
Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần T 5/5)
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)
Tr (T5/5)
Trạch Pháp Giác Chi (Phậtdạy.2)(ĐườngVề.9)(TrợĐạo) là chọn lựa pháp môn tu tập để được giác ngộ giải thoát, chọn lựa pháp giải thoát tức là chọn lựa pháp thiện.
Chọn lựa pháp thiện là lúc tâm chúng ta đang ở trong trạng thái chánh niệm, mà chánh niệm tức là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm thanh thản, an lạc và vô sự, từ trạng thái tâm này chúng ta chọn lựa pháp thiện cũng như dùng câu pháp hướng tâm một cách dễ dàng không sợ bị sự lừa đảo của tâm. Chọn lựa pháp tức là Trạch Pháp Giác Chi.
Khi tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn, lúc bấy giờ tâmkhông còn năm triền cái và bảy kiết sử nữa, năm triền cái và bảy kiết sử bị diệt trừ tận gốc, thì Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện. Khi Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện thì tâm chúng ta đầy đủ Tứ Như Ý Túc.
Trái tim yêu thương (YêuThương.1) là lòng yêu thương chân thật từ trong tận đáy lòng sâu thẳm của con người, những người giả dối hay mượn lòng yêu thương để lợi dụng nhau. Nói yêu thương là để lợi dụng công sức của người khác; nói yêu thương là để chiếm đoạt tiền bạc, của cải, tài sản, ruộng vườn, đất đai; nói yêu thương là để lợi dụng tình dục, nói yêu thương là để lợi dụng bằng mọi thứ khác nữa. Hiện giờ chúng ta đang sống trong điên đảo tưởng nên chạy theo ảo ảnh, dục vọng của các pháp thế gian, để rồi tự chuốc lấy toàn những sự khổ đau. Trên thế gian này các pháp đều vô thường, nhưng có một pháp không vô thường, nó đang ngự trị trong lòng của chúng ta, nó mãi mãi không bao giờ mất. Ðó là lòng yêu thương của chúng ta. Lòng yêu thương chỉ có ban tặng nhau bằng hành động từ trong trái tim, mà không hề mở miệng nói ơn, nói nghĩa; lòng yêu thương chia sẻ nhau mọi việc làm mà không hề kể công, kể sức.
Trạng thái giới luật vô lậu thiện pháp (TruyềnThống.2) là một trạng thái tâm thanh tịnh tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Cho nên muốn ước nguyện một điều gì, hoặc người thân muốn trước khi chết tâm không rối loạn, không mê muội, sáng suốt tỉnh táo thì phải giữ gìn tâm bất động tức là giữ gìn tâm thản, an lạc và vô sự. Hai người phải tương ưng với nhau thì được lợi ích rất lớn, đó là sự hoan hỉ thanh thản, an lạc và vô sự thành một nội lực ly tham đoạn ác pháp. Trong trạng thái ấy không còn nghiệp ác nào tác động vào thân tâm họ được. Khi các bạn giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì các bạn biết rất rõ về thân tâm của các bạn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Và lúc bấy giờ các bạn đã xứng đáng làm ruộng phước cho mọi người. Vì thế, các bạn muốn ước nguyện cho một người nào đó thì người đó phải hướng tâm về các bạn. Cũng như lúc lâm chung, trước khi chết chỉ cần nhớ nghĩ đến các bạn thì tâm người đó được thanh thản, an lạc và vô sự. Ðức Phật và chúng Thánh Tăng giới luật đều nghiêm chỉnh, cuộc đời của các Ngài tâm vô lậu hoàn toàn. Các Ngài đều chứng Thánh quả A La Hán nên tâm niệm của các Ngài luôn ước nguyện cho mọi người đều được an vui, hạnh phúc, nhưng mọi người không hạnh phúc là vì mọi người không hướng tâm về các Ngài, không giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, nên dù các Ngài có thương xót chúng sanh, nhưng cũng không làm sao cứu giúp chúng sanh được.
Trạng thái không vọng tưởng (Tạoduyên) thì 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, biết chuyện quá khứ, vị lai của mình, của người rất rõ ràng.
Trạng thái ly dục ly bất thiện pháp (Phậtdạy.1) trạng thái tâm hết tham, sân, si và thường ở trong trạng thái tâm bất động, an lạc và vô sự, ít phóng dật. Người có tâm bất động thường thích sống độc cư một mình.
Trạng thái Niết Bàn (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.3) có “lạc” nhưng không có “cảm thọ”. Còn có bất cứ một trạng thái nào của cảm thọ đều là bệnh thiền. Nếu còn có cảm thọ thì sự cảm thọ đó là dục lạc chứ không phải lạc của Niết Bàn. (Dục lạc có năm: Sắc, thinh, hương, vị, xúc.) Bởi thế khi tu hành có các cảm thọ, thọ lạc hay thọ khổ, đừng nên lưu ý đến nó. Biết thì biết, nhưng phải ôm cho chặt pháp đừng vì thọ khổ mà bỏ pháp mà cũng đừng vì thọ lạc mà cho là mình chứng đạo. Tất cả những trạng thái này là bệnh. Người đạt Trạng thái Niết Bàn thì hiện tại trong cuộc sống hằng ngày, và cho đến khi nhập diệt, họ cũng sống trong trạng thái Niết Bàn đó, trạng thái đó không sai khác.
Trạng thái Tâm Bất Động (12Duyên) là một trạng thái chung của những người chứng đạo, làm cho thân và ý thức không XÚC CHẠM nhau. Tâm bất động không phải là khó tu tập, chỉ cần phá hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì tâm bất động ngay tại đó. Muốn phá hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì chỉ có tu tập pháp THÂN HÀNH NIỆM. Nhờ có tu tập pháp môn này thì ngồi lại chúng ta mới thấy tâm bất động.
Trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự (ĐườngRiêng) Sau thời gian tu tập TỨ CHÁNH CẦN, cảm nhận tham, sân, si giảm bớt rất rõ ràng; thấy thân tâm mình và trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn và mỗi ngày thời gian trạng thái đó càng tăng thêm dài ra. Lúc bấy giờ tâm mình luôn luôn cảm nhận toàn thân trong hơi thở ra và hơi thở vào từ canh này sang canh khác, không có một niệm nào xen vào, không một ác pháp nào khởi ra được, nhất là các ác pháp bên ngoài không tác động vào được thân tâm. Do trạng thái bất động này nên không còn phải ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập TỨ CHÁNH CẦN. Tâm không có một niệm ác hay dục khởi lên một cách rất tự nhiên chớ không phải còn gò bó ra công tu tập, chỉ duy nhất có một cảm nhận quán xét trên toàn thân, thọ, tâm, pháp từ ngày này sang ngày khác. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu tập tâm bất động rất dễ dàng và thoải mái. Suốt thời gian hơn 7 ngày thấy rất rõ tâm mình chỉ có một cảm nhận trên thân quán thân như vậy, không có một tâm niệm nào khác nữa. Trong suốt 7 ngày đêm mà tưởng chừng như trong một thời gian rất ngắn chỉ hơn một phút. Trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi tâm VÔ LẬU hoàn toàn. Nhờ tâm VÔ LẬU hoàn toàn nên mới có đầy đủ TỨ THẦN TÚC. Đó là lúc chứng đạo giải thoát. Đó là trạng thái tâm “TỨ NIỆM XỨ”.
Trạng thái vô sắc giới (TruyềnThống.2) những trạng thái tưởng của đồng cốt, cơ bút, và trạng thái tưởng của những nhà ngoại cảm bắt gặp những từ trường hình danh, sắc tướng còn lưu lại trong không gian. Nhất là những người tu tập thiền ức chế tâm lạc vào thiền tưởng nên tưởng uẩn hoạt động, xuất hiện 18 loại hỷ tưởng. Người tu hành đúng theo phương pháp của đức Phật dạy thì phải xả tâm ly dục ly ác pháp thì mới vượt ra khỏi sắc giới và vô sắc giới. Người nào xem thường giới luật tu tập ức chế tâm cho hết niệm khởi tức là ức chế sắc giới, do đó cảnh giới vô sắc giới hoạt động, vì thế thường hay bị chiêm bao, mộng mị. Người hay bị mộng mị, chiêm bao là người không vượt qua cảnh vô sắc giới.
Tranh đấu nội tâm (TruyềnThống.2) là sự ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình, là giữ gìn giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, nhờ đó sự ước nguyện sẽ thành tựu viên mãn, không có mệt nhọc, không có phí sức, không có đau khổ.
Tranh luận (Phậtdạy.3) là một cuộc tranh đấu, đánh đá nhau bằng ngôn ngữ, là một cuộc chiến tranh giết nhau bằng gươm miệng, lưỡi đao. Người tu sĩ Ðạo Phật lấy tâm từ bi làm gốc, nên phải tránh xa những cuộc tranh luận, để thực hiện lòng từ bi của mình bằng sự im lặng là đệ nhất pháp.
Tránh né (Phậtdạy.2) nghĩa là không dám gần gũi, tránh xa, không dám gặp mặt, không dám ở gần. Tránh né bằng sự tác ý hướng tâm hằng ngày để khi gặp cảnh mà biết phòng ngừa kịp thời.
Tránh sự khởi lên chỉ trích (Phậtdạy.3) là khi muốn chỉ trích ai một điều gì thì nên dừng lại liền không được nói ra và chấm dứt tư tưởng đó vì ý nghĩ tư tưởng đó xấu, ác.
Tránh xa nói hai lưỡi (TruyềnThống.2) là hành động tránh xa người nói hai lưỡi hoặc tránh xa nơi ở có người nói hai lưỡi hoặc tránh xa lời nói hai lưỡi của chính mình. Vì muốn có một cuộc sống hoà hợp yêu thương nhau nên phải tránh xa nói hai lưỡi tức là nghe điều gì ở chỗ này không đến chỗ kia nói, để sanh ra chia rẽ với những người này hoặc nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sinh ra chia rẽ với những người kia. Ðó là hành động đạo đức hòa hợp của mỗi người mà trách nhiệm bổn phận của mỗi con người đều phải thực hiện đạo đức ấy. Từ bỏ nói hai lưỡi và Tránh xa nói hai lưỡivề đức thì giống nhau nhưng về hạnh thì khác nhau.
Tránh xa sát sanh (TruyềnThống.2) có nghĩa là tránh né và xa lìa sát sanh. Tránh né xa lìa sát sanh có 3 vị trí khác nhau: 1- Tránh né và xa lìa người giết hại chúng sanh. 2- Tránh né và xa lìa nơi giết hại chúng sanh. 3- Tránh né và xa lìa những hành động và nghề nghiệp sát sanh. Do đức hạnh giới từ bi "Tránh xa sát sanh" này, người tu sĩ Phật giáo phải chọn chỗ ở thanh tịnh thích hợp nơi thanh vắng không ở gần người giết hại và ăn thịt chúng sanh; không ở gần nơi săn bắn, nơi đánh cá chài lưới, v.v...
Trạo cử (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4)(10Lành) Trạo cử là Thượng Phần Kiết Sử.Những phiền não khiến tâm bất an, suy tính đủ thứ, đó là về tâm. Còn trạo cử về thân thì thân đau nhức chỗ này, chỗ kia hoặc mỏi mệt bất an, lăn qua lộn lại, thân nhúc nhích, động đậy không lúc nào yên. Muốn đoạn diệt Thượng Phần Kiết Sử này để tìm cầu sự giải thoát thì duy nhất chỉ tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Trạo cử Kiết Sử (Phậtdạy.3) Những phiền não khiến tâm bất an, đó là về tâm. Còn trạo cử về thân thì thân đau nhức chỗ này, chỗ kia hoặc mỏi mệt bất an, lăn qua lộn lại, thân nhúc nhích, động đậy không lúc nào yên.
Trạo cử, hối quá (10Thiện) trạo cử là con người lúc nào cũng rọ rạy khó chịu, quay bên nay, móc bên kia, suy tính đủ thứ. Hối quá là ân hận mãi về một việc làm trong quá khứ.
Trạo hối triền cái (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là cái màn ngăn che trạo hối khiến cho ta không thấy, nhưng trạo hối vẫn còn y nguyên. Năm triền cái Dục tham, Sân, Hôn trầm thùy miên, Trạo hối, Nghinày là năm pháp ngăn che làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do đó, nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc để thực hiện Bốn Thiền và Tam Minh. Muốn đoạn tận năm triền cái này thì chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận năm triền cái.
Trau dồi tâm bi (4Tâm) là nhắm ngay vào sự đau khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Phải dùng lời khuyên bảo, thăm hỏi, có hành động cứu giúp. Muốn trau dồi tâm bi thì lúc nào ta cũng nhắc nhở tâm ta hãy thương người đang sân, đang đau khổ, đang bị bệnh khổ, đang buồn khổ, người có tai nạn, đang si mê, đang tị hiềm (người tị hiềm là người đang cách nói xấu ai), đang cống cao, ngã mạn, người tàn tật, người già yếu, thương tất cả chúng sanh.
Trau dồi tâm từ (4Tâm) Phải tập sống với tâm như tâm Phật (rộng lớn vô bờ bến), phải tập dứt ác và thể hiện tình thương rộng lớn. Thí dụ khi người chửi ta, ta thương họ mà tha thứ cho họ. Nhớ lời Phật dạy lấy tâm từ để diệt lòng sân hận. Làm thế nào để thể hiện tâm từ vô biên? Phải thực tập, rèn luyện từng chút mới có được từ, bi, hỷ, xả. Nếu nghe chơi, và chẳng thực tập gì cả thì thật là mất thì giờ vô ích. Khi vào đạo Phật trước tiên chúng ta nhớ là phải thông hiểu. Sau khi thông hiểu thì ta phải trau dồi (nhìn vào địa chỉ để mà đi). Khi chúng sanh đang mạnh giỏi mà ta thương yêu là ta ban lòng từ rộng lớn; còn khi chúng sanh bị nạn, đau khổ mà ta săn sóc, giúp đỡ là ta thực tập lòng bi. Hàng ngày ta phải tránh né để cho chúng sanh sống an vui, ca hát là ta trau dồi lòng từ. Từ thuộc về nhân, khi chúng sanh không bị đau khổ; bi thuộc về quả khi chúng sanh đang bị đau khổ. Người ta đang sợ hãi mà ta đến trấn an là bi. Nhường chỗ ngồi cho một bà già đang đi trên xe đò là từ. Lòng từ biến mãn khắp mười phương, khiến cho cỏ cây, vạn vật sống an vui, không có sự sát hại, gây khổ đau dù là vô tình giẫm, đạp lên côn trùng. Có lòng từ thì không có tâm chấp chặt, chỉ có sự bình đẳng, thương yêu nhau xuất phát từ trong đáy lòng của ta. Bao giờ ta còn lầm chấp thân tâm này là ngã, là ta không có lòng từ bi thật sự. Muốn được thật sự có lòng từ bi thì hàng ngày ta phải trau dồi lòng từ bi thì ta mới có được lòng từ bi. Nhờ đó mà bản ngã ta mới tiêu mòn và ta thấy trong vạn vật có mình, mà như không có mình. Ta cần phải có câu pháp hướng để thực tập. Đây là điều rất quan trọng, câu pháp hướng là ngọn đuốc soi đường ta đi. Cần ghi nhớ ở đây không phải ta tu tập chánh niệm tỉnh giác định, mà là tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, tu tập tỉnh thức để thể hiện lòng từ bi.
Trau dồi tâm từ nơi ý hành (4Tâm) Muốn trau dồi ý, ta phải tư duy: Thân tất cả chúng sanh cũng như thân ta thường đau khổ đói khát. Ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chăm sóc con ta vậy. Sự tư duy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi nhìn hoạt động các loài vật (một đàn kiến đi qua), nó có buồn, vui, đau khổ (nó ra sức bảo vệ khi bị con vật khác tấn công). Từ đó ta tư duy đến đời sống của các sinh vật. Khi có con vật bị gặp tai nạn ta phải ra tay cứu nó (con kiến té xuống nước mà ta vớt lên là hành động của từ tâm). Khi một bầy chó hùa nhau tấn công một con chó khác trong xóm thì ta phải can ngăn, một con chim nhỏ bị con chim lớn mổ, cắn thì ta phải ra tay cứu giúp nó. Ngồi thiền nhập định để làm chủ sanh tử mà không trau dồi tâm ý là một điều thiếu sót lớn. Thế nên, mỗi ngày chúng ta cần phải bỏ ra vài ba phút, hoặc hai ba chục phút để quan sát mọi loài, lắng nghe tiếng kêu khổ, cầu cứu của chúng sanh. Hành động như vậy sẽ giúp cho sự tu tập của ta rất nhiều. Trau dồi lòng từ là tu li, dứt cái tham, sân, si chứ không phải diệt tham, sân, si rồi mới tu tập lòng từ. Dù cho người có oán ghét ta, ta cũng không để dạ, mà phải sống buông xả và thanh thản. Do đó đời ta không có người thù mà chỉ có người đã hiểu và người chưa hiểu ta mà thôi.
Trau dồi từ tâm nơi thân hành (4Tâm) là mượn cái hành động chân đi để thực hiện tâm từ ở dưới bàn chân, trong mỗi bước đi của chúng ta, khi đi thì ta phải theo sát hành động đi và có pháp hướng tâm (như lý tác ý) để gợi lên lòng thương yêu của ta đối với chúng sanh "Dưới bước chân ta đi có rất nhiều sinh vật nhỏ bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn thận để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật".ĐI là động, ta phải trau dồi tâm từ trong hành động đi. Khi ta đang đi thiền hành và biết dùng pháp hướng nhắc tâm tức là ta đang trau dồi tâm từ. Còn nếu trong bước đi mà ta thấy trong ta có tình thương yêu rộng lớn, và luôn luôn tránh né để không giẫm đạp lên kiến hay một bất cứ loại côn trùng nào tức là ta viên mãn lòng từ vô lượng.
Trau dồi tứ vô lượng tâm (4Tâm) là thể hiện tâm từ vô lượng và phòng hộ sáu căn. Trau dồi hành động của thân khiến ta càng ngày càng tăng thêm tình thương đối với chúng sanh để có 1) sức tỉnh thức lớn, 2) lòng thương yêu nhiều. Diệt trừ được tham, sân, si và dứt trừ ngũ cái. Khi tứ vô lượng tâm ngự trị ở tâm ta thì ngũ triền cái sẽ không còn đeo đẳng theo ta nữa. Sự thật không phải đơn giản; mà chính ta phải ra sức tu tập bền chí siêng năng mới thắng được. Khi ta đang đi thiền hành và biết dùng pháp hướng nhắc tâm tức là ta đang trau dồi tâm từ. Còn nếu trong bước đi mà ta thấy trong ta có tình thương yêu rộng lớn, và luôn luôn tránh né để không giẫm đạp lên kiến hay một bất cứ loại côn trùng nào tức là ta viên mãn lòng từ vô lượng. Với tâm từ như vậy thì ta không nỡ đạp lên cỏ, ngắt một ngọn lá, bẻ một cành cây, hay hái một cành hoa. Tâm ta phủ trùm, thương yêu khắp vạn vật. Chỉ cần một pháp này cũng đủ để giải thoát. Khi có lòng thương rộng lớn thì không tham, không giận, và ngã chấp cũng không còn. Thương yêu cá nhân thì ngã mới có. Không phải chờ đến khi nhập Tứ Thiền, đắc Tam Minh mới diệt hết lậu hoặc, chẳng phải chờ đến khi nhập Niết Bàn mà lòng ta đã là Niết Bàn sau một năm tu tập tinh chuyên! Tóm lại, hàng ngày chúng ta phải trau dồi tâm từ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi bằng pháp hướng tâm.
Trên tâm quán tâm (ĐườngVề.2) tức là hằng ngày quan sát xem xét tư duy nội tâm đang khởi những niệm gì, đang nghĩ gì, đang lo sợ, đang phiền não bất toại nguyện, đang giận hờn ganh ghét, đang nghĩ suy những âm mưu thâm độc để hại người, đang tính toán những trò giải trí không lành mạnh, đang nghĩ những chuyện tào lao không ích lợi, đang khởi những niệm tưởng không đâu để độ người tu hành thiền định bằng những thần thông siêu việt, khiến cho mọi người quá kính nể phục lăn sát đất hoặc đang khởi những niệm làm thế này làm thế kia để cúng dường Phật, Pháp, Tăng, v.v… Tất cả những niệm khởi lên trong tâm được quan sát và xem xét cuối cùng phải được đẩy lui tất cả các niệm ra khỏi tâm không còn một bóng dáng nào cả. Khi tâm chúng ta chưa ly dục ly ác pháp thì tất cả những niệm được khởi lên trong tâm đều là niệm ác, đừng nghĩ rằng chúng tôi khởi niệm làm ích lợi chúng sanh như: làm từ thiện, phóng sanh, bố thí, giúp người bằng cách này hoặc bằng cách khác trong khi tâm dục chưa lìa ác pháp, chưa đoạn thì những hành động đó chưa phải là thiện, đó là hành động làm danh, làm lợi khéo léo cho cá nhân mình bằng những lý luận lừa đảo của nó. Theo Phật giáo khi nào tâm thanh tịnh tức là tâm đã ly dục ly ác pháp thì niệm khởi là niệm thiện còn chúng ta còn phàm phu thì niệm khởi là niệm ác. Tại sao vậy? Tại vì tâm còn danh và lợi, cho nên tuy việc làm nhìn bên ngoài là thiện mà trong tâm là ác pháp. Việc làm thiện đó chẳng có phước báo gì cả, người làm việc thiện này thường hay bị bệnh tật khổ đau, v.v… Vì thế, người tu Ðịnh Vô Lậu câu hữu Tâm Niệm Xứ luôn luôn quan sát tâm mình xem coi có niệm gì khởi ra thì mau mau tìm mọi cách đẩy lui niệm đó khỏi tâm, hướng tâm trở lại vị trí thanh thản, an lạc và vô sự của nó.
Trên thân quán thân (TrợĐạo) có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, cảm nhận xúc chạm và ý thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết thân đứng, v.v... thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét sân biết quét sân, thân lặt rau đều biết thân lặt rau, thân ngồi yên biết thân ngồi yên, v.v… Bất cứ thân làm điều gì đều biết, khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra hơi thở vô trên thân. Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Tuy nói trên thân quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết pháp, biết pháp là biết thân. Bốn chỗ này như một khối, tuy nói bốn nhưng mà một. Quán thân trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, trên thân xảy ra một điều gì đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thực là quán tâm bất động, vì khi tâm bất động mới thấy thân rồi quan sát thân, dùng tâm để thấy thân. Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ biết chỗ này thì liền biết chỗ khác. Nói trên thân quán thân chớ kỳ thực là quán TÂM BẤT ÐỘNG, nếu tâm bất động suốt bảy ngày đêm liên tục, thấy rõ thân liên tục, là tu tập xong, là chứng đạo. Nhưng trong suốt bày ngày đêm tâm phải không bị hôn trầm thùy miên vô ký và loạn tưởng, lúc nào cũng tỉnh táo, không mê mờ. Nếu hôn trầm thùy miên vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp ngăn ác diệt ác để mà diệt các ác pháp này. Khi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì tâm sẽ bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Cho nên, muốn tâm được bất động, thanh thản, an lạc, vô sự thì trên thân quán thân thường xem xét thân hành, khẩu hành và ý hành. Như vậy tu tập thực hiện Ba Thiện Hạnh để hộ trợ cho pháp môn trên thân quán thân (Tứ Niệm Xứ): đạt được viên mãn. Tu tập pháp môn trên thân quán thân mà không thực hiện Ba Thiện Hạnh thì không bao giờ chứng được trạng thái Tứ Niệm Xứ. Tu tập Ba Thiện Hạnh thì các căn phải chế ngự tức là phải sống Độc Cư mới diệt hết ác pháp.
Tri kiến (Phậtdạy.2)(CầnBiết.3) sự hiểu biết bằng ý thức. Nhờ có ý thức, ta mới dùng pháp Như Lý Tác Ý, nhờ pháp môn như lý tác ý mà lậu hoặc mới được đoạn diệt. Tri kiến có hai mặt: 1/ Tà tri kiến, tức là tri kiến ác. 2/ Chánh tri kiến, tức là tri kiến thiện. Nhờ tri kiến tác ý một thiện pháp để phá vỡ đi một ác pháp, phá vỡ một ác pháp tức là đoạn trừ một lậu hoặc.
Tri kiến “luật nhân quả thiện ác” (CầnBiết.2) để ngăn ác, diệt ác pháp, khởi thiện, tăng trưởng thiện pháp. Nên tâm ly, dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền là tâm đã thanh tịnh, tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm đã nhập Bất Ðộng Tâm định. Tâm nhập Bất Ðộng Tâm định là tâm vô lậu, người mà tâm vô lậu là người có tri kiến giải thoát hoàn toàn.
Tri kiến duyên “sanh” (CầnBiết.2) sanh tức là các pháp, tri kiến tức là biết rõ, nghĩa là biết rõ các pháp “Vô thường, khổ, không, vô ngã”, biết rõ các pháp như vậy, đồng thời dùng sức tỉnh thức để không bị lôi cuốn, chìm đắm, dính mắc trong các pháp. Do đó mới gọi là vô lậu, giải thoát, mới gọi là làm chủ được sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Tri kiến giải thoát (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.1)(12Duyên)(CầnBiết.2)(TâmThư.1) (hay trí tuệ giải thoát, hay tri kiến thanh tịnh) là sự tư duy, suy nghĩ đi ngược lại với lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si. Tâm đã ly dục ly ác thì tri kiến ly dục ly ác pháp đó là tri kiến giải thoát. Tri kiến giải thoát tức là định, tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh tức là tâm bất động; tâm bất động tức là định; định tức là tri kiến giải thoát. Đường lối tu tập của đạo Phật là chuyển từ tri kiến thế gian để trở thành tri kiến giải thoát, từ tri kiến giải thoát chuyển thành tâm ly dục ly ác pháp, từ tâm ly dục ly ác pháp chuyển thành tuệ Tam Minh. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, là đạo chuyển hóa tâm phàm phu trở thành tâm Thánh. Muốn được như vậy phải bằng nước mắt, và máu , có nghĩa là chúng ta phải chết đi một lần và sống lại. Tri kiến giải thoát là thắng tri trong Phật giáo, tạo thêm một sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được thân tâm, đoạn tận tâm tham, sân, si đưa đến chấm dứt đau khổ. Với thắng tri tâm sinh nhàm chán ly tham, từ bỏ, đoạn diệt, và cuối cùng đưa đến giải thoát hoàn toàn theo tiến trình như đức Phật đã dạy: “Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa”. (Tương Ưng 4, kinh 29). Ðang tu cũng thấy giải thoát, chứng quả cũng thấy giải thoát. Tri kiến giải thoát có hai cách: - Thứ nhất là tri kiến duyên “sanh”, sanh tức là các pháp, tri kiến là biết rõ, nghĩa là biết rõ các pháp “Vô thường, khổ, không, vô ngã”, biết rõ các pháp như vậy, đồng thời dùng sức tỉnh thức để không bị lôi cuốn, chìm đắm, dính mắc trong các pháp. Do đó mới gọi là vô lậu giải thoát, mới gọi là làm chủ được sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi. - Thứ hai là tri kiến luật nhân quả thiện ác” để ngăn ác, diệt ác pháp, khởi thiện, tăng trưởng thiện pháp. Nên tâm ly, dục ly ác pháp nhập SơThiền. Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền là tâm đã thanh tịnh, tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm đã nhập Bất Ðộng Tâm định. Tâm nhập Bất Ðộng Tâm định là tâm vô lậu, người mà tâm vô lậu là người có tri kiến giải thoát hoàn toàn. Cho nên, tri kiến giải thoát của đạo Phật là Chánh Niệm tỉnh thức trong Bất Ðộng Tâm định, do sự tu tập tỉnh thức và huân tập pháp như lý tác ý để khắc phục tâm tham ưu mà có, chứ không phải là tánh giác như trong kinh sách phát triển dạy. Muốn có Tri Kiến Giải Thoát thì phải học giới luật đức hạnh, lý nhân quả, lý các pháp vô thường. Khi một hành giả sống một đời sống đạo đức thì đạo đức là giới hạnh. Giới hạnh làm cho tri kiến không có khởi ác niệm, không có những hành động ác, không có những lời nói ác. Đó là tri kiến thanh tịnh tức là tri kiến giải thoát hay nói cách khác là tri kiến không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là sự hiểu biết thanh tịnh.
Tri kiến giải thoát tận đỉnh (Tạoduyên) là tâm bất động, tức là Bất Ðộng Tâm Ðịnh.
Tri kiến giải thoát thứ ba (TrợĐạo) Tri kiến về Dục Tầm, Sân Tầm, Hại Tầm, tâm niệm ham muốn, lòng ham muốn, về lòng sân giận, về những ý suy nghĩ làm khổ mình, khổ người. Đây là tri kiến giải thoát thứ ba. Đức Phật dạy: “Chư tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo thọ dụng dục tầm khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại, thọ dụng sân tầm khởi lên... (như trên)... thọ dụng hại tầm khởi lên... (như trên)... thọ dụng các ác bất thiện pháp khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét.”
Tri kiến giải thoát thứ bảy (TrợĐạo) Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến thông suốt pháp và luật của Đức Phật. Đức Phật dạy: “Và chư tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo, trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, không chứng đạt nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, không chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không biết chỗ nước uống.” Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến pháp tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết và giới luật đức hạnh của Phật. Vì thông hiểu giới luật và pháp tu tập làm chủ sinh già, bệnh, chết của Phật giáo.
Tri kiến giải thoát thứ chín (TrợĐạo) Tri kiến giải thoát thứ chín là tri kiến Tứ Niệm Xứ, nếu cuộc đời tu hành của chúng ta mà không có tri kiến này thì không bao giờ chúng ta tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết được. Ngoài pháp môn Tứ Niệm Xứ, đạo Phật không còn có một pháp môn nào tu chứng đạo cả. Đức Phật dạy: “Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không như thật biết về Bốn Niệm Xứ. Như vậy này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ.” Tri kiến giải thoát thứ chín là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ cho đúng cách của pháp môn Tứ Niệm Xứ. Phật dạy Trên Thân Quán Thân nhưng nếu ai chưa tu tập Tứ Chánh Cần mà vội tu tập Tứ Niệm Xứ thì ngay đó bị ức chế tâm. Cho nên tu tập Tứ Niệm Xứ là tâm phải hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng. Trong tri kiến giải thoát nó đứng vào hàng thứ chín, như vậy người sơ cơ mới tu tập thì không nên tu tập mà chỉ biết trong học tập.
Tri kiến giải thoát thứ hai (TrợĐạo) Tri kiến về Nghiệp Tướng, Đức Phật dạy: “Chư tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không khéo phân biệt các tướng? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng của người đó, kẻ trí và nghiệp tướng của người đó. Như vậy, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không khéo phân biệt các tướng.”
Tri kiến giải thoát thứ mười (TrợĐạo) Tri kiến giải thoát thứ mười là tri kiến biết đủ tức là tri kiến thiểu dục tri túc. Đức Phật dạy: “Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt? Ở đây, này các tỳ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, tỳ-kheo không biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt.” Người tu sĩ Phật giáo phải biết đủ, biết thiểu dục tri túc, phải buông xả tất cả vật chất xuống hết, đời sống chỉ còn ba y một bát xin ăn, đúng hạnh người tu sĩ ra khỏi cuộc đời. Thực hiện tri kiến giải thoát thứ mười: tri kiến buông xả, tri kiến thiểu dục tri túc.
Tri kiến giải thoát thứ mười một (TrợĐạo) Tri kiến giải thoát thứ mười một là tri kiến tôn kính tôn trọng những bậc tu hành chân chánh, giới luật tinh nghiêm, họ là những người đã tu tập lâu năm, chúng ta là những người hậu học nên phải cung kính tôn trọng họ. Khi gặp họ phải biết nhường chỗ ngồi tốt cho họ hoặc giúp đỡ họ khi họ đi đứng không vững vàng.
Tri kiến giải thoát thứ năm (TrợĐạo) đem những điều hiểu biết của mình đã được giải thoát dạy lại cho người khác, Đức Phật dạy: “Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không xông khói? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không xông khói.” Khi chúng ta đã thông suốt bốn tri kiến giải thoát trên đây là chúng ta có một đời sống bình an không có một ác pháp nào tác động làm tâm chúng ta buồn khổ, lo rầu, ưu bi phiền não. Khi tâm chúng ta được giải thoát như vậy, chúng ta nên đem dạy lại cho người khác hiểu biết để mọi người được giải thoát như chúng ta. Đến tri kiến giải thoát thứ năm Phật dạy: Mình nên đem những điều hiểu biết của mình đã được giải thoát dạy lại cho người khác để họ cùng giải thoát như mình. Tri kiến giải thoát thứ năm là thực hiện lòng tốt của mình với mọi người, đem sự lợi ích của mình cho mọi người để cùng nhau lợi ích.
Tri kiến giải thoát thứ nhất (TrợĐạo) Tri kiến về Sắc Thân do Bốn Đại hợp thành. Đức Phật dạy: “Chư tỳ-kheo, thế nào là tỷ-kheo không biết rõ các sắc? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo đối với sắc pháp không như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không biết rõ các sắc.” Vậy Sắc do Bốn Đại hợp thành là Đất, Nước, Gió, Lửa. Sắc hợp thành là pháp Vô Thường, mà Vô Thường là Khổ. Không chắp đắm vào thân Tứ Đại là người có tri kiến giải thoát thứ nhất.
Tri kiến giải thoát thứ sáu (TrợĐạo) tri kiến dẹp trừ tâm Nghi Ngờ, phá vỡ tâm Nghi Ngờ. Đức Phật dạy: “Và này, các tỳ-kheo, như thế nào là tỳ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những tỷ-kheo đa văn được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật nhưng không hỏi, các vị ấy: "Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? Ý nghĩa này là gì?" Những bậc Tôn giả ấy không làm cho hiển lộ những điều chưa hiển lộ, không làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị ấy không đoạn trừ nghi.” Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến giải trừ mọi tâm nghi ngờ, không còn nghi ngờ Chánh pháp của Phật. Đạo Phật dạy tu tập sẽ làm chủ bốn sự đau khổ: Sinh, Già, Bệnh, Chết, nhưng có người không tin cho rằng lời dạy này là lường gạt người chớ làm gì mà làm chủ được sự sống chết. Khi gặp trường hợp như vậy chúng ta giải thích cho họ hiểu biết cách thức làm chủ như thế nào. Làm chủ Sinh tức là làm chủ cuộc sống, làm chủ cuộc sống là làm chủ tâm mình. Muốn được tâm như vậy thì phải hiểu: Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta đều do nhân quả tác thành, vì thế những ác pháp đến với chúng ta là do trước kia chúng ta đã mang nhân quả ác đến với những người khác, bây giờ phải trả quả do nhân đời trước đã làm. Hiểu được như vậy tức là tri kiến giải thoát chúng ta đã có. Hết tâm Nghi Ngờ là được giải thoát. Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến dẹp trừ tâm Nghi Ngờ, phá vỡ tâm Nghi Ngờ. Nếu chúng ta có tri kiến giải thoát thứ sáu là chúng ta không còn tâm Nghi Ngờ.
Tri kiến giải thoát thứ tám (TrợĐạo) Tri kiến giải thoát thứ tám là tri kiến hiểu biết về Bát Chánh Đạo, là tri kiến giúp chúng ta hiểu rõ đường lối tu tập của Phật giáo. Đức Phật dạy: “Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không biết về con đường? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không biết đến con đường.” Đến với đạo Phật là đến với con đường Bát Chánh Đạo, chỉ đạo Phật mới có con đường này. Cho nên tri kiến giải thoát thứ tám là xác định chúng ta biết, thông hiểu Bát Chánh Đạo thông tri kiến giải thoát thứ tám. Tà giáo ngoại đạo không thể có con đường Bát Chánh Đạo. Ví dụ: Lớp Chánh Kiến là phải học tri kiến giải thoát thứ nhất thấy Sắc là do bốn duyên hòa hợp mà thành. Chánh Tư Duy là sự suy tư không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Chánh Ngữ là lời nói phải ôn tồn nhã nhặn nhẹ nhàng êm ái khiến người nghe được an vui, không buồn rầu tức giận. Chánh Nghiệp là tất cả hành động thân miệng ý đều phải thực hiện những điều lành và luôn luôn ngăn những hành động làm những điều ác. Chánh Mạng là nuôi mạng sống bằng những thực phẩm không có giết hại chúng sinh, không có sự đau khổ, không có kêu la thảm thiết. Trong năm lớp này là các lớp học tập Giới Luật Đức Hạnh mà Đức Phật đã dạy trong kinh Phạm Võng. Chánh Tinh Tấn thì chúng ta tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, hằng ngày ngăn ác và diệt ác pháp. Chánh Niệm thì chúng ta tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Chánh Định thì chúng ta nhập các loại định như: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền và thực hiện Tam Minh. Đến đây là con đường tu tập của Phật giáo đã xong.
Tri kiến giải thoát thứ tư (TrợĐạo) tri kiến phòng hộ sáu, Đức Phật: “Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không băng bó vết thương? Khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì làm cho con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; tỳ-kheo không tự chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì con mắt, không thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; tỳ-kheo không chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo không băng bó vết thương.” Tri kiến giải thoát thứ tư là tri kiến phòng hộ sáu căn tức là biết giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không cho dính mắc chấp đắm sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Muốn giữ gìn được như vậy thì phải sống độc cư trọn vẹn. Độc Cư là một phương pháp phòng hộ sáu căn đệ nhất. Người biết sống Độc Cư là người có tri kiến giải thoát thứ tư.
Tri kiến giải thoát và đức hạnh (ĐườngVề.6) là giới luật của Phật. Cho nên, đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”.
Tri kiến Như Chơn (12Duyên) là duyên của Yểm Ly. Muốn yểm ly thì phải dùng tri kiến hiểu biết nhân quả, hiểu biết các pháp vô thường, hiểu biết các pháp không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta và hiểu biết cái nào đúng cái nào sai; phải hiếu biết cái nào là chân lý và cái nào không phải là chân lý. Như Chơn ở đây có nghĩa là Tâm Bất Động, là thiền định.
Tri kiến thanh tịnh (là tri kiến giải thoát) (Phậtdạy.3) Khi một hành giả sống một đời sống đạo đức thì đạo đức là giới hạnh. Giới hạnh làm cho tri kiến không có khởi ác niệm, không có những hành động ác, không có những lời nói ác. Nhờ thế được xem là tri kiến thanh tịnh tức là tri kiến giải thoát hay nói cách khác là tri kiến không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là sự hiểu biết thanh tịnh.
Trí Ðức (Phậtdạy.1) là Tam Minh, là ba loại hành động tâm ý thức (ba pháp hay ba Trí Hạnh) không làm khổ mình, khổ người. Trí đức gồm có ba pháp sau đây: 1.- Pháp thứ nhất của Trí Ðức là Túc Mạng Minh do tâm thức ghi nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp của mình“Nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai đời và nhiều đời...”Người tu sĩ và người cư sĩ nào thể hiện được tâm thức (thức uẩn): nhớ đến nhiều đời, nhiều kiếp của mình trong quá khứ, là người ấy đang thể hiện “Trí Hạnh Túc Mạng Minh của mình ” (Trí Hạnh là hành động của Trí Ðức, nên ở đây là chỉ cho hành động Túc Mạng Minh, chứ không phải là Tam Minh, nhưng phải hiểu Trí Hạnh là một hành động trong Trí Ðức, không thể gọi Trí Ðức là Túc Mạng Minh được, mà phải gọi Trí Ðức là Tam Minh thì mới đúng nghĩa.). (Ở đây, cần phải phân biệt cho rõ ràng. Trong thân chúng ta có ba thức để hiểu biết, suy tư và ghi nhớ nghĩ: a). Ý thức thuộc về sắc uẩn, có sự ghi nhớ, nhớ lại, suy tư và hiểu biết, nhưng bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. b). Tưởng thức thuộc về tưởng uẩn có sự tưởng nghĩ, ghi nhớ, nhớ lại không bị không gian và thời gian hạn cuộc, nhưng không được vô tận. c). Tâm thức thuộc về thức uẩn có sự ghi nhớ, nhớ lại vô cùng tận không bị không gian và thời gian hạn cuộc). 2.- Pháp thứ hai của Trí Ðức là Thiên Nhãn Minh biết rõ nguyên nhân hoàn cảnh đương sống của chúng sanh tùy thuộc hạnh nghiệp “biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... đều do hạnh nghiệp của chúng, như vậy thuộc về Trí Ðức của vị ấy”. là người ấy đang thể hiện “Trí Hạnh” Thiên Nhãn Minh của mình. 3.- Pháp thứ ba của Trí Ðức làLậu Tận Minh, với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát “với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy thuộc về Trí Ðức của vị ấy”. người ấy đang thể hiện “Trí Hạnh” Lậu Tận Minh của mình. Lậu Tận Minh của mình, như Ðức đã dạy: “Vị Thánh đệ tử nào với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy thuộc về Trí Ðức của vị ấy”.
Trí Hạnh (Phậtdạy.1) là hành động của Trí Ðức. Trí Hạnh là một trong ba hành động trong Trí Ðức (hay Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh). Có ba hành động của Trí Đức: Hành động Túc Mạng Minh, Hành động Thiên Nhãn Minh và Hành động Lậu Tận Minh.
Trí hữu hạn (ĐườngVề.4) là sự hiểu biết có giới hạn, không vượt ra ngoài không gian và thời gian. Trí hữu hạn chỉ là sự hiểu biết trong thế giới hữu sắc mà thôi, sự hiểu biết còn bị hạn cuộc trong không gian và thời gian nên sự hiểu biết rất cạn cợt. Vì thế, thỉnh thoảng các nhà khoa học tìm kiếm hay phát minh ra một vật thể gì mới lạ thì con người hết sức vui mừng. Ðó là một bằng chứng cho biết trí hữu hạn, sự hiểu biết rất hạn cuộc. Ðối với thế giới siêu hình, trí hữu hạn không thể nào hiểu biết nổi. Phần đông, người ta dùng tưởng tri để hiểu biết nên đã lầm lạc. Do đó, tưởng tri của con người cho rằng con người có Linh hồn, Thần thức, Tiểu ngã, Phật tánh, Bản thể Vạn hữu, Ðại ngã, Chơn Không, Chơn Như, v.v... Người chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, linh hồn không đi đầu thai được, không chỗ nương tựa, sống vất vưởng theo cây cao bóng mát, thành ma, thành quỷ, đói khát bắt bớ người còn sống, bệnh đau hoặc tai nạn để được cúng bái, tế lễ. Những người làm tướng xông pha trận mạc dẹp giặc bảo vệ non sông, đất nước, khi chết linh hồn thành Thần, thành Thánh. Những người bỏ thế tục ly gia cắt ái vào rừng sâu núi thẳm tu hành, đến khi chết linh hồn thành Tiên, thành Phật, v.v... Phải nói trí hữu hạn, chỉ là sự hiểu biết của con người trong hạn cuộc không gian và thời gian, ngăn sông cách núi thì không thấy, tương lai thì không rõ, quá khứ cách một đời, hai đời thì không biết, không nhớ.
Trí hữu học và trí minh hữu học (12Duyên) Vì rằng vị thánh đệ tử được thanh tịnh và thuần tịnh hai loại trí: Pháp Trí và Tùy Trí. Vị ấy được gọi là thánh đệ tử đạt tri kiến, đã đi đến diệu pháp này, đã chấp nhận diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ trí hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.” (kinh107 Tương Ưng tập 2) Trong lời dạy này rất rõ ràng người có đủ Pháp Trí và Tùy Trí là người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết như lời dạy trong đoạn kinh này là người đang đứng gõ vào cửa Bất Tử. Vì đã đủ trí hữu học và trí minh hữu học.
Trí tuệ (Phậtdạy.2)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.5)(Đường Về.7)(12Duyên)(CầnBiết.4)(3Quy5Giới) Trí là sự hiểu biết có phân biệt thiện ác rõ ràng, tức là chánh niệm. Trí hiểu do Tứ thiền sinh ra là trí tuệ thuộc về Tam Minh. Trí hiểu về giới luật là trí tuệ tri kiến giải thoát. Trí tuệ tri kiến giải thoát tức là tri kiến tỉnh thức thuộc về tri thức mà đức Phật đả xác định trí tuệ tri kiến như sau: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu là trí tuệ ở đó; trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ. Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật”. Như vậy trí tuệ của giới luật là tri kiến giải thoát. Biết Trí tuệ tri kiến giải thoát do từ giới luật sinh ra thì không còn hiểu lầm trí tuệ Tam Minh do định sinh ra. Đức Phật đã dạy: ÐỊNH SINH TUỆ. Trí Tuệ là sự Hiểu Biết. Sự giải thoát của Phật giáo hoàn toàn do sự Hiểu Biết bằng Trí Tuệ. Có 6 Trí: 1- Trí biết rằng Già Chết do duyên Sanh. 2- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết. 3- Trí biết rằng trong quá khứ Già Chết cũng do duyên Sanh. 4- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết. 5- Trí biết rằng trong tương lai Già Chết cũng do duyên Sanh. 6- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết. Khi thông suốt sáu trí này thì người ấy có đầy đủ trí về Tận Pháp, trí về Hoại Pháp, trí vế Ly Tham, trí về Diệt Pháp, nhờ đó tâm họ hoàn toàn giải thoát tức là Bất Động trước các pháp. Trí tuệ là sự hiểu biết của ý thức, là tri kiến giải thoát, chứ không phải trí tuệ Tam Minh. Con người chỉ có tri kiến chứ chưa có trí tuệ, ngoại trừ những bậc tu chứng Tam Minh. Trí tuệ là giới hạnh. Có giới hạnh, có trí tuệ, thì lời nói mới thành thật không hư dối. Trí tuệphải phát sanh từ thiền định, nhưng bây giờ chưa có thiền định, sao lại gọi ý thức là trí tuệ được. Sự tư duy quán xét thì ý thức đó được gọi là tri kiến mà thôi. Trí tuệ gồm có bảy: 1- Trí tuệ do ý thức, 2- Trí tuệ do tưởng thức, 3- Trí tuệ do tâm thức, 4- Trí tuệ vô học, 5- Trí tuệ hữu học, 6- Trí tuệ thiện, 7- Trí tuệ ác. Trí tuệ và Tuệ (gồm có sáu: 1- Ðức tuệ, 2- Hạnh tuệ, 3- Trực tuệ, 4- Thắng tuệ, 5- Liễu tuệ, 6- Liệt tuệ.) cộng lại là 13 tuệ. Người tu hành chứng đạo mới có đủ 13 tuệ. Người không tu hành chỉ có sáu Trí tuệ và một Tuệ. Phần đông, trong cuộc đời người nào cũng có tri kiến, nhưng tri kiến không có giới hạnh. Tri kiến không có giới hạnh là tri kiến khổ đau, tri kiến ác, tri kiến dục làm khổ mình, khổ người. Từ ngữ trí tuệ dễ hiểu lầm cho nên câu “Giới hạnh là trí tuệ” có thể dịch sửa lại “Giới hạnh là tri kiến giải thoát”.
Trí tuệ ác (Phậtdạy.2) là sự hiểu biết về ác pháp; trí tuệ ác làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh; trí tuệ ác là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Trí tuệ ác là tâm dao động trước các pháp ác và các cảm thọ; trí tuệ ác là tâm không ly dục ly ác pháp; trí tuệ ác là trí tuệ của những người phàm phu tục tử, hèn nhát, tham sống, sợ chết, tham danh, đắm lợi, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, a dua, v.v...
Trí tuệ của đạo Phật (ĐườngVề.6) được phát triển là ở chỗ biết “xả tâm ly dục ly ác pháp”chứ không phải chỗ học hỏi nhiều. Vì có xả tâm ly dục ly ác pháp thì giới luật mới thanh tịnh, giới luật có thanh tịnh thì đời sống mới có đạo đức, mà đời sống có đạo đức thì ngay đó là trí tuệ, chứ có học hỏi gì đâu.
Trí tuệ do tâm thức (Phậtdạy.2) là sự hiểu biết của thức uẩn, là trí tuệ Tam Minh, là trí tuệ phi không gian và thời gian, còn gọi là trí tuệ vô lậu.Trí tuệ vô lậu là trí tuệ của bậc đã chứng quả A La Hán, gọi tắt là trí tuệ A La Hán.
Trí tuệ do tưởng thức (Phậtdạy.2) tưởng kiến, là sự hiểu biết của tưởng thức. Tưởng thức là sự hiểu biết của tưởng uẩn (sự hiểu biết trong chiêm bao).
Trí tuệ do ý thức (Phậtdạy.2) là tri kiến, tri kiến là sự hiểu biết của ý thức. Ý thức là một trong nhóm sáu thức: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của sắc uẩn.
Trí tuệ hữu học (Phậtdạy.2) là trí tuệ do học tập và tu hành. Trí tuệ hữu học là ý thức được huân tu, huân học có thầy dạy, có kinh sách, có pháp môn tu hành, có bạn đồng tu, có thiện tri thức hướng dẫn. Trí tuệ hữu học được hướng dẫn đúng theo giáo pháp Nguyên Thủy của Phật giáo thì trí tuệ ấy trở thành một sự hiểu biết sống động, có đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Trí tuệ hữu học ấy còn gọi là tri kiến giải thoát của Phật giáo. Trí tuệ ấy do tu tập Ðịnh Vô Lậu mà phát triển. Ðịnh Vô Lậu còn được xem là tri kiến giải thoát, nói một cách khác là trí tuệ hữu học.
Trí tuệ phải hiểu biết cái gì mới đoạn diệt khổ đau (12Duyên) Muốn thoát mọi sự khổ đau trong cuộc đời thì chỉ có lìa xa, hay từ bỏ, hoặc đoạn diệt tâm tham. Từ duyên trí tuệ về đoạn diệt là giải thoát.
Trí tuệ Tam Minh (Phậtdạy.2) là trí tuệ hiểu biết, siêu không gian và thời gian.
Trí tuệ thế gian (ĐườngVề.1) là sự hiểu biết và tư duy suy nghĩ một điều gì mà do lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si thúc đẩy. Tri kiến giải thoát không phải ngoài trí tuệ thế gian. Nếu tâm chưa ly dục ly ác pháp thì tri kiến đó là tri kiến thế gian. Đường lối tu tập của đạo Phật là chuyển từ tri kiến thế gian để trở thành tri kiến giải thoát; từ tri kiến giải thoát chuyển thành tâm ly dục ly ác pháp; từ tâm ly dục ly ác pháp chuyển thành tuệ Tam Minh. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, là đạo chuyển hóa tâm phàm phu trở thành tâm Thánh. Muốn được như vậy phải bằng nước mắt, và máu của chúng ta, có nghĩa là chúng ta phải chết đi một lần và sống lại.
Trí tuệ thiện (Phậtdạy.2) là sự hiểu biết về thiện pháp, trí tuệ không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh; trí tuệ thiện là tâm ly dục ly ác pháp, là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trí tuệ thiện là chánh tư duy, là Ðịnh Vô Lậu; trí tuệ thiện là giới luật, là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo.
Trí tuệ tri kiến giải thoát (ĐườngVề.10) Muốn có trí tuệ tri kiến giải thoát, người mới tu phải bắt đầu học hiểu đạo đức nhân quả, Tứ Diệu Ðế, Thân Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên... nói chung là phải nghiên cứu tạng kinh Pali cho thông suốt.
Trí tuệ vô học (Phậtdạy.2) là ý thức hiểu biết không cần vay mượn những sự hiểu biết của người khác như học tập trong sách vở, kinh tạng, v.v… Trí tuệ vô học chính là tri kiến của ý thức, nó bị hạn cuộc trong không gian và thời gian nên sự hiểu biết này không thấu suốt vũ trụ và vạn vật như thật, thường sống trong sự hiểu biết của tưởng. Nói trí tuệ vô học chứ kỳ thật trí tuệ đó thường bắt chước sự hiểu biết của người khác. Ví dụ: một đứa bé từ lúc sinh ra cho đến lớn khôn bắt đầu đều phải tập trườn, bò, tập đi, tập ăn, tập nói, tập hiểu biết, v.v... Ðó là đều vay mượn của người khác cả. Những người tuy không học thức nhưng vẫn là những người có trí tuệ vay mượn, vay mượn ít, còn những người có học thức là những người vay mượn nhiều. Kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy xác định trí tuệ vô học là chỉ cho sự hiểu biết của những người phàm phu ngu si, dốt nát, vô học, luôn sống trong vô minh với ác pháp, thường làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Trí tuệ vô học chính là tri kiến của ý thức. Tri kiến của ý thức bị hạn cuộc trong không gian và thời gian nên sự hiểu biết không thấu suốt vũ trụ và vạn vật như thật nên thường sống trong sự hiểu biết của tưởng.
Trí tuệ vô lậu (Phậtdạy.2) là trí tuệ của bậc đã chứng quả A La Hán, gọi tắt là trí tuệ A La Hán.
Trí tuệ vô sư (Phậtdạy.2) là trí tuệ vô học không có thầy dạy mà do tự mình hiểu biết trong thiền định ức chế tâm mà có, là trí tuệ tưởng thiếu chân thật và chính xác, thường đưa dắt con người vào thế giới ảo tưởng. Kinh sách Ðại Thừa và những công án Thiền Tông đều do trí tuệ tưởng sản xuất, vì thế thiếu chân thật và chính xác, thường đưa dắt con người vào thế giới ảo tưởng. Những công án của Thiền Tông ra đời là nhằm mục đích trắc nghiệm trí vô sư của đệ tử, nhưng kỳ thực đó là một lối hướng dẫn đệ tử triển khai tưởng tuệ bằng một công thức có bài bản của hệ phái này. Cho nên, các hệ phái Ðại Thừa và Thiền Tông chưa có đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người, mà chỉ đem lại một cuộc sống vào trong tinh thần ảo tưởng (Phật Tánh).
Trí về hoại pháp, trí về ly tham pháp, trí về diệt pháp (12Duyên) khi nào có trí về trú pháp, chỗ ấy cũng có trí về tận pháp, hoại pháp, ly tham pháp và diệt pháp.
Trí về trú pháp (12Duyên) Trí biết rằng già chết do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết. Trí biết rằng trong quá khứ già chết cũng do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết. Trí biết rằng trong tương lai già chết cũng do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết.
Trí vô hạn (ĐườngVề.4) hiểu biết thế giới siêu hình, không gian và thời gian không còn hạn cuộc. Trí vô hạn tức là trí tuệ Tam Minh của nhà Phật. Muốn có trí vô hạn, phải tu tập, trau dồi thân tâm và xa lìa vật chất dục lạc thế gian, tránh xa các ác pháp (ly dục, ly ác pháp). Phải tu tập theo lộ trình, “Giới, Ðịnh, Tuệ” và nhập bốn loại định hữu sắc, “Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền” tức là tịnh chỉ ngôn hành, tịnh chỉ khẩu hành, tịnh chỉ tưởng hành và tịnh chỉ thân hành. Khi đó, thân định trên tâm, tâm định trên thân, rồi hướng tâm đến Tam Minh, tâm đã viên mãn Tam Minh, thì trí vô hạn mới có. Mục đích để đạt được trí vô hạn, hành giả phải nhập “Bất động tâm định”. Muốn nhập bất động tâm định, hành giả phải sống đúng giới đức và giới hạnh của đạo Phật. Nếu sống không đúng giới đức và giới hạnh, thì dù có tu pháp thiền định nào cũng chẳng có trí vô hạn, duy chỉ có pháp môn “Tam Vô Lậu Học”, tu tập mới có trí vô hạn mà thôi. Tam Vô Lậu Học là pháp môn chia làm ba giai đoạn tu tập hay còn gọi là ba cấp tu học trong chương trình giáo dục đào tạo của Phật giáo: 1- Tu tập đức hạnh không làm khổ mình, khổ người tức là ly dục ly ác pháp. 2- Tu thiền định tức là phải nhập từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đến Tứ Thiền. 3- Tu tập Tam Minh tức là hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh. Sau khi tu tập xong ba giai đoạn này thì trí vô hạn hiện tiền.
Trì giới (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.6)(CầnBiết.4) là chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp, có nghĩa là người tu sĩ và người cư sĩ sống đúng giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, biết sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, biết xấu hổ dù là phạm một giới luật nhỏ hoặc một điều ác nhỏ. Như vậy người đã ly dục ly ác pháp là người đã sống trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Người đã sống được trong trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự là người tâm Bất Ðộng trước các ác pháp và các cảm thọ. Người có tâm bất động hoàn toàn không bị các ác pháp tác động thì nhập được Sơ Thiền, một loại thiền trong Tứ Thánh Định của Phật Giáo dễ dàng. Cho nên, Phật giáo lấy giới luật tu tập mà thành thiền định. Phạm giới, bẻ vụn giới, dù ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng hai tháng... vẫn là thiền tưởng mà thôi. Người có tâm Bất Ðộng trước các ác pháp và các cảm thọ là người có đạo đức nhân bản, người có đạo đức nhân bản là người không làm khổ mình, khổ người. Người không làm khổ mình, khổ người là người giải thoát của đạo Phật. Người giải thoát của đạo Phật là người có tri kiến giải thoát. Người trì giới là người có trí tuệ và đức hạnh, là người có tâm thanh tịnh giải thoát. Người trì giới là người tu sĩ chân chánh của đạo Phật.
Triển khai tri kiến giải thoát (12Duyên) là tu tập, là huân tập sự hiểu biết giải thoát, nhờ vậy chúng ta ly tham, sân, si, mạn, nghi.
Triển khai tư tuệ trong ý hành niệm, khẩu hành niệm, thân hành niệm (ThiềnCănBản) để ly dục, ly ác pháp, để tu luyện tập đức nhẫn nhục.
Triết học hiện sinh (ĐạoĐức.2) quan niệm cuộc sống con người chỉ có hiện tại và chết là hết, nên cho rằng: “Sống là để hưởng thụ”, khuyến khích thanh niên nam nữ lăn xả vào cuộc sống hiện sinh “xả láng” cuộc đời để hưởng thụ nhục dục cho thỏa mãn. Nhưng tâm tham dục của con người là tâm không đáy, không thể hưởng thụ dục vọng xả láng để được thỏa mãn dục vọng được. Cuộc đời này đã chứng minh cho chúng ta thấy: “Người nào sống để hưởng thụ cho thỏa mãn dục vọng của mình, thì cuối cùng sẽ thân tàn ma dại, khổ đau tận cùng”. Nếu đời sống con người không có ý thức về đạo đức nhân bản không tham sắc dục thì thế gian này loài người khó được an vui - dứt khổ.
Trú niệm (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là ở trong chánh niệm, nói rõ nghĩa hơn là ở trong niệm thiện. Niệm thiện là niệm không tham, sân, si, mạn, nghi, v.v…Người trú niệm (ở trong niệm thiện) thì tâm thanh thản, an lạc và vô sự xem như cơn đau chẳng có liên hệ gì đến mình. Người trú niệm là luôn luôn ở trong tâm bất động còn người thất niệm thì luôn luôn ở trong tâm dao động. Có nhiều cách trú niệm: · Trú niệm trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. · Trú niệm trên 18 đề mục hơi thở. · Trú niệm trên bước đi (kinh hành). · Trú niệm trên thân hành (Thân Hành Niệm). · Trú niệm quán vô lậu. · Trú niệm thư giản. Theo nghĩa của Đại Thừa và Thiền Tông thì trú niệm là ở chỗ không có vọng tưởng, như kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”; Thiền Tông dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Đó là lối trú niệm ức chế tâm chứ không phải trú niệm xả tâm theo như Phật Giáo Nguyên Thủy. Ví dụ 1: Có một người tức giận một điều gì mà chửi mắng người kia; người kia tức giận chửi mắng lại người nọ. Người tức giận chửi mắng lại người khác là người thất niệm. Còn người trú niệm thì không tức giận mà tâm hồn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, xem như không có điều gì xảy ra. Ví dụ 2: Cơ thể bị bệnh đau nhức khổ sở vô cùng, như đau ruột thừa. Người bị bệnh thất niệm thì rên la khổ sở, còn người không thất niệm (trú niệm) thì tâm thanh thản, an lạc và vô sự xem như cơn đau chẳng có liên hệ gì đến mình. Theo nghĩa của Phật Giáo thì người trú niệm là luôn luôn ở trong tâm bất động còn người thất niệm thì luôn luôn ở trong tâm dao động. Có nhiều cách trú niệm: Trú niệm trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Trú niệm trên 18 đề mục hơi thở. Trú niệm trên bước đi (kinh hành). Trú niệm trên thân hành (Thân Hành Niệm). Trú niệm quán vô lậu. Trú niệm thư giản.
Trung nguơn (10Lành) ăn chay suốt tháng bảy âm lịch.
Trừ diệt (Phậtdạy.2) làm cho sạch không còn nữa. Có những lậu hoặc cần phải trực tiếp đoạn trừ lậu hoặc cho thật sạch, phải dùng pháp Như Lý Tác Ý. “Hôn trầm, thùy miên là một trạng thái ngu si, ta phải từ bỏ xa lìa, đoạn diệt, làm cho thật sạch”. “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành, chân trái bước. Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành, chân phải bước”. “Tham là ác pháp là khổ đau hãy đi, đi!” hoặc “Tham không phải là ta. Ta không chấp nhận ngươi, ngươi hãy đi, đi!”.“Sân là ác pháp là khổ đau hãy đi, đi!” hoặc “Sân không phải là ta. Ta không chấp nhận ngươi, ngươi hãy đi, đi!”.
Trực Hạnh (Phậtdạy.1) là những hành động trực tiếp làm chủ bốn sự đau khổ trên thân, thọ tâm và pháp có nghĩa làm làm chủ sinh, già, bệnh, chết chấm dứt luân hồi. Trực hạnh chính là những hành động Tứ Thánh Ðịnh, Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.
Trực tuệ (Phậtdạy.2) trí tuệ ngay thẳng, dám ăn dám nói những cái sai của người khác. Những người dám ăn dám nói những cái sai của người khác là những người có Trực tuệ. Ngày xưa Ðức Thích Ca Mâu Ni dám nói thẳng cái sai trong giáo lý của Bà La Môn và dựng lại những cái đúng, cái thiện giúp cho loài người thoát ra khỏi tinh thần tư tưởng mê tín lạc hậu. Ngài dám nói thẳng cái sai trong giáo lý của Bà La Môn là vì tâm đại từ bi đối với chúng sanh, đối với loài người. Hôm nay, vì lòng thương tưởng tín đồ Phật giáo, nên chúng tôi chẳng ngại hiểm nguy trước một thế lực vĩ đại so với mình như hạt cát giữa sa mạc. Dám nói thẳng sự thật, những cái sai của kinh sách phát triển Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ và những cái sai của các hệ phái khác nhau trong Phật giáo hiện thời, để giúp cho tín đồ Phật giáo sáng suốt nhận định đâu là Chánh pháp, đâu là Tà pháp, đâu là Chánh tín, đâu là Mê tín, đâu là Chánh kiến, đâu là Tà kiến; đâu là Chánh tư duy, đâu là Tà tư duy. Và như vậy, để khai hoang trục lộ Bát Chánh Ðạo, giúp cho mọi người tu theo Phật giáo không còn đi sai đường lạc lối nữa. Ðức Phật ngày xưa và ngày nay chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng, v.v... Ðó là Trực tuệ.
Truyền thống (Phậtdạy.1) là nền nếp thói quen tốt đẹp hay thói quen mê tín, lạc hậu được lưu giữ từ đời này, qua đời khác. Những gì truyền thống lâu đời chúng ta không nên đặt trọn lòng tin ở đó, vì không phải tất cả những truyền thống đều tốt đẹp cả.
Truyền thuyết (Phậtdạy.1) là truyền miệng từ người này đến người kia nối tiếp nhau trong một quá trình thời gian dài vô cùng vô tận, là kể chuyện, thuật chuyện như kể truyện dân gian về các nhân vật, kì tích lịch sử, chuyện thần tiên, chuyện ma quỷ, chuyện địa ngục, chuyện Thiên đàng, Cực lạc, v.v... những câu chuyện thường mang nhiều yếu tố thần kì. Những chuyện ấy là những chuyện không có thật. Do đó, đức Phật bảo chúng ta đừng có tin nếu những lời dạy ấy không phải là thiện pháp.
Trước khi mênh chung thì phải nghĩ đến Ta (TruyềnThống.2) tức là nghĩ đến giới luật, giới luật là tâm vô lậu, tâm vô lậu là tâm bất động, tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Trường hợp khi hai nhóm tế bào não ý thức với tưởng thức trong óc kết hợp làm việc (LinhHồn) với nhau có do ý muốn khởi ra triển khai, điều khiển thì sự kết hợp hoạt động đó hoàn chỉnh và chính xác 100%; sự kết hợp hoạt động làm việc đó có hai phận sự: 1. Làm việc bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là không vượt ra khỏi thời gian, vì vậy thời gian bị chia cắt; không vượt qua không gian, nên không gian còn trải dài. 2. Làm việc không bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là vượt qua không gian và thời gian (Sự làm việc này gọi là làm việc trong vô thức). Người tu theo đạo Phật khi nhập được Tứ Thánh Định thì có sự hiểu biết rất rõ ràng do ý thức kết hợp với tưởng thức hoạt động vàhoạt động hai mặt: 1. Hữu thức (ý thức). 2. Vô thức (tưởng thức). Bộ óc có phần làm việc bị hạn cuộc không gian và thời gian (ý thức), và có phần làm việc không bị hạn cuộc không gian và thời gian (tưởng thức). Cho nên sự sử dụng được những tế bào não ý thức và những tế bào não tưởng thức khiến chúng hoạt động khi ý muốn khởi ra.
Trượng (TruyềnThống.2) là thanh cây bằng gỗ suông dài 3m33 dùng làm vũ khí đánh nhau hay dùng để đánh trị những người có tội trong thời phong kiến xưa. Ngày xưa trượng, gậy là hai loại vũ khí dùng để đánh và giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ và chết. Bỏ trượng, gậy, kiếm, đao là đức hạnh cao thượng biết thương mình, không làm khổ mình; biết thương người, không làm khổ người; biết thương chúng sanh, không làm khổ chúng sanh; mang lại sự bình an cho muôn loài.
Trưởng lão (Phậtdạy.1) trong Ðạo Phật được xem là một bậc tu chứng đã giải thoát hoàn toàn, là bậc A La Hán. Một bậc tu chứng Trưởng lão không phân biệt là tu sĩ hay cư sĩ, không phân biệt người đó tuổi tác nhỏ hay lớn, một khi tâm lìa tâm tham, sân, si thì ngay đó đã tu chứng, được gọi là Trưởng lão.
Trong sạch (ThiềnCănBản) là không làm khổ mình khổ người.
Trong Tĩnh giác không có Tỉnh thức (TâmThư.1) vì có Tỉnh thức thì Tĩnh giác mất; cũng như trong Tỉnh thức không có Tĩnh giác, vì có Tĩnh giác thì Tỉnh thức mất. Cho nên hai pháp này không phải là một pháp mà hai pháp môn. Hai pháp môn này là hai giai đoạn tu tập của Phật giáo “Giới, Định”. Pháp môn Tĩnh giác Chánh niệm dùng để tu tập Tứ Chánh Cần xả tâm phần thô; còn Pháp môn Tỉnh thức Chánh Niệm dùng để tu tập Tứ Niệm Xứ luyện nội lực thiền định để xả tâm phần vi tế.
Trọng công tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là người dùng tưởng uẩn điều khiển sức nặng như núi đá.
Trộm (TruyềnThống.2) là hành động lén lút rình mò chờ người khác không lưu ý mà lấy của cải tiền bạc của người khác.
Trộm cắp (10Lành) là do lòng tham lam, muốn được thảnh thơi, an nhàn, có nhiều của cải, ăn ngon, mặc đẹp mà chẳng cần phải làm lụng vất vả như bao nhiêu người khác.
Trở Về Ðạo Phật (Tạoduyên) là tên một tập sách mỏng, do bác sĩ Trí và Ðức Tâm ghi lại từ một cuộn băng cassette ghi âm buổi tọa đàm của Trưởng lão Thích Thông Lạc với quý tu sĩ tăng, ni Ðại Thừa, Thiền Tông và phật tử Thành phố Hồ Chí Minh, tại tu viện Chơn Như. “Trở Về Ðạo Phật” là một lời khuyên chân thành, với tâm tha thiết, đầy lòng yêu thương của Trưởng lão Thích Thông Lạc với những tu sĩ tăng, ni và phật tử đang tu hành theo Phật giáo.
Trời (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.4) là trạng thái tâm sống trong 10 điều lành gọi là thập thiện. Trời là cõi thập thiện có 33 cõi Trời tức là có 33 từ trường thiện, hay là 33 cấp thiện của Trời. Muốn tu tập để thoát ra trạng thái đau khổ này và chấm dứt tái sanh luân hồi thì chỉ có tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ.
VIẾT TẮT CÁC SÁCH
(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.