theo Phật giáo. Tu tập xả tâm thì có hai pháp: 1-Quán nhân quả, 2- Quán từ bi.

Tu tập xả tâm có đối tượng (ĐườngVề.3) rất thực tế và cụ thể. Cách thức tu tập xả tâmnày rất khó, nếu là người có chí, có nhiệt tâm, có nhiệt huyết tìm đường tu hành để giải thoát đau khổ của cuộc đời thì một thời gian ngắn đã giải thoát hoàn toàn, đắc định và chứng Tam Minh không có khó khăn. Bằng ngược lại thì đau khổ nhiều, tâm thường sanh oán hận, người này đang sống trong cảnh địa ngục và cuối cùng cuộc đời tu hành của họ cũng chẳng có ích gì cho chính bản thân họ, lại càng làm cho họ khổ đau hơn. Tu tập xả tâmcó đối tượng tức là tu tập Tứ Chánh Cần. Tu xả tâmcó đối tượng là người phải có nghị lực, dũng cảm, gan dạ, kiên nhẫn, bền chí. Luôn luôn chiến đấu, nhưng quyết định phải giành được phần thắng về mình, nhất định là không chịu thất bại trước các ác pháp nào cả. Tu xả tâmcó đối tượng tuy khó, nhưng kết quả dễ nhận ra và nhận ra rõ ràng, cụ thể. Tu tập xả tâmcó đối tượng không sợ bị ức chế tâm, không sợ lạc vào thiền tưởng, nhưng phải tránh sự chịu đựng. Tu tập xả tâmcó đối tượng dễ phát triển tri kiến giải thoát, vì phải thường xuyên quán xét, tư duy, suy nghĩ, làm việc nhiều về trí óc. Phát triển tri kiến giải thoát tức là phát triển trí tuệ đạo đức nhân bản - nhân quả.

Tu tập chứng quả A La Hán (TâmThư.2) Muốn chứng quả A La Hán làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi và có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông thì tu tập không được nhiếp tâm ỨC CHẾ Ý THỨC diệt trừ vọng tưởng. Vì ức chế ý thức là tu tập sai pháp thiền định của Phật giáo. Hiểu rõ được điều này thì người nào tu tập cũng đều chứng quả A La Hán dễ dàng, chứ không phải chỉ những người có thượng căn, lợi căn mới tu tập được, còn những người trung, hạ và độn căn thì tu tập chẳng được. Ở đây không cần thượng, lợi, trung, hạ và độn căn mà chỉ có NHIỆT TÂM biết sống đúng giới luật đức hạnh, biết xả sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì người nào cũng luyện tập Tứ Thần Túc được dễ dàng. Cho nên chứng quả A La Hán là do các con, do phước báu của chúng sinh, chứ không phải do Thầy. Phật giáo còn hay mất không phải Thầy, Thầy không có trách nhiệm bảo vệ nó mà trách nhiệm bảo vệ nó là của các con và chúng sinh. Vì đó là quyền lợi của các con, của chúng sinh, chứ Thầy chẳng có quyền lợi gì trong đó nữa vì Thầy đã tu xong. Chỉ vì thương xót các con và chúng sinh mà Thầy ra công dựng lại giáo pháp chân chánh của Phật để giúp cho các con và chúng sinh mà thôi, còn chánh pháp này mất hay còn là do các con và chúng sinh. “GIỚI LUẬT” chính là A La Hán. Người tu chứng quả A La Hán còn nhân quả với chúng sanh trong hiện tại, chứ tương lai thì chấm dứt, đường đi nước bước chứng quả A La Hán Thầy đã viết rất rõ ràng, qua những kinh sách và những bức tâm thư Thầy gửi cho mọi người trong nước cũng như ở nước ngoài là đủ sức cho họ tu tập chứng quả A La Hán.

Tu tập Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác (ĐườngVề.1) giúp ta tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám và thường sống trong thiện pháp.

Tu tập Ðịnh Vô Lậu (ĐườngVề.1) giúp ta sống trong chánh niệm diệt trừ tà niệm.

Tu tập đức tùy thuận (ThiềnCănBản) là một việc làm khó khăn vô cùng, chỉ có sống ly dục, tránh các duyên, và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn thì mới có thể ly dục, ly ác pháp dễ dàng mà thôi.

Tu tập đúng cách (CầnBiết.3) là tu tập xả tâm, xả tâm đúng cách tức là phải khéo léo thiện xảo, tu tập đúng cách là không bao giờ ức chế tâm. Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tu trước pháp nào tu sau.

Tu tập Giới Luật (PhậtDạy.2) là giai đoạn tu quán: dùng tri kiến giải thoát mà nhìn mọi sự vật tức là Chánh Tri Kiến; dùng tri kiến giải thoát tư duy suy nghĩ mọi sự vật, mọi pháp, tức là Chánh Tư Duy.

Tu tập hành động Thân Hành (MuốnChứngĐạo) là Tỉnh Thức trong Thân Hành, Ý tứ cẩn thận mỗi hành động của thân. Muốn được tỉnh thức trong Thân Hành thì nên tu tập 19 đề mục Hơi thở trong pháp môn Định Niệm Hơi Thở, vì pháp môn Định Niệm Hơi Thở đã dạy phương pháp tu tập rất rõ ràng từ sơ cơ đến đạt được tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Tu tập kỹ lưỡng (PhậtDạy.4) là siêng năng nhiều. nhưng siêng năng phải đúng cách (Chánh tinh tấn) tu cho có chất lượng, luôn luôn phải để ý xem kết quả trong sự tu tập có đạt được chất lượng tốt hay không, còn siêng năng không đúng cách (Tà tinh tấn) là tu tập lấy có, tu tập không kỹ lưỡng, tu tập không cân nhắc từng hành động, từng hơi thở, từng tâm niệm, từng ác pháp, từng hoàn cảnh, v.v... Càng tu tập kỹ lưỡng tức là càng cân nhắc từ hành động tỉnh giác tu tập để ngăn và diệt ác pháp và các dục.

Tu tập ly dục ly ác pháp (PhậtDạy.2) biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm, ngăn ngừa không cho sáu trần xúc chạm với sáu căn. Lỡ sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ thì cố gắng giữ tâm không hề giao động trước ba cảm thọ. Do biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm như vậy thì đó là tu tập ly dục ly ác pháp. Tu tập ly dục ly ác pháp tức tu tập thiền của Phật giáo (Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền do ly dục sinh hỷ lạc). Nếu hằng ngày chuyên cần làm những công việc này, tức là ngăn ác và diệt ác pháp thì tâm ta không còn lỗi lầm. Tâm không còn lỗi lầm là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm vô lậu, là tâm hết khổ đau.

Tu tập năm căn (TrợĐạo) Sống độc cư một mình là phương pháp tu tập năm căn. Nhờ sống độc cư một mình nên năm căn không tiếp xúc với các duyên năm trần bên ngoài mà kinh sách Phật giáo gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Muốn bảo vệ giữ gìn năm căn ấy được thanh tịnh thì tâm phải không phóng dật nên phải sống độc cư một mình.

Tu tập nhập “Nhị Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “Tư Ðà Hàm”. Ngoài pháp “Nhị Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tư Ðà Hàm” được.

Tu tập nhập “Sơ Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng quả Thánh “Tu Ðà Hoàn”. Ngoài pháp “Sơ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tu Ðà Hoàn” được.

Tu tập nhập “Tam Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “A Na Hàm”. Ngoài pháp “Tam Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A Na Hàm” được.

Tu tập nhập “Tứ Thiền” (PhậtDạy.2) là tu tập để chứng Thánh quả “A La Hán vô lậu và hướng tâm đến Tam Minh”. Ngoài pháp “Tứ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A La Hán” được.

Tu tập Niệm Giác Chi (ĐườngVề.9) là tu tập Tứ Chánh Cần, bởi vì, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý, Ðịnh Niệm Hơi Thở tức là pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm

Tu tập pháp hướng tâm (ĐườngVề.5) Người mới tu tập thì pháp hướng tâm đi liền với hành động hít thở ra vô, để dễ nhiếp tâm. Nhưng khi chuyên sâu vào hơi thở cho đúng theo phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở thì pháp hướng tâm phải đi trước rồi hành động thở sẽ theo sau, cho nên trong bài kinh Thân Hành Niệm Ðức Phật dạy về hơi thở “sẽ” hít vô “sẽ” thở ra. Chữ “sẽ” có nghĩa là tác ý trước khi hít thở. Trong khi tu tập, hơi thở thứ năm dứt, ta nín thở tác ý. Sau khi tác ý xong ta mới hít vô và thở ra. Ðúng năm hơi thở lại tác ý một lần.

Tu tập pháp môn năm căn (TrợĐạo) là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho năm căn chạy theo năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chúng ta đạt được năm thành quả đó là ngũ lực.

Tu tập pháp môn Thân Hành Niệm (Phậtdạy.3)(CầnBiết.5) thì phải tu tập tác ý theo từng hành động thân hành niệm nội hay ngoại. Tu tập Thân Hành Niệmtức là tập luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo, chứ không phải sự tập trung tâm vào bước đi hoặc mọi hành động của thân để cho tâm không khởi niệm vọng tưởng, đó là sự tu tập sai lầm của các cư sĩ và tu sĩ trong bao thế kỷ nay, họ đã từng tu tập như vậy mà chẳng có ai đạt được ích lợi gì cho bản thân của mình và cho người khác. Còn tu tập rèn luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngay trên mỗi hành động của thân đều tỉnh giác, thiện hay ác đều biết, thường ngăn chặn và diệt trừ các ác pháp (tà niệm), để có chánh niệm sống trong thiện pháp, liền có sự giải thoát, khiến cho thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự.

Tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ (PhậtDạy.4)(TâmThư.2) thì phải để tâm tự nhiên quán trên thân và cũng để tự nhiên tâm sẽ nhiếp phục tất cả ưu phiền, chứ đừng dùng sức tập trung ức chế không niệm là sai. Tu đến đây phải thiện xảo linh động khéo léo, nhất là phải phòng hộ sáu căn trọn vẹn thì tâm mới xả sạch tham, sân, si, mạn, nghi, đừng ức chế tâm trên Tứ Niệm Xứ mà hãy để tâm tự nhiên, khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm còn độc thoại. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

Tu tập sự tu tập tâm như hư không (TruyềnThống.1) hãy nương vào hơi thở mà tác ý như câu này “Tâm tôi phải giống như hư không, không dung chứa một vật gì cả: tham, sân, si cũng không dung chứa; phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét cũng không dung chứa; bệnh tật khổ đau, sanh tử gần kề một bên tâm cũng không dung chứa...”, tôi biết tôi hít vô và thở ra”. Hay tác ý một câu khác như:“Tâm tôi như hư không nhất định không dung chứa ác pháp và dục, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”. Hằng ngày siêng năng tu tập như vậy thì tâm sẽ như hư không. Khi đi kinh hành hay làm bất cứ một công việc gì thì nên nương tâm theo hành động làm việc đó mà tác ý như trên thì một ngày không xa tâm sẽ trở thành hư không thật sự, có nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, phiền não và khổ đau nữa.

Tu tập sự tu tập về lòng từ (TruyềnThống.1) thì "an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.Như vậy cùng khắp thế gian, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quãng đại vô biên không hận không sân". Tu tập về lòng từ thì cái gì thuộc về sân tâm sẽ được trừ diệt. Từ tâm là một pháp môn trong tám pháp môn độc nhất của Phật giáo đưa người tu hành đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn mọi sự khổ đau của kiếp làm người. Pháp độc nhất thì phải được đặt trên một nền tảng đạo đức vững chắc, đó là “GIỚI LUẬT”.

Tu tập tâm hỉ vô lượng (TruyềnThống.2) là giữ gìn tâm lúc nào cũng hoan hỉ vui vẻ khi gặp ác pháp cũng như gặp thiện pháp. Muốn tu tập tâm hoan hỉ như vậy thì tất cả pháp đến phải chia ra làm ba loại. 1. Pháp ác 2. Pháp thiện 3. Pháp không thiện không ác. Ba pháp này đến khiến cho thân tâm bất an. Muốn cho thân tâm được an ổn khi gặp các pháp này thì chỉ còn cách theo pháp như lý tác ý: “Tâm hãy hoan hỉ trước tất cả các pháp dù các pháp ấy có cay đắng như thế nào; có ngọt ngào như thế nào; có đau khổ như thế nào, cũng nên xem nó là pháp hữu vi vô thường không đáng phải bận tâm". Hãy luôn luôn phải giữ gìn tâm vui vẻ, thanh thản, vô sự v.v.. xem như các pháp ấy không có mặt ở đây. Tu tập tâm hoan hỉ thì phải có lòng tha thứ và yêu thương, dù các pháp ấy có cực ác tột cùng, nhưng cũng nên mở rộng lòng yêu thương và tha thứ thật sự. Để mở rộng lòng thương yêu và tha thứ thật sự thì phải có một phương pháp giữ gìn tâm luôn luôn được hoan hỉ. Đó là pháp “như lý tác ý". Nhờ pháp như lý tác ý tâm luôn luôn được hoan hỉ sống trong cảnh nghịch cũng như cảnh thuận của đời người; nhờ pháp như lý tác ý mà tâm luôn được vui sống an tịnh. Muốn được sống giải thoát như vậy phải thường xuyên tác ý câu này: “Tâm hãy hoan hỉ sống an tịnh”.

Tu tập tâm vô lậu (ĐườngVề.3) đây là cốt lõi trên đường tu tập giải thoát của đạo Phật, tất cả pháp hành trong Phật Giáo đều nhắm vào một mục đích duy nhất là vô lậu. Những điều cần thiết vừa đủ để tu tập tâm vô lậu phải rất thiện xảo và phải luôn nhớ đừng quên: Lúc nào tu Ðịnh Vô Lậu để quán vô lậu; lúc nào tu Ðịnh Niệm Hơi Thở để quán vô lậu; lúc nào đi kinh hành để quán vô lậu; lúc nào làm việc để quán vô lậu; lúc nào tu Ðịnh Niệm Hơi Thở để tác ý vô lậu; lúc nào đi kinh hành để tác ý vô lậu, lúc nào làm việc để tác ý vô lậu.

Tu tập tâm vô lậu bằng pháp Như Lý Tác ý (CầnBiết.3) Muốn đạt được tâm vô lậu, như mùi hôi thối bằng pháp Như Lý Tác ý, phải dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Tâm phải bất động, mùi hôi thối là hương trần. Hương trần là pháp vô thường lúc có, lúc không ta chẳng hề sợ hãi. Hương trần hãy đi! Đi!!! Ta không hề sợ hãi ngươi”. Hoặc chúng ta tác ý câu khác “Tâm phải thanh thản an lạc trước mùi hôi thối, tránh né là hèn yếu”... Khi tu tập để diệt trừ lậu hoặc với tri kiến, với phòng hộ, với thọ dụng, với kham nhẫn, với tránh né, với trừ diệt và với tu tập, thì đều phải dùng pháp Như Lý Tác Ý. Nếu không dùng pháp Như Lý Tác Ý mà tu tập bảy pháp trên đây để diệt lậu hoặc thì đó là ức chế tâm, chứ không phải đoạn diệt lậu hoặc.

Tu tập Thân Hành Niệm cho tâm thật định tỉnh trên thân hành (ĐườngVề.5) thì Xả Giác Chi sẽ xuất hiện, Xả Giác Chi xuất hiện thì mới giúp xả sạch tâm tham, sân, si... tức là trên pháp Thân Hành Niệm ly dục ly ác pháp để vào Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Dùng ý thức tu tập pháp Thân Hành Niệm để ly dục ly ác pháp, đó là tu tập cho ý thức thanh tịnh, tu tập cho ý thức chánh niệm, cho ý thức tỉnh giác, cho ý thức định tỉnh, chứ không có tâm thanh tịnh ở chỗ này. Ðạo Phật lấy“Thân Hành" mà tu tập cho tâm được tỉnh thức. Nhờ tâm tỉnh thức mà thấu suốt được lý nhân quả vô thường, do thấu suốt được lý nhân quả vô thường nên các pháp ác không tác động vào thân tâm được. Do các pháp ác không tác động vào thân tâm được nên tâm định tỉnh; tâm định tỉnh tức là tâm không phóng dật. Khi tâm không phóng dật là tâm giải thoát; tâm giải thoát là tâm có đủ Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi là bảy năng lực giúp chúng ta làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Pháp của Phật là pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp chứ không phải pháp tập trung tâm để nhập định. Chánh định của Phật muốn nhập được là phải có Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi có được là nhờ ý thức ly dục ly ác pháp, tức là ý thức thanh tịnh.

Tu tập thiền định của Phật giáo (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(Tạoduyên)(TâmThư.2) là ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, có nghĩa là sống trong các pháp dù thiện hay ác mà không bị pháp nào làm tâm dao động được, đó là đang tu tập thiền định, chứ không phải ngồi trong thất ức chế tâm cho hết vọng tưởng là tu tập thiền định, tu tập như vậy là tu tập tà thiền, tà định. Đối với Phật giáo, muốn tu tập thiền định phải tu học giới luật đức hạnh, xả sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm mới thanh tịnh. Từ chỗ tâm thanh tịnh đó làm cơ sở cho tu tập thiền định. Mới là tu tập đúng thiền định của Phật giáo. Tâm thanh tịnh chưa phải là thiền định. Tu tập thiền định của Ðạo Phật chỉ để làm chủ sanh già bệnh chết, và chấm dứt tái sanh luân hồi. Khi tu tập phải dùng pháp môn Tứ Chánh Cần (tức là Tấn Lực, là Ðịnh Tư Cụ, là giới hành của Ðạo Phật) mới nhập được Sơ Thiền.

Tu tập thiền định Ðịnh Vô Lậu (12Duyên) của đạo Phật: Khi có niệm khởi lên, ta quán xét niệm ấy có làm khổ mình, khổ người không? Nếu niệm ấy đưa đến khiến ta phiền não, khiến ta mất an vui, thanh thản, cũng như niệm đó khiến cho người khác mất an vui thanh thản, thì đó là niệm ác. Khi ta biết nó là niệm ác thì niệm ấy liền biến mất, nếu không biến mất thì ta dùng pháp như lý tác ý diệt ngay niệm ác đó; nếu nó còn tới lui thì ta tiếp tục quán xét cho thông suốt để trừ bỏ, xả ly và đoạn dứt. Khi trừ bỏ, xả ly, đoạn tận niệm ác thì sự thanh tịnh của tâm và các thiện pháp sẽ hiện tiền trước mắt, tâm sẽ được hoàn toàn an lạc và thanh thản. Chúng ta quán xét cố gắng ly tầm dục và ác pháp dù chúng ta có mỏi mệt nhưng phải cố gắng tiếp tục phán xét để ly tầm dục và ác pháp cho được. Sự mỏi mệt cũng là một ác pháp, vì thế chúng ta đừng nên dao động tâm mà tiếp tục sự tu hành đẩy lui các chướng ngại pháp trong đó có pháp mỏi mệt. Sự mệt mỏi đến mức độ nào đó là nội thân ta tự nhiên phản xạ hoặc ta quán xét trấn an và định tỉnh tâm, tức là tâm không dao động về sự mỏi mệt, khi đó ta liền đạt được nhất tâm. Chúng ta quán xét để ly dục ly ác pháp (tầm dục) thì chúng ta đạt được nhất tâm. “nếu suy tư, quán xét nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm… “Ta phát tâm dũng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tỉnh, nhất tâm”.

Tu tập thiện pháp (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) tức là giữ gìn giới luật nghiêm túc, làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Tu tập thiền ức chế tâm (Phậtdạy.3) nhiếp phục và ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, là khi ngồi thiền không có vọng tưởng, còn lúc xả thiền ra là đủ thứ vọng tưởng, tưởng danh, tưởng lợi, tưởng ăn uống và sắc dục.

Tu tập thiền xả tâm (PhậtDạy.4) (tu tập nhóm 6 oai nghi: đi, đứng, liếc ngó, co duổi, đắp y mang bát, ăn uống thuốc men) thì phải nương vào những oai nghi mà đức Phật đã dạy: 1/ Khi đi biết mình đi. 2/ Khi đứng biết mình đứng. 3/ Khi liếc ngó hai bên. 4/ Khi co duỗi cúi ngước. 5/ Khi đắp y, mang bát. 6/ Khi ăn uống thuốc men đều phải nhẹ nhàng phù hợp với oai nghi, phải khéo tìm phương tiện từ bỏ năm ấm cái, cho đến đứng, ngồi, nằm, thức, ngủ, nói năng hay im lặng đều phải nhiếp tâm không cho tán loạn.

Tu tập thủy giới hành (TruyềnThống.1) là tu tập sự tu tập như tính của nước, ví như trong nước người ta rửa đồ bất tịnh, rửa đồ tịnh, rửa sạch phân uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch mủ, rửa sạch máu, v.v... tuy vậy nước không lo âu, không dao động, không nhàm chán. Khi tu tập tâm như tính của nước thì chúng ta nên tác ý tu tập hằng ngày như tác ý câu:“Tâm như nước phải mát lạnh trước mọi ác pháp” hoặc “Tâm như nước phải rửa sạch tham, sân, si, như rửa sạch các chất bẩn vậy”. Khi tác ý như vậy thì nên lắng tâm để cảm nhận tâm lúc bấy giờ nghe như mát lạnh, nghe như dễ chịu trong thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu lắng nghe tâm như nước thanh thản, an lạc và vô sự, đó là nước đã rửa đồ dơ uế trược, bất tịnh, nước đã rửa tất cả các ác pháp.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.