• lailamtoduong1
  • daytusi
  • benthayhocdao
  • amthat3
  • thanhanhniem3
  • lopbatchanhdao
  • ThayTL
  • phattuvandao1
  • ttl1
  • vandao2
  • tinhtoa2
  • tinhtoa1
  • ttl3
  • thanhanhniem1
  • chanhungphatgiao
  • thanhanhniem2
  • tamthuphattu
  • amthat1
  • vandaptusinh
  • tranhducphat
  • huongdantusinh
  • toduongtuyetson
  • amthat2
  • quetsan
  • khatthuc1
  • phattuvandao3
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Am thất
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
JGLOBAL_PRINT

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT - SINH HOẠT SA DI

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)


PHƯƠNG THỨC SINH HOẠT XUẤT GIA

Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề chánh của bài học giáo án. Phương thức sinh hoạt xuất gia Phật giáo có nhiều phương thức qua nhiều giai đoạn tu tập chứ không có một giai đoạn mà đạt được ngay liền mục đích giải thoát.

Thứ nhất là chúng ta vì lí do liễu sanh thoát tử, làm chủ sanh tử để chấm dứt luân hồi không còn chi phối trong kiếp con người nữa. Khi một người vào trong lộ trình này họ sẽ gặp khó khăn vì đi ngược dòng đời, không còn chạy theo dục lạc thế gian được nữa. Do vì vậy mà họ phải chấp nhận ở trong cuộc sống đó để liễu sanh thoát tử, nếu họ thấy sống như vậy quá khổ khi khép vào Thập Giới Sa di thì chắc chắn họ không thể sống nổi.

Hầu hết chúng ta cũng đi tìm liễu sanh thoát tử nhưng không thể bước vào Thập Giới Sa di nổi cho nên phải có lí do rất chơn chánh của tư tưởng rất mạnh mẽ liễu sanh thoát tử, phải ở trong ước vọng đó. Chúng ta phải đặt mạnh tâm chúng ta làm sao thoát ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ này, làm sao phải liễu sanh thoát tử, làm sao chấm dứt được sự luân hồi. Đó là lí do thứ nhất của người bước qua lộ trình thứ hai này. Chúng ta biết đời sống của lộ trình thứ hai này không còn sống như đời sống thế tục được mà phải sống rất khắc khổ trong giới thiểu dục tri túc vì chúng ta biết thiểu dục là cái nghiệp xuất thế của chúng ta.

Lí do thứ hai là cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục, nghĩa là chúng ta biết tttự nỗ lực tu giải thoát cho mình rồi sẽ đem sự hiểu biết, sự lợi ích đó dẫn dắt mọi người cũng được giải thoát như mình. Dẫn dắt những người mê luyến ở trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục, mở ra pháp môn thức tỉnh giải độc cho họ. Lí do này chỉcó người tu xong mới thực hiện được, tự mình có kinh nghiệm thực chứng cụ thể mới cứu giúp người khác được. Còn người tu chưa xong mà lập luận như vậy thì chỉ là biện luận để che đậy. Lập luận Bồ Tát Hạnh là lập luận che đậy tâm người tu chưa chứng bị cám dỗ của danh sắc làm mờ mắt. Những người tu chưa xong chỉ có tri kiến thế gian thôi, tri kiến thế gian có thể làm hại cho nhiều người, có thể đưa lại tai hại khôn lường cho mình và cho người. Trong nhiều kinh tán thán hạnh bồ tát sẽ làm chúng ta bị lầm lạc, khiến cho đời tu hành của chúng ta không đi tới đâu. Ở đây cũng có một vị làm trụ trì xác nhận lời Thầy đúng hoàn toàn, bao nhiêu việc người trụ trì phải giải quyết mà cho là lập Hạnh Bồ Tát, không còn thời gian cho mình tu tập.

Lí do thứ hai này là một biện luận che đậy tâm tham danh lợi của chính mình, mà cũng là bịp người nữa. Người tu chưa xong lấy câu nói cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục để bịp người rất rõ ràng. Còn khi người đó tu chứng xong, liễu sanh thoát tử được rồi thì câu nói đó từ tâm từ của họ lưu xuất ra để thương xót tất cả chúng sanh. Lí do thì chính đáng cho người chứng đạo, nhưng người tu chưa chứng đạo mà lấy lí do cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục thì chẳng khác người mù dẫn đoàn người mù, tất cả đều gặp nạn tai.

Và cũng vì lí do thứ hai này mà có người lợi dụng nó để kinh doanh tôn giáo. Có câu chuyện thế này có hai người giàu có ở thôn quê ra thành phố làm ăn. Một người kinh doanh bằng cách mở một nhà hàng, còn người kia lập một cái chùa thờ Phật, rồi mời giảng sư có danh tiếng thuyết pháp, sau tự học hiểu Phật pháp rồi tự mình thuyết pháp nên có danh tiếng và mở thêm nhiều chùa khắp nhiều nơi. Rõ ràng người kinh doanh nhà hàng không bằng người kinh doanh tôn giáo. Người ta có thể lợi dụng tôn giáo làm danh làm lợi. Nhưng cũng có nhiều người lập chùa với tấm lòng lành muốn đem lại lợi ích cho mọi người trong việc làm thiện. Nhưng họ tu chưa chứng mà dựa vào lí do thứ hai này với câu nói "cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục" là không đúng giáo lí, vì đức Phật không cho người tu chưa xong mà đi độ người. Chỉ người nào có tâm từ vô lượng như ông Punna mới được Phật chấp nhận đi độ người. Đức Phật không trắc nghiệm thần thông pháp thuật hay thiền định mà trắc nghiệm thiện pháp nhân quả.

Cũng như Thầy viết giáo án này là muốn cho Phật pháp cửu trụ, muốn cho người ta hiểu được Phật pháp, theo pháp thiện tu hành, muốn cho người ta hiểu được những lí hành để thực hiện cho rốt ráo đường tu. Nhưng khi viết xong mà không ẩn bóng thì Thầy chấp danh chấp lợi. Vì họ không dựa vào giới luật là thầy của họ như đức Phật dạy, mà khi họ hiểu giáo pháp lại dựa vào Thầy. Thầy chỉ là người vẽ ra lộ trình trong giới luật để triển khai giới luật giúp họ hiểu rõ giới luật rồi họ tự đi, chứ Thầy không phải là thầy của họ. Giới luật mới là vị thầy của họ vì đức Phật đã hoàn chỉnh mọi khía cạnh.

Cho nên khi Thầy ẩn bóng thì quý thầy cũng có lộ trình giới luật rõ ràng để tu, mà Thầy đã vạch ra qua kinh nghiệm tu của mình và quý thầy cứ sống đúng giới luật và tu tập đúng theo giáo án thì quý thầy sẽ đến, chứ không cần ai hướng dẫn hết, vì đạo Phật là đạo tự mình, chính đức Phật ngày xưa cũng tự mình cứu mình. Nay đức Phật đã để lại giới luật để chúng ta nương vào giới luật, lấy đó làm cuộc sống, lấy đó làm ra pháp hành cho chúng ta tiến vào con đường giải thoát; thì như vậy đời đời kiếp kiếp chúng ta không thay đổi ông thầy, lúc nào chúng ta cũng có ông thầy giới luật. Giáo án của Thầy chỉ là lộ trình thực tế và cụ thể để mọi người xuất gia có lộ trình tu hành giải thoát, chấm dứt sanh tử luân hồi. Đó là mục đích của giáo án. Thầy chỉ lấy kinh nghiệm của mình tu tập được, rồi dựng lại những gì mà người ta không làm được và đã bỏ quên. Nếu chúng ta hiểu lầm lạc điều kiện thứ ba này mà ngồi đón nhận danh lợi thì coi chừng.

Khi một người xuất gia tu hành phải có ba ý nghĩ này: 1/ Đối với chính mình phải cầu giải thoát sanh tử. 2/ Đối với người khác là cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục. 3/ Đối với Phật pháp là vì trụ trì hoằng dương (làm sáng tỏ lại con đường tu, truyền kinh nghiệm của mình cho vài người làm niềm tin cho kẻ khác về đường lối đã vạch ra). Ba điều này phải có đủ, thiếu một thì không hoàn chỉnh được, nhưng vị thầy đã vạch ra được giáo án phải khéo léo để khỏi bị danh lợi che mắt. Vị thầy đã giải thoát rồi thì vị này biết thời điểm nào ông còn ở trong ba ngôi tam bảo này, lúc nào ẩn bóng, lúc nào thị tịch.

Xuất gia mà chẳng tự cầu giải thoát sanh tử thì chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà chẳng cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục ấy là trái với tinh thần Phật giáo. Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp ấy là cô phụ cái ân lớn của tam bảo. Ba lí do trên thì lí do thứ nhất được chấp nhận cho người mới tu, còn hai lí do sau là cho người tu xong, người đang tu không được nghĩ đến vì sẽ tai hại khó đo lường cho người đó và Phật pháp sẽ mất lối giải thoát chỉ còn lại hình thức mà thôi. Người chưa tu xong mà nghĩ tới độ chúng sanh thì chỉ còn hình thức tu hành chứ không còn thực chất giải thoát. Người xuất gia phải buông bỏ hết tất cả, thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã trường đảng. Vì thế ở đời, ít có người làm được.

Nhưng có một số người tu theo kiểu Phật giáo thời đại hiện nay bảo những người tu theo kiểu này là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác. Đúng nghĩa người xuất gia đạo Phật phải chính mình buông bỏ sạch, trắng bạch như vỏ ốc, chỉ còn 3 y 1 bát. Nếu người này không tích cực từ bỏ thì không bao giờ từ bỏ được, vì chính bỏ hết mới hết tai họa và mới hết đau khổ. Tội ác và đau khổ của con người đâu phải chẳng toàn do con người không chịu buông xuống và không sáng suốt mà tạo ra ư? Người xuất gia là người sáng suốt biết buông xuống hết danh lợi, can đảm buông xuống hết tư dục. Như thế đâu thể gọi là tiêu cực, chỉ người tích cực mới làm được. Muc đích xuất gia của đạo Phật là tự mình cầu giải thoát, và khi tu xong trợ giúp cho người khác giải thoát, lấy việc tự cứu mình rồi sau cứu người và mọi người đều được giải thoát như mình.

Quý thầy phải hiểu xuất gia là việc làm của bậc đại trượng phu, chẳng phải việc mà quan tướng có thể làm được. Nghĩa là việc làm quan, làm vua không phải là việc của bậc đại trượng phu, vì việc làm quan, làm vua  không buông xuống mà tích lũy, đem vào thêm. Việc buông xả xuống hết mới là việc của đại trượng phu. Quan tướng điển hình là anh hùng hào kiệt; bậc đại trượng phu điển hình là thánh hiền. Anh hùng hào kiệt dựa vào khí thế mà thành, Thánh hiền dựa vào khí chất mà thành. Nghĩa là muốn làm hào kiệt thì dựa vào khí thế tạo cho mình mạnh lên, còn muốn làm thánh hiền thì bám vào khí chất mà tạo thành. Khí chất là sự buông xả để tạo cho mình thành toàn thiện pháp. Trong khí chất của thánh hiền hàm dung cả khí thế của hào kiệt vì phải có khí thế mạnh mới buông xả hết được; nhưng trong khí thế của hào kiệt không có khí chất của thánh hiền vì hào kiệt giết hại nhiều người, hào kiệt không có bản chất toàn thiện. Vì thế người xuất gia theo đạo Phật lấy Phật làm điển hình để noi theo, Phật vì giải thoát sanh già bệnh chết của chúng sanh mà tu, chỉ có xuất gia tu chứng mới giải đáp được sanh già bệnh chết ưu bi sầu khổ.

Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo trên nguyên tắc là phải sống y như Phật, nghĩa là phải ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ người thân yêu, bà con quyến thuộc.Đó là đi ra khỏi nhà sanh tử cả thân và tâm. Cho nên đi hoàn toàn trên lộ trình thứ hai của người xuất gia rất khó vì phải vượt ra khỏi tình cảm, ra khỏi nhân quả. Tu theo đạo Phật tốt nhất là nên xuất gia lúc tuổi còn trẻ vì lúc đó sức khỏe sung mãn mới sống nổi thiểu dục tri túc, li dục li bất thiện pháp, sống cảnh ăn ngày một bữa thiếu thốn mọi mặt.

Nếu vì thất bại trên đường tình ái hay thất bại trong việc gây dựng sự nghiệp mà xuất gia thì Phật giáo vẫn tiếp nhận, không cự tuyệt, nhưng không cổ xúy những người này vì họ không phải xuất gia để liễu sanh thoát tử mà chỉ để lãng quên chuyện tình cảm hay thất bại trong việc làm ăn danh lợi. Tâm tư của họ là người chạy theo dục lạc thế gian mà đạo Phật là đạo dứt bỏ thế gian.

CÁC LOẠI SA DI

Như quý thầy đã học, lộ trình thứ hai của đạo Phật có 5 hạng chúng, nhưng trong giai đoạn này chỉ có 3 hạng: Sa di, Sa di ni, và Thức Xoa Ma Ni hay Thức Xoa Ma Na (giai đoạn 2 năm sau của Sa di niro). Trong nhà Phật gọi chung là Tam tiểu chúng, tức là ba chúng nhỏ.

Giới luật của Sa di và Sa di ni có 10 điều, giống nhau hoàn toàn; chỉ về giới oai nghi đại chúng học mới có sự khác biệt: Sa di học theo luật nghi của Tỳ kheo còn Sa di ni học theo luật nghi của Tỳ kheo ni.

Theo chữ Phạn, chữ Sa di hay Sa di ni có 3 nghĩa: 1- Tích từ, 2- Cần sách, 3- Cầu tịch. Tích từ là dứt ác hành thiện. Cần sách là khuyến khích siêng năng trên đường dứt ác hành thiện. Cầu tịch là cầu đạo niết bàn và quả viên tịch giải thoát. Sa di bao hàm cả ba nghĩa: tích từ, cần sách và cầu tịch. Một người xuất gia tu hành mà cầu tịch là đúng nghĩa của đạo Phật. Một người vì thất tình thất vọng mà đi tu thì làm sao đúng nghĩa được.

Nội dung của Bát Quan Trai Giới có đủ 9 điều của Sa di giới, chỉ còn thiếu giới "Không cất giữ tiền bạc, quý kim" mà thôi. 10 giới Sa di gồm:

1.- Không sát sanh.

2.- Không trộm cắp.

3.- Không dâm dục. (ngũ giới của cư sĩ thì Không Tà Dâm)

4.- Không vọng ngữ.

5.- Không uống rượu.

6.- Không đeo tràng hoa, chuổi hạt.

7.- Không ca hát và xem ca hát.

8.- Không nằm, ngồi giường cao rộng lớn.

9.- Không ăn phi thời.

10.- Không cất giữ tiền bạc, quý kim, châu báu.

9 giới đầu của Giới Sa di, Thầy đã giảng trong thọ Bát Quan Trai giới, nay Thầy giảng thêm giới thứ 10 của Giới Sa di.

Ở đây quý thầy phải hiểu người xuất gia phải phá trừ tâm tham, phá trừ thói quen. Người ta thường nói con người chết vì của cải, có người lại nói con người không sống được ngàn năm mà lo tính chuyện vạn năm. Sự ham muốn tích chứa của cải của con người có thể nói là bản tính. Có 100 mong muốn 1,000, có 1,000 thì mong có 10,000, ... mong muốn làm người giàu có nhất, mong muốn lủng đoạn kinh tế thế giới... muốn cả thế giới thuộc sở hữu của mình.

Đạo Phật là đạo buông xả nên không chấp nhận sự giàu có tiền tài, của cải. Của cải có thể tạo phước cho con người. Đó là một lẻ thật, không thể phủ nhận được. Nhưng của cải có thể trở thành chủ nhân của loài người, và con người trở thành nô lệ cho của cải cũng là sự thật không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng biết của cải là vật ngoài thân, xem của cải là một vật ở ngoài thân. Vậy mà bỏ của cải lại là một điều ít ai bỏ được. Do thế chúng ta phải biết của cải dù ít hay nhiều, nó vẫn có khả năng sai khiến loài người, cho nên người xuất gia trong đạo Phật chủ trương buông xả sạch, không tích tụ của cải. Vì thế, giới luật của Phật xem hành vi cất giữ của cải tài sản là hành vi phạm giới.

Sự tham muốn của con người đối với sự chiếm hữu tài sản của cải càng mãnh liệt thì sự trói buộc của của cải vật chất thế gian càng chặt chẻ. Biết như thế nên muốn cho đệ tử xuất gia của mình đừng bị dính mắc của cải, vì của cải tiền bạc làm biến động tâm, của cải tiền bạc khiến khởi tâm tham: tham đắm, tham mê cho nên đức Phật mới chế giới cấm không cất giữ tiền bạc châu báu. Khi đã thấy tánh chất trói buộc của của cải vật chất thế gian đối với con người thì nên buông xả của cải. Buông xả của cải thì đừng nghĩ cuộc sống của mình gian khổ vì nghĩ như vậy là chưa buông xả, mà phải nghĩ thân là vô thường không có gì thường hằng thì mới xả hết của cải được.

Quý thầy nào đã có tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, quán xét Ngũ Triền Cái thì bây giờ mới thấy thấu suốt được, mới buông xuống được. Cho nên việc tu Chánh Niệm Tỉnh Thức rất quan trọng để quét sạnh tâm tham. Quét sạch tâm tham thì những vật chất tiền bạc mới buông xuống hết. Nếu không tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chúng ta không sáng suốt, cứ ngở là chúng ta đã buông xuống nhưng không ngờ nó vẫn còn dính. Không tu thì thôi mà đã tu thì phải tu cho thật tu, tu cho rốt ráo, cho thành đạt, cho giải thoát. Người tu theo đạo Phật xem của cải như đồ vô dụng. Giữa ngày ăn một bữa sau khi đi khất thực từng nhà, ngủ đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân của người tu sĩ. Ở Ấn Độ là miền nhiệt đới, thân cây to lớn nên ngủ dưới gốc cây như ngủ trong lọng thiên nhiên. Đức Phật đã từng sống 3 y có thể đủ ấm trong đêm đông lạnh nhất ở xứ Ấn Độ. Nhưng khi Phật giáo truyền bá khắp nơi thì phải tùy theo xứ sở mà người tu sĩ nên có thêm y áo mùa đông vừa đủấm hay mùng màn ngăn muổi mòng.

Phong tục Ấn Độ lúc xưa đem bỏ thây người chết trong nghĩa địa lộ thiên cho chim thú ăn hay thây người chết tự thối sình tan rả chỉ còn xương trắng, do đó người tu chỉ cần nhặt các loại vải quấn thây ma hay quần áo của thây ma đó giặt sạch, kết chúng lại làm y cho mình nên gọi là phấn y tảo. Nhưng người sau này lấy vải nguyên cắt vụn ra rồi may lại làm giống như y phấn tảo, họ đã làm mất ý nghĩa của y phấn tảo chân thật. Hơn nữa việc may nhiều miếng như thế chỉ thực hiện được theo công nghệ may mặc ngày nay. Theo Thầy nghĩ đó là sự giả dối, vả lại đem tấm vải nguyên cắt vụn ra rồi ghép lại, như vậy không còn đúng với y phấn tảo ngày xưa. Tu tâm chứ không phải tu trên tấm y mặc đó. Nếu đức Phật còn tại thế, hẳn Ngài phải bật cười trước sự suy nghĩ của các sư ngày nay. Lấy hình thức phấn tảo ở ngoài mà không sống với phấn tảo trong tâm.

Phấn tảo có nghĩa là quét sạch hết, bỏ sạch đi, lượm đồ của người bỏ mà mặc. Bắt chước nhưng không thấu lí mà tu hành nên biến ra sự tu hành bằng hình thức theo kiểu đó, như vậy không đúng ý nghĩa của y phấn tảo. Muốn mặc y phấn tảo đúng thì nên đi lượm giẻ rách, vải vụn của thợ may bỏ ra, chứ đừng mua vải lớn rồi cắt ra, rồi ghép lại, thì đó chỉ là hình thức. Đúng nghĩa của y phấn tảo là đi lượm vải bỏ không còn dùng làm gì được. Đất nước mình không có vải bó thây ma quăng trong rừng, nên chỉ có thể đi xin vải bỏ của thợ may hay xin giẻ lau tay dính dầu nhớt của thợ máy, về giặt rồi kết lại làm y phấn tảo. Chúng ta tu không theo hình thức nên chỉ không tham y áo tốt đẹp, sang trọng, mà chỉ cầu có y che thân cho đủ kín,cho đủ ấm.

Xin quý thầy nghe luật sư Thánh Nghiêm giới thiệu cho chúng ta biết: Những người xuất gia của Phật giáo ngày càng đông. Thể chất của họ có người thì tráng kiện, có người thì yếu đuối; tập tánh của họ thì có người có sống đạm bạc, có người không chịu nổi phong sương, thậm chí có người mang tạp khí tham rất nặng cho nên xúc tích của cải nhưng có người không tham nên không muốn xúc tích của cải. Luật sư Thánh Nghiêm có ý cho do thể chất, tính khí tu sĩ khác nhau vì vậy phải giảm nhẹ, hay nới lỏng giới luật, bỏ bớt cái này, bỏ bớt cái khác cho phù hợp từng người.

Thầy xin xác định lập trường của tu sĩ của đạo Phật: Nếu tu được thì lập hạnh thiểu dục tri túc, nếu tu không được thì đừng đổ thừa thể chất của mình không hợp hạnh thiểu dục tri túc, hay tính khí thế này thế khác mà vi phạm giới luật. Nếu tự thấy mình không lập hạnh thiểu dục tri túc của người xuất gia được thì đừng xuất gia, cứ ở trong lộ trình của cư sĩ mà tu, đừng để thế gian chê cười người xuất gia của đạo Phật. Hạng người không lập hạnh thiểu dục tri túc của người xuất gia được thì tu hành chẳng tới đâu, tu mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời, đừng ham qua bậc khác khi không sống đúng hạnh của bậc đó. Vào tu mà sợ ăn ngày một bữa, sợ ngủ ít, sợ không được nói chuyện, sợ nắng sợ mưa, sợ không còn giữ được của cải tài sản, sợ xa nhà, xa người thân thương. Nếu đã xuất gia mà còn sợ những cái này thì xin hãy trả áo tu sĩ lại cho Phật giáo để đạo được thanh tịnh, trong sạch. Hãy về sống đời cư sĩ; người tu sĩ phải thực hiện hạnh thiểu dục tri túc, phải buông xả dòng thế tục mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

Lối bào chửa của luật sư Thánh Nghiêm cho những tu sĩ phạm giới trong thế gian: "do đó đức Phật vì nhu yếu, dần dần cho phép chúng tăng có chùa chiền, có tịnh xá, có tăng phòng, cho xúc tích đồ cần dùng cho cuộc sống, cũng như khai mở cho phép được tiếp nhận của cải tiền bạc". Câu này là của luật sư Thánh Nghiêm cho rằng trong giới bổn đức Phật có ghi như vậy. Thật là già hàm lẽo mép, đức Phật không nói lời này mà bảo có nói. Luật sư Thánh Nghiêm đã phá giới tận cùng. Đức Phật dạy giới luật là ông thầy thanh tịnh mà thêm bớt như vầy là không còn thanh tịnh rồi. Mục đích chính của Phật chế ra giới luật là giúp chúng ta li dục li bất thiện pháp, nếu chúng ta sống đời sống không li dục thì làm sao li dục li bất thiện pháp được.

Thời đại chúng ta có rất nhiều ông luật sư như Thánh Nghiêm. Khi Phật pháp bị xen vào những bộ giới luật phá giới của Phật như vậy thì chúng ta làm sao tu đạt giải thoát. Những luật sư sau này không dựa vào giới kinh mà chỉ dựa vào giới bổn mà luận; giới bổn đâu phải là chỗ đáng tin cậy của chúng ta. Xin hãy sáng suốt, đừng cho người xưa đúng rồi theo đó mà luận thì sẽ sai hết. Đạo Phật vốn đem lại sự giải thoát cho mọi người bằng mục đích buông xả, li dục li ác pháp, thế mà không chịu xả lại xúc tích thêm thì thử hỏi có đúng đường lối tu hành của đạo Phật không?

Đây một đoạn khác của giới bổn của các giới sư: "Nhân vì tiền tệ là tài sản vật chất của nền văn minh nhân loại, nó có thể làm môi giới cho sự đổi chát. Thí chủ cúng dường cho người xuất gia các thứ như y áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang, nhưng trong nhà thí chủ thì không thể là một tiệm buôn vải, tiệm lương thực, xưởng chế tạo đồ dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở tiệm cũng không thể đủ các thứ này, cho dù có đủ đi nữa thì khi đem phẩm vật cúng dường cho người xuất gia cũng chưa ắt đã thích hợp với nhu cầu của người xuất gia. Do đó sự nhận tiền tệ của người xuất gia không thể tuyệt đối cấm ngăn được".

Mấy ông luật sư luận như vậy, cho rằng người thí chủ cư sĩ dù có mở siêu thị chăng nữa thì sự cúng dường cũng chưa chắc đã đúng nhu cầu của người xuất gia, cho nên không ngăn cấm việc người xuất gia nhận tiền bạc được, để ông ta có tiền mua sắm theo nhu cầu. Các luật sư này luận như vậy, họ đã phá Phật pháp đến tận cùng. Chính tâm tham tạo ra nhu cầu, cho nên khi có tiền thì chạy theo tâm tham, không thiểu dục tri túc, không theo nhân quả, không theo thuyết vô thường.

Đọc đoạn luận phá giới này của các luận sư, Thầy ngửi thấy mùi hương danh lợi bay nực nồng lan rộng khắp thế giới hiện nay. Chính mùi hương này nên giới tu sĩ Phật giáo tu hành chẳng tới đâu, tâm chưa li dục, còn nắm tiền bạc, còn tâm phàm phu thì tâm Phật thanh tịnh đâu tới với người đó được. Người có tiền để mua sắm theo nhu cầu ham muốn của mình thì làm sao tri túc thiểu dục được, họ chỉ như người cư sĩ tự do mua sắm mọi thứ theo ý muốn. Người xuất gia chỉ nói với người cư sĩ cúng dường cho mình về nhu cầu của mình chứ không nên cất giữ tiền bạc. Nếu người xuất gia có tiền mua sắm các thứ thì đâu còn thiểu dục tri túc nữa.

Muốn sống đúng hạnh thiểu dục tri túc thì phải không cất giữ tiền bạc vì đó là hạnh của người tu sĩ không để các pháp sai khiến mình, nói rõ hơn là không làm nô lệ cho các pháp, hay nói cụ thể là không để các pháp sai khiến tâm mình. Nói như trong các kinh Đại thừa là không để các pháp dính mắc tâm, nhưng không phải nói suông như Đại thừa, mà lập hạnh sống thực tế cụ thể thiểu dục tri túc để các pháp không dính mắc tâm. Khi tâm không dính các pháp thì tâm sẽ li dục li ác pháp, do đó mà con đường tu tập sẽ đạt được kết quả giải thoát.

Phật dạy li dục li ác pháp là để nhập Sơ Thiền, một thứ thiền rất cao quý của đạo Phật làm cho tâm được giải thoát không còn tái sanh luân hồi, một pháp môn cần thiết cho người tu sĩ sống đúng phạm hạnh giải thoát của đạo Phật. Phần đông các thầy bây giờ không lập hạnh này nên tâm chạy rong theo các pháp, tâm càng lúc càng sa đọa sống theo kiểu dục lạc thế gian, thật là đáng thương.

Quý thầy suy ngẫm: Người tu sĩ đã xuất gia đâu còn thích hội họp, đâu còn thích ăn uống, đâu còn thích áo quần lượt là, vải mới. Người tu sĩ đi lượm vải gói thây ma thì người đó đâu còn cái gì nữa mà gọi là nhu cầu, nghĩa là người tu theo đạo Phật lấy vải quấn thây ma kết lại làm y mặc thì có gì nữa mà gọi là nhu cầu. Các luận sư giới luật nói phải có tiền để mua sắm cho đúng nhu cầu. Người xuất gia theo đạo Phật rồi thì nhu cầu của họ không còn có nữa, họ có cái gì là sử dụng cái nấy cho cuộc sống của họ, còn không có thì họ phải tri túc thiểu dục, tức là không muốn cái gì khác ngoài cái họ đang có. Họ phải bằng lòng với cái họ đang có, không ước muốn gì khác. Có muốn là có nhu cầu, không muốn thì đâu có nhu cầu. Một vị tăng có đầy đủ cơm ăn áo mặc, không đòi hỏi gì hơn nữa thì vị đó thiểu dục tri túc.

Nếu vị đó ngày thì có cơm ăn, ngày không có, y áo bị rách bươm hết, phải chịu lạnh lẽo, nhưng vị đó không đòi hỏi gì hết thì vị đó sống thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là theo điều kiện hiện tại của vị đó. Có sống thiểu dục tri túc mới tu theo đạo Phật được. Nếu vị đó có ước muốn này kia thì vị đó không thiểu dục tri túc, không tu theo đạo Phật được. Có ước muốn là không thiểu dục tri túc, đó là những kẻ còn mang đầy tâm ham muốn. Có ước muốn mới đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu của mình, nhưng có bao giờ nhu cầu được thỏa mãn đầy đủ.

Người ta viện lí do Tam Bảo có thể tiếp thọ người khác; cho đến vị tu sĩ cũng có tiếp thọ. Nghĩa là sự tiếp thọ của Tam Bảo là chùa to tháp lớn, kinh sách nhiều; vị tu sĩ cũng cần có sự tiếp thọ như phải có cơm ăn áo mặc. Nhưng sự tiếp thọ phải ở trong hạnh thiểu dục tri túc, chứ không theo sự đòi hỏi của mỗi cá nhân, của mỗi sự sống. Trong giới bổn đưa ra nhu cầu không giới hạn, đó là hướng phá giới.

Tam Bảo tiếp thọ gì? Tam Bảo tiếp thọ không phải tiếp thọ chùa cao rộng lớn, không phải tiếp thọ chuông đồng chuông vàng, Phật tượng đồng, Phật tượng vàng, mà Tam Bảo tiếp thọ bằng thực hiện giới hạnh, giới đức, giới tuệ. Tam Bảo tiếp thọ bằng giới hạnh, giới đức, giới tuệ thì mới đúng, chứ không phải tiếp thọ trường cửu bằng sự đau khổ của chúng sanh vì sự tiếp thọ đó không phù hợp lòng từ bi của đạo Phật. Chúng ta chấp nhận chùa to đẹp, tượng quý báu dự phần giữ mạng mạch Phật pháp, nhưng qua hình ảnh những kỳ quan thế giới, chùa to tượng quý báu trong đó đã gom biết bao mồ hôi nước mắt đau khổ của chúng sanh.

Người cư sĩ tiếp thọ là tiếp thọ sự buông xả, người tu sĩ tiếp thọ sự tri túc thiểu dục. Dù là chùa tranh vách là đơn sơ mà hạnh của người tu đầy đủ thì quý trọng hơn chùa to sang như dinh thự của vua chúa. Khi chúng ta đã là tu sĩ rồi thì đâu thấy thiếu gì nữa, bởi chúng ta thấy cuộc sống không thật, tạm bợ; cái thân của chúng ta vô thường, khổ; dù có giàu sang cách mấy cũng khổ, mà dù có nghèo cách mấy, mực khổ cũng chỉ là vậy. Tại vì chúng ta chưa biết giữ tâm của mình thiểu dục tri túc cho nên thấy khổ, chứ nếu biết giữ thiểu dục tri túc thì chắc chắn hết thấy khổ.

Nguyên tắc của đạo Phật là không cho tự thọ, tự cất chứa tiền bạc hoặc các vật chất của thế gian. Vì không được tự thọ và được cất chứa tiền bạc nên hàng tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian mới chế ra pháp khuyết tịnh. Pháp khuyết tịnh là mời một người cư sĩ đến làm tịnh chủ, khi người tu sĩ thu nhận tiền bạc thì người tu sĩ nói tôi thay người cư sĩ kia thọ nhận chứ không phải chúng tôi, nghĩa là không phải người tu sĩ nhận mà người cư sĩ nhận. Nhưng đó chỉ là trên hình thức thôi. Người cư sĩ làm tịnh chủ đó không thật sự cất giữ tiền bạc, người cư sĩ chỉ làm bù nhìn chứng như vậy thôi, chính ông tu sĩ mới cất giữ tiền bạc và quyết định chi xài, người cư sĩ không hay biết và không can dự trong việc cất giữ và chỉ đạo chi tiêu. Nhìn cách thức như vậy thì pháp khuyết tịnh này không cần phải có.

Thật là lạ lùng trong giới bổn có những chế luật phá giới như vậy, vì có pháp khuyết tịnh mà người tu sĩ tham lam không biết chán, nghĩa là nhờ có pháp khuyết tịnh mà lòng tham của vị tu sĩ không có chừng mực, vì người tu sĩ nghĩ người cư sĩ cất chứ không phải mình. Trong giới luật Phật, sự không cất giữ tiền bạc có mục đích làm cho người tu sĩ đạt được tâm li tham, tâm thiểu dục tri túc giải thoát. Nhưng trong giới bổn có những điều trái với giới luật của Phật, làm người tu sĩ không li được dục, không li được bất thiện pháp.

Các luật sư còn nói tuy có pháp khuyết tịnh nhưng người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều. Nhưng sự thật không thể nào nói như vậy được, vì khi đã nhận một đồng rồi thì bao nhiêu cũng nhận được, khi đã không cất giữ tiền bạc thì dù bao nhiêu cũng không cất giữ. Lòng tham đã khởi thì càng ngày càng tăng, không thể bớt được.

Pháp khuyết tịnh bảo là cho phép người tu sĩ cất giữ tiền bạc nhưng không cất giữ nhiều, như có nhu cầu giữ tiền bạc chi phí thuốc thang, và chi phí sinh hoạt hằng ngày thì tự nhiên không ngại dùng pháp khuyết tịnh để tiếp thọ tiền bạc. Nhưng pháp khuyết tịnh này đã không hiểu được tâm lí con người. Người xuất gia tốt nhất không nên cất giữ tiền bạc. Nghe qua pháp khuyết tịnh rất có lí nhưng thực tế không thể được. Con người đâu phải là thánh nhân, đụng tới tiền bạc là có sự cám dỗ thu hút của nó thì biết bao nhiêu tiền bạc gọi là đủ, bao nhiêu tiền bạc thì gọi là nhiều.

Căn cứ sự quy định trong luật xuất gia, người xuất gia nương tựa chúng và sinh hoạt ở trong tăng đoàn. Tỳ kheo không được chính tay mình cầm nắm tiền bạc, sa di cũng không thể cầm nắm, cất giữ, chỉ có tịnh nhân ngũ giới (tịnh nhân là các cận trụ nam hay nữ là người mới vào tu đang ở trong chùa, còn cận sự nam hay nữ chỉ tới chùa làm công quả rồi về nhà mình ở) được chùa tin cậy giao cho trách nhiệm tiếp thọ bảo quản tiền bạc cho tăng đoàn. Nhưng điều này có khi gây cho chùa thiệt hại rất lớn vì người tịnh nhân này phát sinh lòng tham lấy hết. Do vậy ngày nay không giao cho tịnh nhân nào cất giữ tài sản tiền bạc của chùa, vì thế thường trụ tự viện có thể tiếp thọ nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm khắc, nghĩa là người lãnh đạo tự viện (trụ thế tăng, ni) phải cất giữ tiền bạc để chi phí cung cấp mọi nhu cầu của người sống trong tự viện. Nhưng khi thấy vị trụ thế tăng cất giữ tiền bạc thì các tăng khác cũng cất giữ tiền bạc.

Giữ cho không tham cũng đã khó rồi, chứ còn tuyệt đối không cho cất giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy ở ngày nay. Đúng vậy, trong giới bổn cũng đã xác định điều này rất khó. Khi có tiền bạc thì lòng tham khởi lên cho nên không li được dục. Muốn li dục li ác pháp, người xuất gia chẳng những không được cầm giữ tiền bạc và tất cả vật báu quý mà cũng không được cất dấu hay súc tích một tài sản nào hết, vì tiền bạc hay các vật quý báu làm tâm tham đắm khởi. Một khi tâm tham đắm khởi thì đó là tâm bị vật chuyển, do thế tâm khó giải thoát được.

Thuở xưa có một vị xuất gia vị này đã thấy suốt thế sự danh lợi nên ở ẩn một mình tu tập không thăm viếng ai mà cũng không tiếp ai đến thăm, nhưng vị ấy còn quý bình bát của mình. Có một đạo nhân biết khuyết điểm như vậy nên trong lúc vị này tham thiền đã đến gõ vào chiếc bát làm cho vị này xuất thiền, vội chạy ra. Đạo nhân nói: "Tôi biết ông tất cả đều buông xả hết, chỉ có cái bát này là chưa".

Cho nên phải xả hết, không còn gì cả mới không còn tham dục. Nói thì dễ nhưng thực hành không đơn giản. Nếu người xuất gia li được tất cả mọi vật lớn nhỏ thì người đó thực hành được giới hạnh rất cao quý. Đức Phật nhắm vào giới luật để dạy chúng ta, bởi chỉ có giới luật mới kiểm nghiệm được chỗ li của mình, nếu không có giới luật thì làm sao kiểm nghiệm được chỗ li. Còn cất giữ tiền bạc mà nói li dục li ác pháp thì lời nói đó là lời nói láo.

ĐẲNG VỊ CỦA CÁC LOẠI SA DI

Giáo hội đầu tiên lúc Phật còn tại thế, trong tăng đoàn không có sa di, sự xuất hiện của sa di trong Phật giáo sớm hơn một chút so với sự xuất hiện của tỳ kheo ni. Rahula là con của đức Phật xuất gia lúc mới bắt đầu có sa di, nghĩa là đứa bé đầu tiên thọ giới sa di là Rahula. Trước kia trong tăng đoàn chỉ có tỳ kheo thôi.

Quý thầy sẽ thấy trong giới bổn đặt điều đủ thứ để cho khác nhau, nó rườm rà vô cùng, chứ trong thời đức Phật rất đơn giản. Càng về sau người ta ảnh hưởng tôn giáo này tôn giáo kia bằng nghi lễ rồi họ đem nhét vào trong Phật giáo quá nhiều, cho nên ngày nay chúng ta tổ chức giới đàn hay tổ chức cái gì thì hầu như chúng ta đạt đích các tôn giáo khác chứ không phải của Phật giáo, bởi chúng ta nhìn kinh giới của Phật dạy đâu có các điều này.

Tăng đoàn của người xuất gia Phật giáo cũng tương tợ như tình hình của đại gia đình, nghĩa là trong tăng đoàn cũng như một đại gia đình, nhưng gia đình thì có ít người, còn trong tăng đoàn thì có nhiều người hơn. Người xuất gia ra khỏi nhà hữu vi của thế tục và vào nhà vô vi của xuất thế, nghĩa là từ nhà hữu vi qua nhà vô vi cho nên buông xả hết, chứ nếu còn một cái gì thì không được. Trong đại gia đình vô vi không tạo nghiệp sanh tử này có già có trẻ nhưng họ đối xử với nhau hòa hợp vui vẻ.

Sự tiếp nhận sa di vào tăng đoàn là tiếp nhận nhân tài của Phật giáo, Thầy muốn nói sự tiếp nhận sa di vào tăng đoàn Phật giáo là để mầm nhân tài của Phật giáo được tiếp nối. Sa di là người tiếp nối tăng đoàn sau này, nếu không có sa di thì khi mấy ông già chết hết rồi, còn ai tiếp nối đâu, tuổi trẻ đâu còn. Trong chúng của chúng ta ở đây được mười mấy người nhưng có già có trẻ chứ chỉ có già thôi thì khi người già chết hết rồi còn ai để được gọi là tăng đoàn nữa, như vậy là Tăng Bảo mất đi, cho nên trong chúng có người già người trẻ để đến khi người trẻ này lớn lên họ nhận người trẻ nữa và như vậy tăng già vẫn còn hoài, không mất, tăng thêm lực lượng mới sanh, nghĩa là có sa di thì mới tăng thêm lực lượng mới. Vì thế phần tử sa di làm chủ yếu cho tăng đoàn nối tiếp về sau. (Lập luận này không có sức thuyết phục: Tăng đoàn vẫn tiếp nhận tân tăng, các vị tân tăng này không phải chỉ là những ông già, cho nên lúc nào trong tăng đoàn cũng có người trẻ).

Phần chủ yếu của sa di là nhi đồng. Trong luật xuất gia dưới 7 tuổi không được xuất gia và trên 70 tuổi cũng không được xuất gia. Nhưng ta thấy trong thời đức Phật có những người trên 70 tuổi vẫn được cho thọ tỳ kheo. Do vậy ta thấy trong thời đức Phật, việc xuất gia rộng rải vô cùng miễn là người đó vào tu chứng đạo mà thôi, miễn làm sao cho người đó giải thoát là được, chứ không hạn chế tuổi tác. Thế mà trong giới bổn giới hạn rất nhiều. Một chú dưới 7 tuổi không cho xuất gia nhưng chú chỉ có 5 tuổi mà thần đồng thì sao, một chú 5 tuổi mà làm trưởng lão thì quý thầy nghĩ sao, nó còn đi bắt dế, thế mà nó chỉ cho ông thượng tọa là phải tu theo kiểu bắt dế của nó. Muốn bắt dế là phải đậy lỗ như thế này, đậy 5 lỗ như thế này và chừa lại 1 lỗ thì bắt được con dế. Nó nói chuyện tu mà chỉ nói chuyện bắt dế của nó. Vị thượng tọa đó tu quá lâu và lớn tuổi rồi mà tu không chứng nên đến hỏi chú sa di. Trước đó vị thượng tọa đó hỏi từng vị tỳ kheo trong tăng đoàn nhưng không ai chỉ, đến khi hỏi chú sa di thì chú chỉ theo kiểu bắt dế của chú: bịt hết các cửa, chỉ chừa một cửa thì bắt được cả 6 con dế. Sau này Thầy sẽ kể chuyện này cho quý thầy nghe. Một người tu rất lâu, học giáo lí rất thông thế mà nghe theo lời bày của chú sa di là chứng đạo quả Alahán liền. Bởi vậy Thầy nói thần đồng trưởng lão trong Phật giáo. Đức Phật nói phải gọi là trưởng lão khi người đó chứng đạo trong Phật giáo, dù người đó chỉ là sa di. Vị thượng tọa nghe và hiểu lời của chú sa di, bịt hết các căn của mình chỉ chừa ý căn, cuối cùng ông thượng tọa làm đệ tử của chú sa di 5 tuổi. Thầy thấy trong giới bổn có nhiều cái vô lí, như bắt hạn chế tuổi người ta như thế này. Lý do người quá trẻ tuổi làm sa di thì không thể chịu nổi cuộc sống xuất gia.

Thật ra trong tăng đoàn có cấm người cụt tay què chân thì không cho thọ giới tỳ kheo. Tại sao vậy? Tại vì trong tăng đoàn đi khất thực mà có những người cụt tay cụt chân thì người ngoài nói sao Phật giáo chỉ có những người què cụt. Nhưng trong sự bình đẳng của đạo Phật, chúng ta phải hiểu cụt tay cụt chân là cái nhân quả của người ta, chứ cái tâm của người ta đâu có tay chân mà cụt, chúng ta cũng dạy họ tu giải thoát được chứ không phải vì cụt tay cụt chân mà họ tu không giải thoát được. Thân là vô thường, đâu phải vì cái thân mà bỏ người ta như vậy, cho nên theo Thầy nghĩ dù ai có chê tăng đoàn chúng ta có những người cụt tay cụt chân cũng được, như vậy mới thấy chúng ta thương người chứ. Tại sao họ chế giới ra họ ngăn cản quá độ. Như quý thầy nghe một vị tỳ kheo bị bịnh cùi rụng từng lóng tay, lóng chân thì vị này ghê khiếp hơn người cụt tay cụt chân nhiều lần thế mà đức Phật vẫn cho ông ta vào tăng đoàn tu.

Thành phần của sa di chia làm 3 đẳng vị và 2 chủng loại.

Về đẳng vị có:

- 7 tuổi - 13 tuổi : gọi là khu ô sa di là sa di đuổi quạ đuổi chim.

- 14 tuổi - 19 tuổi: ứng pháp sa di từ 14 - 19 tuổi thực hiện pháp sa di mới đúng.

- 20 tuổi -70 tuổi: danh tự sa di, người từ 20-70 tuổi thọ giới sa di thì gọi danh tự sa di.

Về chủng loại có:

- Cạo tóc nhuộm áo nhưng chưa thọ giới sa di gọi là hình đồng sa di là chủng loại thứ nhất, nghĩa là hình dáng giống sa di mà chưa phải là sa di. Tức có lễ thế phác cạo tóc thì vẫn còn đang ở trong lộ trình cư sĩ, chưa phải lộ trình tu sĩ.

- Nếu khi thọ xong sa di thập giới thì gọi là pháp đồng sa di tức người từ 20 đến 70 tuổi thọ giới sa di xong thì gọi pháp đồng sa di, là chủng loại thứ hai.

Người độ cho sa di xuất gia không lấy sự độ đó làm quyền của mình đối với người sa di, và có sự hạn chế trong tư cách của người độ, thí dụ một vị hòa thượng mà có tư cách không đúng thì không được độ sa di, một vị Đại Đức hay Thượng Tọa không giữ giới cũng không được độ sa di nghĩa là người tu sĩ không đủ tư cách không được độ sa di. Tại sao vậy? Tại vì không đủ tư cách, giới luật không nghiêm túc mà độ thì sẽ làm mầm non nhân tài của Phật giáo bị hư hoại đi, làm cho mầm non đó bị thúi đi. Người độ cho sa di phải có tư cách đạo đức của vị tu sĩ, tức người có giới hạnh nghiêm chỉnh cho dù họ mới thọ tỳ kheo nhưng họ không vi phạm thập giới sa di thì ngay sau khi người này thọ giới cụ túc vẫn độ chú sa di được. Còn một vị sống liên tục trong đạo 30, 40, 60 năm mà giới hạnh sa di chẳng ra gì thì họ vẫn chưa đủ tư cách độ sa di.

Trong giới luật chỉ cho vị tỳ kheo có đủ 10 năm học giới luật và phải biết rõ ngũ pháp mới độ sa di được, nếu chẳng biết ngũ pháp thì chẳng được độ sa di, nghĩa là vị tỳ kheo sau khi thọ tỳ kheo phải 10 năm sau và phải biết rõ ngũ pháp mới độ sa di được. Ngũ pháp là 5 pháp:

1.- Phải thông hiểu sự lợi ích rộng lớn của giới luật tỳ kheo và tỳ kheo ni.

2.- Giải quyết được nghi vấn tội khinh, tội trọng đáng phạm của đệ tử, nghĩa là giải quyết được nghi vấn tội nặng tội nhẹ của các đệ tử của mình mới có thể độ sa di.

3.- Đệ tử ở phương xa có thể đủ sức khiến cho đệ tử quay về, nghĩa là đệ tử đi đâu xa mà gọi là phải về.

4.- Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác, nghĩa là một vị thầy phá được kiến chấp của đệ tử của mình thì mới độ sa di, còn nếu phá không được kiến chấp của họ thì không nên độ. Mình dạy giới luật mà nó cứ nghe những lời dạy của tà giáo ngoại đạo phá giới phá luật thì tốt hơn đừng nhận đệ tử vì mình phá không nổi kiến chấp tà ác của nó. Như quý thầy thấy Thầy không thể phá được kiến chấp đầy ắp trong đầu của họ về thiền tông, về tịnh độ tông nên trong suốt 17 năm Thầy không nhận đệ tử. Thầy thấy điều này rất chí lí, họ tu sao được thì tu.

5.- Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc như cha nuôi con, nghĩa là người biết thương đệ tử của mình như là một người cha thương con thì mình nên độ sa di.

Ngoài điều kiện căn bản của giới luật quy định đủ tư cách làm thầy, phải có đủ khả năng, đủ oai đức của mình để lôi những đệ tử có tà kiến, kiến chấp trở lại, thì năm điều kiện này không đơn giản. Trong giới luật mà đưa ra các điều kiện này thì thật khó cho một vị làm thầy, cho nên đừng thấy người ta muốn vô thọ sa di mà cho họ thọ, coi chừng sau khi cho họ thọ rồi thì giới luật Phật tan nát hết, họ không thực hiện được. Nếu không thấy 5 điều này mà độ người sẽ đắc tội đột kiết la (tác ác).

Muốn độ sa di phải đủ 5 điều theo giới kinh:

1.- Phải thông suốt 4 bộ A-Hàm.

2.- Phải biết giới, tức là mình phải thuộc giới kinh.

3.- Phải biết kinh tức là các kinh A-Hàm, hay kinh Nguyên thủy, hay kinh Đại Thừa.

4.- Phải có huệ tức là phải có trí tuệ.

5.- Phải có đức.

Như vậy trong kinh giới Phật dạy một người muốn độ sa di tu theo mình mình thì phải thông suốt 4 bộ A-Hàm, kế đó là giới luật, rồi phải thông các kinh khác, có trí tuệ, có đức hạnh. Một vị thầy muốn độ cho sa di thì vị này có đủ 5 điều này, có thêm điều kiện khác thì càng tốt. Ngoài ra còn có 5 điều nữa:

1.- Phải thọ trì giới, tức vị thầy đó phải giới luật nghiêm chỉnh.

2.- Phải không phạm giới.

3.- Phải nhẫn nhục.

4.- Phải hiểu suốt được kinh.

5.- Phải giữ gìn tất cả, tức là giữ gìn nghiêm chỉnh tất cả oai nghi tế hạnh của mình để cho người học trò mình noi theo.

Phật dạy người thầy phải thành tựu 10 pháp mới độ người xuất gia:

1. Vị thầy phải trì giới.

2. Học rộng A-tỳ-đàm luận tức là phải thông suốt A-tỳ-đàm luận.

3. Phải thông suốt các bộ luật Tỳ Ni, bởi có thông suốt mới thấy cái đúng cái sai trong các bộ giới luật. Nhưng hiện thời người ta chấp vào Tứ Phần Luật Tỳ Kheo nghi thức, người ta bắt tất cả Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni phải chấp vào bộ luật đó còn các bộ luật khác thì người ta thấy không quan trọng bằng bộ Tứ Phần Luật.

4. Học giới.

5. Học định.

6. Học tuệ.

Ở đây người ta hiểu giới học, định học, tuệ học theo kiểu ba pháp môn, nhưng không phải như vậy, mà giới định tuệ là ba giới kinh, như Thầy đã giảng, ba giới kinh có giới hạnh, giới đức và giới tuệ, ứng vào giới định tuệ, còn giới bổn chỉ bổ túc cho giới học mà thôi tức là oai nghi tế hạnh, tức là giới hạnh thôi. Vậy mà người ta hiểu giới khác với giới kinh cho nên đây là sự lầm lạc của người sau.

7. Có thể cho người xuất tội nghĩa là người thầy có thể xuất tội cho người phạm tội, cho người đó sám hối tội của họ.

8. Có thể săn sóc bịnh và sai người săn sóc bịnh nghĩa là mình tự thân săn sóc bịnh cho sa di, hay sai người tỳ kheo khác săn sóc mà họ không dám cải lời mình.

9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi hoặc giải cứu nạn cho họ.

10. Đủ 10 tuổi hạ thì mới đủ điều kiện cho người khác mới vào thọ cụ túc giới tỳ kheo.

Tóm lại một thầy Tỳ kheo muốn độ người tu phải đủ hai điều kiện:

1. Vị Tỳ kheo phải đủ 10 năm giới nạp.

2. Thông hiểu hai bộ luật Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.

Tỳ kheo cũng chỉ có thể độ sa di không được độ sa di ni vì chính ngày xưa đức Phật cũng không độ sa di ni hay tỳ kheo ni.

Trong Luật Tác-Bà-Đa-Xĩ-Na có nêu ra những sự việc này: Tỳ kheo chỉ có thể độ cho sa di chứ không được độ cho sa di ni, chính đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Đức Phật ngày xưa từng độ cho nhiều tỳ kheo và hai người sa di là Nanda và Yassa nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng, nghĩa là nữ chúng tu tập thì Phật chưa từng đứng ra độ. Nhưng theo các kinh giới, Thầy thấy các người đến nghe pháp sau đó muốn làm cư sĩ tại gia hay muốn xuất gia chỉ nói lên 3 lần xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng xin cho con trở thành cư sĩ (ưu-bà-tắc hay ưu-bà-di) như vậy tức là đức Phật đã đứng ra thọ nhận người nữ đó làm cư sĩ chứ gì. Khi họ nói lên 3 lần quy y Phật Pháp Tăng và đức Phật chấp nhận, như vậy là độ họ rồi. Rồi có một nữ cư sĩ đến nghe pháp xong, người nữ này xin đức Phật cho phép được xuất gia, đức Phật chấp nhận nhưng gởi về Giáo Hội Ni cho bên ni đoàn lãnh chúng. Trong kinh giới thì nói như vậy, cho nên Thầy mới đặt câu hỏi "không biết có hay chăng", vì trong các kinh có những bài kinh cho thấy đức Phật có nhận đệ tử nữ làm cư sĩ. Thầy đọc hết trong các kinh A-Hàm thì thấy đức Phật có nhận người nữ trở thành đệ tử cư sĩ của mình rất nhiều và cũng nhận họ xuất gia rồi đưa họ về giáo đoàn ni của họ chứ không được ở trong tăng đoàn.

Tỳ kheo ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới được độ người xuất gia, nghĩa là tỳ kheo tăng thì 10 năm mà tỳ kheo ni thì phải 12 năm mới được độ người xuất gia (sa di ni).

Đây Thầy nhắc lại: Ni chúng đầu tiên do Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia chứ không phải xuất gia với đức Phật, về sau ni chúng thế độ ni chúng. Đó là cách thức trong giới bổn nêu lên như vậy, chứ Thầy đọc trong những bài kinh trong kinh Nguyên thủy hay kinh A-Hàm Thầy thấy đức Phật có độ cư sĩ, cũng có độ người nữ xuất gia tu hành. Cho nên khi chúng ta đọc gương hạnh của các thánh ni, chúng ta thấy rõ có người được đức Phật trực tiếp độ họ, cho họ pháp bằng bài kệ khi họ nghe bài kệ họ lấy bài kệ làm pháp hướng tu tập chứng quả Alahán. Thầy thấy rất rõ khi họ nghe và ngộ được lí họ liền xin Phật xuất gia và được Phật chấp nhận tức là họ thành Sa di ni hay Tỳ kheo ni rồi chứ gì, sau đó Phật đưa họ sang Ni giới. Mà hình thức độ người trong thời đức Phật rất đơn giản, khi đức Phật chấp nhận lời cầu xin của họ thì họ được nhận cụ túc ngay chứ không có như trong giới bổn. Qua đẳng cấp trong giới bổn dường như giới bổn chịu ảnh hưởng của pháp luật phong kiến thế gian, giống như kiểu cách của bộ Lễ của vua chúa. Các pháp yết ma quá rườm ra giống như các ngài nghiên cứu kiểu cách các bộ luật của vua chúa phải làm lễ này lể kia lễ nọ rồi rút tỉa ra viết thành bộ giới luật về các pháp yết ma, cho nên quá phiền phức.

Theo quy định trong giới bổn thì không cho đồng thời thế độ hai người sa di xuất gia một lượt vì họ lấy lí do nếu cho hai sa di xuất gia một lượt thì chúng vào chùa rồi giởn nhau, đánh lộn nhau cho nên chỉ cho một người làm sa di năm trước, kềm cặp cho nó tu tập, rồi năm sau cho người sa di khác. Ở đây nêu hai lí do:

1. Đồng thời không nên nuôi hai sa di.

2. Đệ tử sa di nhiều thì sức dạy dỗ không đủ thì nó dễ phạm giới luật.

Trong giới luật cũng có biệt lệ: Nếu vị thầy có trí tuệ cao sâu, thước mực thù thắng, có đủ khả năng nuôi thì không ngại gì; nghĩa là mình có đức độ thì không ngại gì nuôi hai hay nhiều hơn sa di nhưng buổi lễ cho cùng lúc hai sa di xuất gia thì không được.

Giới bổn có dạy có 4 bậc thầy: (Ở đây dựa vào giới kinh để nói 4 điều này)

1.- Có Pháp lại có cơm ăn

2.- Có Pháp mà không có cơm ăn.

3.- Có cơm mà không có pháp

4.- Không có Pháp mà cũng không có cơm.

Vị thầy lí tưởng nhất là vị thầy thứ nhất (có pháp mà cũng có cơm). Trong kinh mà đức Phật dạy là Có pháp và có cơm thì chúng ta ở suốt đời, vị thầy thứ hai có pháp mà không có cơm thì không được li khai, còn hai vị thầy kia thì chẳng nên theo tu hành.

Thực ra người chỉ biết thu đồ chúng mà tự mình không biết dạy đồ chúng đúng như pháp ấy là người có lổi rất lớn. Dù kẻ làm đồ tể tuy làm nghề ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như lai thì nhất định không đọa ba đường ác. Người viết giới bổn cho chúng ta thấy người thầy nhận đồ chúng mà để đồ chúng phạm vào các giới của 10 giới sa di, làm thầy mà không răn dạy đệ tử để đệ tử phá hoại Phật pháp nhất định sẽ đọa vào địa ngục.

Giới luật trong giới bổn thì nói như vậy nhưng Thầy thấy thực tế không đúng như vậy vì đồ tể làm nghề ác thì phải đọa địa ngục chứ sao tránh thoát nhân quả đọa địa ngục do làm ác, còn ông thầy không dạy đệ tử để đệ tử phá hoại Phật pháp thì ông thầy chỉ mang nợ đàn na thí chủ nhiều đời nhiều kiếp và để đệ tử làm Phật pháp suy đồi thì phải gánh hậu quả đó, mặc dù hiện giờ ông có phước làm hòa thượng nhưng ông phải lãnh hậu quả do học trò và ông phạm giới làm Phật pháp mất đi sự tin tưởng của người khác, làm cho họ không được giải thoát cảnh khổ cuộc đời.

Giới bổn lấy sự so sánh giữa người đồ tể và ông thầy thì hơi thái quá. Người đồ tể làm ác thì phải chịu quả khổ, người đó dù không biết ác nhưng đã làm ác thì nhân quả phải đến với họ, còn người dù biết ác mà vẫn làm ác thì cũng vẫn chịu nhân quả như vậy. Nhân quả rất công bằng, dù biết, dù không, vẫn có cùng một quả, bởi về tội ác giống nhau. Vì vô minh mà làm ác hay minh mà vô tình làm ác thì quả cũng giống nhau. Vậy mà ngày nay có được bao nhiêu vị thầy thông hiểu giới kinh và giới bổn. Có nhiều người chuyên môn về giới bổn, nhưng có những người học kinh mà không biết đó là giới kinh chỉ biết đó là kinh thôi. Hiện giờ người hiểu được cả giới kinh và giới bổn rất hiếm, có thể không có. Thành ra họ chỉ biết họ đang giảng kinh chứ họ không biết họ đang giảng giới, ngược lại người giảng giới chỉ biết giảng giới chứ không biết giảng kinh, cho nên kinh và giới trở thành hai pháp môn. Do chỗ không thấy đó mà có sự lầm lạc của Phật pháp rất lớn.

Như theo giới bổn nói thì cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia nữa, nghĩa là trong giới bổn nói khi mình độ họ xuất gia mà họ không tu tập nổi, họ phạm giới, thì người độ cũng có tội trong đó, cho nên không dám độ xuất gia cho ai hết. 

Sa di cần phải xuất gia, nghĩa là người sa di cần phải đi lộ trình tu tập chứ không phải sa di hình đồng rồi ở lừng chừng như cư sĩ thì không được. Sau khi xuất gia và thọ thập giới nếu chưa phải một pháp đồng sa di thì được gọi là hình đồng sa di, nghĩa là nếu chưa có pháp tu của mình, chưa có pháp giữ đức hạnh của mình thì lúc đó mình chỉ được gọi là hình đồng sa di mà thôi, chỉ có hình tướng sa di mà thôi.

Xuất gia có nghi thức xuất gia. Các chùa tự thâu nhận người xuất gia, nhưng ít khi cử hành nghi thức xuất gia, không tổ chức nghi lễ xuất gia, chờ khi nào Giáo Hội cho phép rồi mới dám mở ra giới đàn cho thọ giới sa di hoặc cho thọ giới tỳ kheo, còn Giáo Hội không cho thì không dám. Khi mở giới đàn thì phải xin phép nhà nước, nếu nhà nước không cho thì không được mở giới đàn dù thọ giới sa di cũng phải mở giới đàn. Ngày trước chúng ta chỉ mời đủ tam sư thất chứng (bảy thầy chứng và ba vị thầy) thì tổ chức giới đàn cho thọ, như thọ sa di thì đơn giản chỉ có 3 hay 2 vị thầy thì đủ, còn tỳ kheo thì 10 vị. Chúng ta mời 10 vị trưởng lão đến rồi phân công theo pháp yết ma tổ chức giới đàn.

Trong khi ta có 2, 3 người xuất gia thì giới đàn đó gọi là giới đàn phương trượng, còn giới đàn tổ chức lớn 100, 200 người thọ giới thì phải có tiền bạc rất nhiều. Giới đàn phương trượng ít tốn kém hơn nhiều, chúng ta chỉ nấu bữa cơm chay mời tam sư thất chứng dùng trưa, chúng ta cũng tổ chức đàn tràng nghiêm chỉnh nhưng người thọ giới đàn phương trượng không có phái điệp giấy tờ gì.

Sau 20 năm kể từ ngày thọ giới tỳ kheo thì người này được gọi là Thượng Tọa. Nhưng ngày xưa không phải vậy, một vị dù mới vào tu mà chứng đạo quả giải thoát, chứng quả Alahán thì gọi vị đó là Thượng tọa chứ không cần đợi đến 20 năm. Nhưng ngày nay phải 20 năm sau ngày thọ đại giới thì gọi là Thượng tọa, 40 năm thì gọi là Hòa thượng, sống lâu hơn thì trở thành Sư cụ hết. Nhưng Thượng tọa, Hòa thượng, Sư cụ đâu có sống trong giới đức thanh tịnh đâu, có chứng quả Alahán đâu, họ đâu li dục li bất thiện pháp đâu, họ chỉ là con người phàm phu được tấn phong các chức vị đó trong những giới đàn nào đó để trở thành Thượng Tọa, Hòa Thượng...Nhìn vào giới luật của các vị này thì không nghiêm chỉnh. Cho nên chỉ khi nhìn vào giới luật của vị đó thì mới kết luận vị đó đích thật hay không là Thượng tọa...

Danh từ trong nhà Phật gọi Trưởng lão hay Thượng Tọa là người tu chứng quả giải thoát, dù vị này chỉ mới tu trong thời gian ngắn cho nên không có lễ tấn phong như ngày nay. Như ngài Ca-Chiên-Diên là người hốt phân ở thành Savatthi, giai cấp thấp kém nhất của xã hội, chỉ tu trong một tuần lễ là chứng quả Alahán. Khi chúng ta đã li được dục li được bất thiện pháp thì xứng đáng là bậc Thượng tọa không cần qua cuộc lễ tấn phong nào. Chứ không phải như ngày nay dù được tấn phong Thượng tọa, Hòa thượng theo kiểu phong kiến mà các vị này còn phạm giới luật đủ thứ. Cho nên xét lại trong kinh giới, chức giáo phẩm Thượng tọa trong đạo Phật đơn giản mà đúng cách, miễn người đó sống đúng giới luật là Thượng tọa, còn người dù ở trong đạo 80 mà giới luật sa di còn bị phạm thì cũng chỉ là sa di hình đồng mà thôi, chứ sao hơn được, nghĩa là chưa được là sa di. Đạo Phật không chấp nhận nghi thức rườm rà không có giá trị của sự hành pháp, nghĩa là tổ chức rườm rà mà không có sự tu tập thì đức Phật không chấp nhận.

Xét trong kinh giáo của Phật, Phật giáoở thời kỳ đầu vốn không có nghi thức tôn giáo nào cả, nhưng về sau tăng chúng đông thì phải có nghi thức, nhưng rất đơn giản, nghi thức thế độ sa di thành hình sớm nhất cũng từ việc xuất gia của Rahula.

Trong giới bổn, Sa di xuất gia phải có tối thiểu hai thầy, một vị làm thầy thế độ là Hòa thượng đường đầu, để truyền giới, và vị kia là giáo thọ a-xà-lê, vì thế người xuất gia trước phải làm lễ thỉnh vị thầy của mình làm Hòa thượng đường đầu để thọ giới sa di cho mình và thỉnh một vị a-xà-lê để làm giáo thọ.

Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập hai chỗ ngồi, trở về nhà mặc y phục tề chỉnh hướng về cha mẹ lạy từ biệt mỗi người ba lạy, nghĩa là người xuất gia trước khi đến chùa xuất gia, nếu cha mẹ còn sống thì lạy mỗi người 3 lạy để từ biệt và quỳ xuống đọc kệ như vầy xong mới đến chùa: (theo Thầy thấy quá rườm rà, chỉ nên lạy cha mẹ rồi đến chùa xin xuất gia là đủ)

Trôi lăn trong ba cõi,

Ân ái không thể thoát.

Bỏ ân vào vô vi,

Là chân thật báo ân.

Trong giới đàn tăng dạy: Sau khi đọc kệ xong, đến chùa, cổi bỏ y phục thế tục rồi mặc tăng phục, đến trước Hòa thượng chắp tay xin Hòa thượng giảng cho mình hiểu biết như thế nào về kinh, về thân bất tịnh, về sự vô thường, về vô ngã và khổ của con người, kế đó vị a-xà-lê rải nước lên đầu mình, vị a-xà-lê đó đọc kệ để khen, để tán thán việc làm của người xuất gia:

Hay thay đại trượng phu

Hiểu thế gian vô thường

Bỏ tục hướng Niết bàn

Hi hữu khó nghĩ bàn

Sau khi được hai vị đó chấp nhận cho mình xuất gia, người xuất gia lễ thập phương chư Phật 3 lạy và nói kệ:

Quy y đại thế tôn

Thường độ ba cõi khổ

Cùng nguyện các chúng sanh

Đều nhập vô dư lạc.

Vị a-xà-lê cạo tóc mình trong khi vị này đọc bài kệ sau

Hũy hình giữ khí tiết

Cắt ái từ mẹ cha

Bỏ nhà tìm thánh đạo

Nguyện độ hết mọi người.

Vị a-xà-lê chừa lại ít tóc trên đỉnh đầu, vị Hòa thượng đường đầu cạo hết các sợi tóc này và nói "Tôi vì ông mà cạo tóc trên đỉnh đầu của ông để cho ông được giải thoát", người xuất gia đáp "Vâng ạ, con xin Hòa thượng cạo cho" (đó là những điều kiện thâm sâu làm cho người xuất gia nhớ suốt đời).

Cạo tóc xong vị hòa thượng trao ca sa, người xuất gia để lên đầu, rồi giao trở lại vị hòa thượng. Làm như vậy 3 lần, chứng tỏ người xuất gia rất quý trọng y giải thoát, vì y này đem lại cho đời mình hoàn toàn khác tục, li dục li bất thiện pháp, không còn sống trong chỗ ham muốn, đam mê của thế gian nữa, cho nên mặc y này vào làm cho mình giải thoát, cho nên 3 lần giao và nhận như vậy cho có ý nghĩa thâm sâu của y ca sa giải thoát, của y giới luật, vị Hòa thượng đắp y cho người đệ tử của mình, và nói bài kệ:

Lớn thay áo giải thoát

Y vô tướng phước điền

Mặc vào sống giới hạnh

Rộng độ các quần sanh.

(nghĩa là mặc y này vào thì phải sống đúng giới hạnh, không cho phạm giới)

Sau khi đắp y xong người xuất gia đãnh lễ vị Hòa thượng và phải đi 3 vòng giới đàn và nói bài kệ:

Nếu gặp được đức Phật

Người nào không vui mừng

Ước nguyện gặp đúng lúc

Con nay được đáp lời.

Sau đó về lễ tạ vị Hòa thượng và lui về. Từ đó ở luôn tại chùa, không còn về gia đình nữa, ông thầy dạy làm sao tu tập như vậy, và phải sống giữ gìn giới luật cho nghiêm trì.

THỨ LỚP CỦA SỰ THỌ GIỚI

Trước tiên phải thọ Tam Quy Ngũ Giới, sau đó mới thọ Thập Giới Sa di, phải tiệm thứ giới, phải theo thứ tự, chẳng được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Thập Giới Sa di. Ở trên tâm lí, người thọ giới chuẩn bị không kịp, nghĩa là phải thọ Tam Quy Ngũ Giới, rồi Thập Giới Sa di thì mình mới sống đúng giới hạnh. Tứ Phần Luật Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Luật của đại sư Hoằng Đức dạy cạo tóc xong trước thọ ngũ giới, tuy lúc còn cư sĩ đã thọ ngũ giới rồi nhưng khi vô làm sa di thì Ngài chia làm hai phần: sáu tháng đầu thọ ngũ giới của sa di, nghiêm trì năm giới đầu của sa di. Sáu tháng sau Ngài mới cho thọ tiếp năm giới sau của Sa di. Chú sa di hằng ngày phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, phải tu Tứ Chánh Cần ngăn ngừa các pháp ác, tăng trưởng các pháp thiện.

Thầy đồng ý với đại sư Hoằng Đức, dạy đệ tử phải dạy từ từ cho quen từ ít rồi tới nhiều mới trọn vẹn, còn cho nhiều quá nó tập không hết, nó sống không kham, rồi từ đó nó phạm giới.

Bất luận ngũ giới, thập giới, tỳ kheo giới, và tỳ kheo ni giới toàn bộ ở trong đạo tràng ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam đều chiếu theo bộ Truyền Giới Chánh Phạm làm nghi thức tổ chức nghi lễ truyền giới. Trong bộ Truyền Giới này các việc xướng niệm quỳ lạy mấy mươi ngày giống như bắt các đệ tử của mình diễn kịch trên sân khấu. Ở Việt Nam và Trung Quốc đều lấy bộ Truyền Giới Chánh Phạm làm nghi thức các pháp yết ma. Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý ở chỗ xướng niệm quỳ lạy chỉnh tề đẹp mắt của một số đông giới tử, không xem giới tử có lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không, có đắc giới hay không, đến như tư cách của giới sư có hợp với yêu cầu thống nhất ở trong luật hay không nghĩa là cuốn Truyền Giới Chánh Phạm chỉ cần thiết coi như một tuồng hát bắt buộc vai trò đào kép phải như thế nào thì phải đóng vai trò như thế thôi.

Trong cuốn Truyền Giới Chánh Phạm làm như vậy thì chúng ta thấy nó có đúng với tính cách của đạo Phật không. Nó không đúng với tính cách đạo Phật đâu. Trong đó chỉ vẽ ra một cái tuồng để truyền giới thôi. Trên thật tế, sa di thọ Thập giới rất đơn giản. Tại sao các thầy đặt ra những sách vở như vậy để thế độ người, lại bỏ một quyền lợi thiêng liêng của họ, nghĩa là các thầy đặt ra một tuồng để làm đẹp mắt người xem mà quên khi truyền giới cho một người đệ tử là có sự thiêng liêng trong đó, làm cho suốt đời người đệ tử giữ giới hạnh rất nghiêm. Còn như theo sách Truyền Giới Chánh Phạm mà làm như vậy thì người đệ tử có giữ gìn giới không? Chỉ diễn tuồng cho người xem chơi chứ có gì đâu. Cho nên những cuốn sách đó có còn đáng để cho chúng ta theo trong đó mà làm lễ hay nên đem đốt đi. Sau này nếu quý thầy nghiên cứu sách Truyền Giới Chánh Phạm đó nó đáng đốt hay đáng để, mới thấy lời Thầy nói hôm nay. Chúng ta đâu phải là những người soạn tuồng diễn kịch cho người xem mà chúng ta là những người thực hiện tâm linh để giải thoát, thế mà những cuốn sách như vậy biến người tu sĩ của chúng ta trở thành những người tụng niệm ca hát cao thấp trong tiếng đẩu, tiếng kèn, tiếng trống... nhưng các vị cụ túc giới tỳ kheo, tỳ kheo ni cũng phải học tập và thủ trì nghiêm chỉnh hết.

Trong các giới luật đều có cấm tiểu chúng không được nghe thuyết giới cụ túc và yết ma của đại chúng, nghĩa là cấm không cho chúng sa di nghe giới cụ túc và cũng không cho nghe các pháp yết ma nữa. Sự cấm đoán này khiến cho giới tiểu chúng không biết giới cụ túc khó hay dễ, nếu nó biết khó thì nó xin về nhà để làm cư sĩ, còn nếu nó biết giới có khó đi nữa mà giúp nó giải thoát và nó nhất định phải đi vào con đường này thì nó chấp nhận giới cụ túc, cho nên khi nó được thọ thì nó rất mừng vì nó coi như được pháp để sống li dục li bất thiện pháp. Còn cấm không cho nó biết rồi đùng cái đem giới ra mà nói thì giới như trên trời rơi xuống, làm sao nó dám thọ, làm sao nó thọ giới mà không phạm giới, nó thọ giới chỉ để có chức Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng cho nên nó phạm giới. Còn khi chúng ta cho tiểu chúng nghiên cứu về giới rồi hỏi trực tiếp xem chúng có giữ nổi giới không. Có chuẩn bị tinh thần cho nó thì nó mới sống với giới luật, nó mới nghiêm trì giới.

Phần nhiều cổ đức nhận định cấm đoán người chưa thọ cụ túc giới không được đọc đại giới bằng không thì họ thành tặc trụ chướng ngại, thành giặc ở trong chùa, trong đạo. Đó là nhận xét sai của cổ đức, người xưa đã viết ra những kinh giới cấm đoán người ta như vậy chứ không phải Phật cấm. Đã không được nghe mà cũng không được đọc trước thì do đâu mà học tập trước, biết trước. Chắc chắn các vị phạm giới sợ chúng biết nên mới đặt ra cấm như vậy.

Theo thiển ý của Thầy thì tất cả cư sĩ nam, cư sĩ nữ và tiểu chúng đều được đọc và học tập tất cả kinh giới (giới kinh và giới bổn) để thông suốt hết khi chuẩn bị cho mình vào đạo Phật. Kinh giới in phổ biến cho mọi người đều được đọc để thông suốt thì nhờ vậy họ sẽ nhận ra ông thầy nào phạm giới hay không phạm giới. Có thông suốt giới luật thì tu sĩ mới ít phạm giới, vả lại khi phạm thì bị các chúng chỉ trích nên sợ mà tự giữ mình, lâu ngày quen dần, nhờ vậy họ li dục li bất thiện pháp, được tâm bất động nhập Sơ thiền. Còn tiểu chúng cho đọc và học tập giới, thứ nhất là chuẩn bị cho tinh thần tiến tới thọ đại giới dễ dàng hơn, chúng gần gủi các thầy mà thấy các thầy phạm giới thì chúng chỉ liền do vậy cả thầy và trò đều giữ giới thanh tịnh nghiêm trì. Còn bưng bít như các tổ đã viết trong kinh sách của Đại thừa bịt miệng, bịt mắt thiên hạ thì còn ai chỉ lổi cho mình sửa, mà lổi nhỏ không sửa thì phạm lổi lớn, rồi phá giới, làm cho Phật pháp suy đồi.

Trong Tăng Kỳ Luật quy định tỳ kheo nếu nói tên thất trụ cho người chưa thọ cụ túc nghe phạm tội "diệt tỳ ni". Cụ túc giới đối với tỳ kheo và tỳ kheo ni phải là ngũ thiên thất trụ là bảy thứ tội hạnh của năm thứ tội danh, còn đối với sa di và sa di ni chỉ có một tội danh là "đột kiết la", nghĩa là trong những thứ tội mà Thầy đã nhắc sơ trong giai đoạn thứ nhất, giới luật có những tội gì thì Thầy có nhắc qua.

Ở tiểu chúng khi phạm giới sát, giới dâm thì chưa phạm giới Ba la di (bất cộng trụ) chỉ phạm tội đột kiết la mà thôi, chỉ sám hối thôi, còn các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni phạm vào 4 giới trọng (dâm, trộm, sát, dối) thì bị trục xuất khỏi giáo đoàn cho nên không thể xử tội của tỳ kheo và tỳ kheo ni theo sa di được. Thường tỳ kheo mỗi nửa tháng nghe tụng giới một lần, trải qua thời gian 5 năm mới học tốt về giới luật Patimokkha, huống là sa di phải học. Nếu cho tiểu chúng học giới cụ túc trong thời gian còn là sa di thì đến khi thọ giới cụ túc chú sa di rất nhẹ học. Còn đợi đến khi thọ giới cụ túc xong mới cho sa di học cụ túc giới thì phải 5 năm chưa chắc đã thông suốt bộ giới patimokkha. Tiểu chúng tuy học đại giới nhưng cũng phải học hết toàn bộ giới luật cụ túc. Giới luật có giới kinh và giới bổn mà tiểu chúng phải học để chuẩn bị tinh thần cho tiểu chúng, khi qua đại giới thì sẽ đầy đủ không còn giao động.

Khi đầu tóc còn chưa cạo bỏ và còn mặc áo đời thì chỉ là sa di hình đồng, còn khi đã cạo tóc, mặc áo tu sĩ thì mọi người xem là vị thầy, nếu vị này phá giới luật Phật thì tội rất nặng.

Trong Thọ Giới Quy Tắc có ghi: Tam tạng Nghĩa Tịnh nói: Sa di không phạm 12 điều:

1. Không phân biệt y.

2. Lìa y ngủ: (tỳ kheo luôn luôn để y bên giường mà ngủ. không được lìa y mà ngủ).

3. Được nhóm lửa (tỳ kheo không được nhóm lửa)

4. Túc thực: ăn vừa thôi, không ăn phi thời.

5. Không hại phi chủng: không trồng tỉa

6. Bỏ đồ bất tịnh trên cỏ tươi (bỏ đồ ăn hoặc phóng uế, tiểu tiện)

7. Không tự leo lên cây.

8. Cầm nắm vật báu. (trong giới luật không cho sa di cất giữ tiền bạc vật báu)

9. Đồ ăn dư cất qua đêm được.

10. Đào đất được.

11. Thọ thực phi thời được (thọ thực 2 lần được)

12. Nhổ cỏ chặt cây được.

Kinh giới dạy 12 điều này sa di hay sa di ni không trì không có lổi.

OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI

Quan hệ của sa di và sa di ni trong bộ Đại Chánh Tạng có 5 bộ sách sau đây có thể tham cứu tham khảo:

1.- Sa di thập giới kinh oai nghi.

2.- Sa di oai nghi.

3.- Kinh Phật thuyết Sa di thập giới nghi tắc.

4.- Sa di ni giới kinh.

5.- Sa di ni li giới danh

Nhưng vì nội dung của 5 bộ sách này trước sau trùng lập, không có cương lãnh thống nhất, người sơ học rất khó nắm được đầu mối vì thế cuối đời nhà Minh có Đại sư Liên Trì chỉnh lí và biên tập thành một quyển Sa Di Luật Nghi Yếu Lượt, về sau lại có ngài Hoằng Tán chú thích thêm, cuối đời nhà Minh còn có Đại sư Ngẩu Ích biên tập một quyển Sa Di Thập Giới Oai Nghi Luật Yếu. Quyển trước kỹ càng, quyển sau giản dị sáng suốt, mỗi quyển đều có chỗ hay, đều có giá trị đáng cho chúng ta tham khảo việc học. Hiện nay ở Đài Loan Ấn Kinh Chí có bản Đơn Thành Lưu Thông. Trong Sa Di Thập Giới Kinh Oai Nghi nói sa di có 72 oai nghi gồm có 14 việc, trong Sa di Ni Li Giới Danh nói bảy nghi sự kiện, trừ những oai nghi có quan hệ riêng nam nữ bất đồng ra, oai nghi của sa di và sa di ni phần nhiều tương đồng.

Nay tôi xin nêu lên một vài oai nghi được xem là trọng yếu phân làm hai tổ nam nữ trích lục như sau:

OAI NGHI CỦA SA DI

Oai nghi thứ nhất của sa di là:

1/ Phải kính pháp thầy dạy. Sa di phải kính đại sa môn, không được kêu tên của đại sa môn. Lúc đại sa môn thuyết giới kinh không được lén nghe. Không được tìm điều hay dở của đại sa môn. Đại sa môn có lổi lầm không được nói với người khác. Không được nói xấu đại sa môn khi vắng mặt. Không được khi dễ cười cợt trước mặt đại sa môn và nói theo ngôn ngữ hình tướng của đại sa môn. Thấy đại sa môn phải lập tức đứng dậy trừ khi đọc kinh, ăn cơm, canh tác. Giữa đường gặp đại sa môn phải đứng nép qua một bên. Nếu lúc cười đùa, thấy đại sa môn phải ngưng ngay. Đó là oai nghi đầu tiên của thầy sa di phải học lòng cung kính đối với bậc đại sa môn như vậy.

2/ Oai nghi thứ hai của sa di là: Phải thờ thầy, phải xem thầy như cha, phải dậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy trước phải búng ngón tay 3 lần. Chuẩn bị đồ súc miệng rửa mặt cho thầy. Phải rải nước khi quét đất. Phải xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu cho thầy. Thầy đi chưa về không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lổi thầy răn dạy không được cải lại, phải cúi đầu lắng nghe lời thầy và phải ghi nhớ để vâng làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn thận.

3/ Oai nghi thứ ba của sa di: Pháp sa di bạch thầy ngoại trừ 5 việc: súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện và lễ kính pháp Phật. Trong vòng 49 tầm, mỗi tầm là 8 thước tàu (thước tầm dài bằng cánh tay người lớn) của phạm vi kiết giới có làm việc gì đều phải bạch với thầy, nghĩa là sa di phải cách xa tháp tượng Phật hay vị thầy mỗi khi đãnh lễ là 8 thước tàu (8 cánh tay người lớn) và không được đãnh lễ trong khi làm các việc súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện.

4/ Pháp sa di nhập chúng. Phải học cho rõ, phải tập làm việc, phải vì chúng mà phục vụ, phải vì đại sa môn mà đưa vật dụng, phải lễ Phật, phải lễ tỳ kheo tăng, phải chào hỏi bậc thượng tọa, hạ tọa; phải nhường chỗ ngồi cho bậc thượng tọa; không được giành chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi đùa giởn, không được luôn luôn đứng dậy đi ra ngoài, nếu trong chúng có gọi đến tên thì liền dạ, tỳ kheo chấp sự có sai làm việc gì trước khi làm phải bạch lại với thầy.

5/ Pháp sa di làm sự nghịch: phải tiếp chúng tăng, chẳng được ở giữa đường làm việc; làm việc chưa xong chẳng được bỏ giữa chừng; làm việc giữa chừng chẳng được bỏ đi; đang lúc làm việc nếu bị thầy gọi phải thưa cho tỳ kheo chấp sự biết; phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo lệnh của thầy tỳ kheo chấp sự, chẳng được trái nghịch.

6/ Pháp sa di vào phòng tắm: phải cúi đầu vào phòng tắm; trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc Thượng Tọa; không được đùa giởn tạt nước lên nhau; không được tạt nước cho lửa tắt; không được cười giởn trong phòng tắm; không được làm hư hại vật dụng trong phòng tắm; không được dùng nước quá phí; không được để nước xà bong đổ vào hồ tắm.

7/ Pháp sa di vào cầu xí: Muốn đại tiện, tiểu tiện phải đi liền; lúc đi không được liếc ngó hai bên; đi đến cầu xí trước hết phải búng tay 3 lần cho người bên trong biết; chẳng được hối thúc người trong cầu ra; bước lên cầu tiêu lại phải búng ngón tay 3 lần để cho thần ăn phân biết mà tránh đi; không được cúi đầu xuống nhìn bộ phận sinh dục; không được rặn ra tiếng; không được nhổ nước miếng, đàm giải làm dơ vách; không được vẽ lên vách hoặc dưới đất; không được ngồi lâu ở trong cầu xí; trong lúc đi cầu xí gặp người thì không làm lễ, phải lánh đường đi; lúc ra khỏi cầu xí phải rửa tay, chưa rửa tay không được cầm đồ vật; phải lấy nước rửa đường tiểu tiện gọi là tẩy tịnh, không tẩy tịnh không được lễ Phật; phải dùng nước trong súc miệng, không súc miệng không được tụng kinh.

Đó là cách thức dạy cho sa di khi ở trong cầu xí, Thầy thấy có những điểm không hợp lí, thí dụ người bị kiết mà bảo họ không rặn thì chắc chắn họ chịu không nổi. Cho nên chúng ta phải có sự chỉnh đốn lại cho hợp lí. Chúng ta nên dựa vào giới kinh để viết lại cho đúng hạnh của người tu hơn.

8/ Pháp sa di lễ thầy: Thầy tọa thiền không nên làm lễ; thầy kinh hành không nên làm lễ; thầy đang ăn không nên làm lễ; thầy thuyết kinh không nên làm lễ; gặp bên tay trái thầy không nên làm lễ; không nên làm lễ thầy nằm bệnh; đất dơ không nên làm lễ.

9/ Pháp sa di vào nhà cư sĩ: đến cửa nhà phải tự xét oai nghi của mình, cũng không được thấy người mà làm oai nghi; nhà không có người nam không được vào cửa; nhà có thờ Phật, lúc bước vào trước tiên phải lễ Phật; vào nhà muốn ngồi trước phải xem chỗ có binh khí không nên ngồi, chỗ có vật báu không nên ngồi, chỗ có y phục đồ trang sức của phụ nữ không nên ngồi; không được một mình ngồi với phụ nữ ở chỗ có ngăn che cùng ngồi cùng nói chuyện; không được cố đùa với trẻ con; không được nói nhiều, không được đùa cợt, phải ngồi yên lặng ngay thẳng; không được kết thân với cư sĩ làm cha mẹ chị em (nghĩa là không kết làm cha, mẹ, chị, em nuôi với cư sĩ, vì mình là người đã cắt ái li gia mà làm việc này là quá sai).

10/ Pháp sa di vào chợ: phải cúi đầu đi thẳng đến nơi và đi thẳng về; không được cùng người nữ trước sau đi theo nhau; không được ngó qua ngó lại; không được cố nhìn người nữ; không được đến chỗ náo nhiệt; mua đồ không được tranh giành mắc rẻ; không được ngồi trong cửa hàng của người nữ; nếu bị người giành phải khéo lánh đi; đừng theo và trả giá; nếu đã mua ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ hơn cũng không được bỏ chỗ A mà mua ở chỗ B làm cho chỗ A sanh giận hờn (thật sự ra trong giới luật của Phật không cho sa di cất giữ tiền bạc thì làm sao có chuyện sa di mua sắm gì).

11/ Pháp sa di vào chùa ni, đi phải có đồng bạn cùng đi vào chùa ni. Vào chùa trước phải lễ Phật, nếu không có chỗ dành riêng cho khách thì không được ngồi; không được thuyết pháp không hợp thời; từ chùa ni trở về, không được nói chuyện đẹp xấu của chùa ni; không được thư từ qua lại với ni; không được nhờ ni may vá và giặt y áo.

OAI NGHI CỦA SA DI NI

1/ Pháp sa di ni đi ra ngoài không được đi một mình, phải cùng đi với đại ni (ni lớn tuổi) hoặc hai ba ni cùng đi, nếu không có ni thì phải đi với thân tín ưu bà tắc ni (cư sĩ nữ thân tín), khi đi phải nhìn thẳng trước sáu thước tầm (sáu cánh tay người lớn tức 2 mét); không được đi cùng với nam hoặc theo nhau đi chung đường.

2/ Pháp sa di ni ngủ không được nằm ngữa, không được nằm sấp, không được nằm nghiêng bên trái, phải nằm kiết tường nghiêng bên phải; không được để lộ vai, không được ở trần; không được đặt tay ở chỗ kín.

3/ Pháp sa di ni vào nhà cư sĩ không được vào phòng của phụ nữ nói cười; không được ngồi ăn dưới bếp; không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng; không được đi một mình đến cầu xí; không được cùng người đồng lên cầu xí; không được lên chỗ cầu xí của người nam; không được lấy đồ hay giao đồ trên tay của người nam, phải để ở trên đất hoặc chỗ thích đáng để cho người đó tự lấy; không được đùa với trẻ con.

4/ Pháp sa di ni vào nhà tắm, không được lõa lồ tắm chung với ưu bà di; không được bàn luận về việc tắm rửa; không được cùng ưu bà di kỳ cọ lẩn nhau; không được tắm chung với trẻ con; không được dùng nước rửa của người khác để rửa; không được tự mình nhìn chỗ kín của thân mình.

5/ Pháp sa di ni vào chùa tăng phải theo đại ni hoặc hai ba người cùng đi; vào chùa trước phải bạch tri sự tăng; không được cùng tỳ kheo ngồi chung trong một nhà; không được cùng tỳ kheo ngồi chung trong một tòa; không được cùng tỳ kheo cười đùa; không được nằm ngồi trên mền nệm của sa di; không được cùng tỳ kheo ăn chung bát; không được mặc lầm y của tỳ kheo.

Trên đây tóm lượt oai nghi của sa di và sa di ni, thật ra cũng là toát yếu oai nghi của tỳ kheo và tỳ kheo ni. Sa di ni cũng phải đồng học những phần chung của sa di và oai nghi của sa di. Ngày lục trai cư sĩ cũng nên học về oai nghi của sa di, đây là điều cần phải biết.

Tăng ni ngày nay trừ sự phục sức khác người tục ra, có thể không phạm dâm dục và không ăn thịt uống rượu đã kể là khá rồi, đến hạnh chơn thật tỳ kheo không làm sao thấy, giới hạn sinh hoạt của nam nữ tăng và tục gần như không còn. Các cô ni nhận người giàu sang thế tục làm cha mẹ nuôi, lấy đó làm vinh, phục dịch cho người thế tục có tiền cho đó là hạnh, cho đến ẳm bé con đùa giởn đã là việc thường thấy, phẩm cách của tăng ni như vậy đâu có hi vọng là trụ trì Phật pháp và chấn hưng Phật giáo, như băng đóng 3 thước chẳng phải do cái lạnh của một ngày, đâu chỉ trách tăng ni ngày nay đây cũng là thói tệ đã tích tập trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Nghĩa là hiện giờ thấy tăng ni phạm giới luật, có những oai nghi không đúng đắn như vậy nó không phải là mới bây giờ mà đã nhiều đời nhiều kiếp đã quen rồi, bây giờ rất là khó sửa. Cho nên giới sư Thánh Nghiêm viết cuốn luật này nói băng đóng dày ba thước thì đâu phải trong một ngày mà đóng được, mình muốn cho nó thực hiện những oai nghi này đâu phải một ngày mà làm xong được, nhưng cứ để như thế này thì Thầy nghĩ rằng có muôn kiếp đi nữa thì nó cũng không thành được nữa. Phải bắt đầu ngay từ khi người ta bước chân vào đạo, cái gì ra nghiêm túc cái nấy, người nào được thì được, người nào không được thì thôi, chứ đừng có tập dần dần để rồi ngày thêm lạnh một chút, lạnh một chút, mới có băng mới đóng được dày 3 thước thì cái chuyện đó khó quá. Cho nên từ bao nhiêu thế kỷ nay mà giới luật bị sai phạm rồi thì từ người trước cho đến người sau đều là tiếp nhau mà sai phạm chứ đâu thấy chúng ta có sửa được đâu, mà nếu không sửa được thì Phật giáo làm sao còn, con đường tu làm sao có giải thoát được. Chỉ có giới luật giúp chúng ta li dục li ác pháp, chứ nếu không có giới luật thì không thể nào li dục li ác pháp được.

Đến đây là hết phần oai nghi, chúng ta chỉ có một phần nhỏ như vậy chứ sự thật ra nếu nói về oai nghi của một vị tu sĩ, của một vị tỳ kheo, tỳ kheo ni cũng như là sa di, sa di ni thì phải viết rất nhiều để chúng ta có phương pháp phòng hộ sáu căn giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình không bị dính mắc sáu trần, làm cho tâm chúng ta được li dục li ác pháp, làm tâm chúng ta được giải thoát, mới chính là giới luật của Phật, chứ không phải là những oai nghi liệt kê trên. Những oai nghi liệt kê đó chưa đủ chút nào hết, mà nhiều khi còn có những sai phạm rất lớn trong đó nữa, chứ chưa hẳn đã đúng trong các bộ kinh của Phật.

THỨC XOA MA NI

Thầy giảng tiếp để quý thầy hiểu thêm về phần thức xoa ma ni. Thức xoa ma ni không phải là nữ cư sĩ (tịnh nhân) ở tại chùa công quả, mà thức xoa ma ni là một sa di ni sắp sửa thọ giới cụ túc để trở thành tỳ kheo ni. Ở đây phải hiểu cư sĩ chia làm 4 thứ: cư sĩ còn ở tại gia thì gọi là cận sự nam hoặc cận sự nữ, nam nữ cư sĩ ở trụ luôn trong chùa (tịnh nhân) để trở thành sa di hay sa di ni thì gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ. Vì thể tính của nữ để tóc tu hành tại chùa thì gọi là cận trụ nữ, họ chỉ là một trong 4 chúng cư sĩ trau dồi tu tập thân tâm để chuyển qua lộ trình thứ hai xuất gia mà thôi. Ở tự viện không cạo tóc, không đổi trang phục, vẫn mặc y áo cư sĩ mà sống và hành động giới luật và giáo pháp của Phật rất nghiêm túc đáng được kính phục và đáng được noi theo (những vị Cận trụ Nam, Cận trụ Nữ giữ giới luật rất nghiêm túc nhiều khi hơn cả những vị tỳ kheo (tăng, ni), họ không cất giữ tiền bạc, không ăn phi thời trong khi các tỳ kheo còn cất giữ tiền bạc, còn ăn phi thời.)

Khi đức Phật chấp nhận cho người nữ xuất gia, Ngài chế ra Bát Kỉnh Pháp, nhờ pháp này mà giáo đoàn tỳ kheo ni ra đời. Những người nữ xuất gia chỉ y cứ vào Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia không trải qua sa di ni và cũng không có thức xoa ma ni, nghĩa là khi ông Ananda xin cho người nữ xuất gia và được đức Phật chấp nhận, rồi chế ra Bát Kỉnh Pháp. Từ đó bên ni lấy Bát Kỉnh Pháp làm chỗ quy hướng mà thành tỳ kheo ni tức khắc chứ không trải qua sa di ni hay thức xoa ma ni. Lấy Bát Kỉnh Pháp chứ không phải lấy đức Phật cho nên đức Phật không có quy y cho bên ni mà chính Bát Kỉnh Pháp đó đã cho giới nữ xuất gia.

Trong giới bổn có nêu lên những câu chuyện thế này: Có một vị tỳ kheo ni độ một người mới xuất gia không biết có mang thai, sau khi xuất gia rồi thì bụng to ra và sanh con khiến cho người đời phỉ báng là tỳ kheo ni phạm giới dâm, do đó đức Phật mới chế ra giai đoạn thức xoa ma ni.

Theo Thầy nghĩ giới bổn đặt ra chứ khi người đi tu không lẻ mang thai vào chùa xin làm tỳ kheo ni. Không có việc này đâu, ít ra khi muốn làm một vị tu sĩ tỳ kheo ni thì họ biết họ không mang thai, chứ mang thai thì ai vào chùa xin xuất gia. Cho nên đây là câu chuyện bịa đặt để gài vào chỗ đức Phật chế ra thức xoa ma ni, bắt bên ni có một giai đoạn nữa chứ không từ sa di ni lên cấp bực tỳ kheo ni liền, làm cho họ chậm trể thêm một thời gian nữa. Thức xoa ma ni chỉ hơn sa di ni ở chỗ Lục Pháp, nghĩa là sa di ni chỉ có thập giới mà thức xoa ma ni thì thêm lục pháp nhưng thật ra lục pháp cũng lấy từ trong thập giới sa di mà vẽ ra chứ không có gì khác hết. Đây là lục pháp:

1/ Cùng với người nam không được xúc chạm. Trong giới không dâm dục của thập giới sa di, đã không dâm dục thì làm sao có chuyện cùng với người nam xúc chạm. Như vậy lấy từ giới dâm suy ra chứ có gì khác đâu, mà ghi là lục pháp hơn sa di.

2/ Trộm của người từ 4 tiền trở xuống cho đến một cây kim cọng cỏ. Trong giới sa di cũng có giới cấm trộm cắp rồi.

3/ Giết mạng chúng sanh khiến cho nó chết. Trong giới sa di cũng có giới không sát sanh rồi.

4/ Tiểu vọng ngữ, nói trái lại điều mình thấy hay mình biết. Trong giới thứ 4 của sa di giới là vọng ngữ, thế mà đặt ra tiểu vọng ngữ.

5/ Ăn phi thời. Trong giới sa di đã có không ăn phi thời, đâu có gì khác.

6/ Uống rượu. Trong Thập giới hay ngay cả trong Ngũ giới cũng không được uống rượu rồi.

Như vậy sáu pháp này cũng nằm trong thập giới sa di chứ có gì khác nhau đâu, đâu có mới mẻ gì đâu. Mấy ông tổ giới của mình viết kinh luật này đặt ra, rồi người sau nhắm mắt nghe chứ không so sánh. Khi so sánh thì chúng ta thấy điều họ đặt ra nói thật là vô lí. Vậy thì Thập Giới Sa di cũng đủ rồi, cần gì phải có 6 pháp này nữa mà gọi là Lục Pháp. Cho nên tất cả những cái này là bịa của người sau để thêm thắt này kia cho rườm rà mà ghép vào thức xoa ma ni cho có vẻ giai đoạn của nó hơn giai đoạn sa di. Nhưng giới luật đó cũng nằm trong thập giới sa di thôi.

Thức xoa phạm 4 giới trước bị trục xuất ra khỏi ni đoàn. Bốn giới trước này rõ ràng là 4 pháp tứ khí rồi chứ còn gì nữa cho nên phải trục xuất ra khỏi ni đoàn rồi. Lục pháp trong Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ Biến Sô Ni Trì Nại Gia không giống ở trên. Thầy đọc cho quý thầy nghe lục pháp của Biên Sô Ni Trì Ngoại Gia:

1/ Không được đi một mình. Đây lấy oai nghi cho người thức xoa không được đi một mình.

2/ Không được qua sông một mình.

3/ Không được chạm vào thân người nam.

4/ Không được ở chung với người nam.

5/ Không được làm mai mối gả cưới.

6/ Không được che dấu tỳ kheo ni phạm tội.

Đây là 6 điều ở trong kinh giới đó nêu lên nghe nó có khác, nhưng mà Thầy thấy đâu có gì quan trọng, đây chỉ là oai nghi đã có ở trong 100 giới chúng học của tỳ kheo tỳ kheo ni, mà trong oai nghi của người sa di cũng đã có cái này rồi. Thay vì lấy giới của sa di làm ra Lục Pháp Thức Xoa Ma Ni thì Thầy đã bác rồi; bây giờ lục pháp này lấy oai nghi của sa di, sa di ni; nó không thuộc về giới nhưng nó thuộc về oai nghi thì như vậy là bổn kinh giới trước lấy thập giới sa di mà nêu lên làm Lục Pháp, còn bổn kinh giới sau lại lấy oai nghi của sa di mà làm Lục Pháp. Nếu chúng ta so sánh sẽ thấy các ông thầy giới này rút bên này bên kia lẫn lộn bấy nhiêu đó thôi, cũng nằm trong giới luật của sa di ni, cho nên những cái mà họ đặt ra Thầy thấy nó không ngoài thập giới của sa di ni mà gọi giới của Thức Xoa hơn giới của Sa Di Ni, như vậy không đúng.

Theo Lục Tỳ Pháp:

1/ Không được cầm vàng bạc thuộc về mình.

2/ Không được cạo lông mặt, lông mày hoặc chỗ kín đáo.

3/ Không được đào đất chỗ ẩm ướt có côn trùng.

4/ Không được cố ý nhổ cỏ, chặt cây.

5/ Không được tự mình lấy thức ăn, phải do người khác đưa.

6/ Không được ăn đồ ăn thừa.

Đó là 6 tỳ pháp này đặt ra ở trên phần oai nghi của sa di, sa di ni thôi. Cho nên chúng ta thấy các ngài đặt giới luật ra lòng vòng chẳng qua từ các giới căn bản rồi qua những oai nghi chứ không có mới mẻ, đặt ra cho nhiều để các bộ kinh giới dày cộm mà không có nghĩa lí gì sâu sắc hết.

Thức xoa được quyền ngủ đồng phòng 3 đêm, nghĩa là thức xoa ma ni được ngủ chung đồng phòng 3 đêm với thức xoa ma ni hay sa di ni khác. Nhưng trong giới luật Phật đâu cho như vậy.

Đến đây chấm dứt phần Sa di và Sa di ni. Bây giơ chúng ta qua phần Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.