SƠ THIỀN
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích PHẬT GIÁO CÓ ÐƯỜNG LỐI RIÊNG, TG.2011, tr.64-82)
Nguồn: PHẬT GIÁO CÓ ÐƯỜNG LỐI RIÊNG
SƠ THIỀN DƯỚI CÂY HỒNG TÁO
Lúc đức Phật còn bé theo vua cha đi dự lễ hạ điền. Theo phong tục ngày xưa lễ hạ điền là buổi lễ tổ chức rất long trọng do nhà vua và nhân dân tổ chức để nhà vua là người xuống ruộng cày đầu tiên, khiến cho một năm mưa thuận gió hòa. Lúc bấy giờ đức Phật ngồi dưới cây hồng táo để tránh nắng, nhưng lại tu tập ly dục ly ác pháp để nhập Sơ Thiền.
Sơ thiền này chắc chắn là Sơ thiền của ngoại đạo, vì lúc bấy giờ đức Phật còn là một cháu bé ngây thơ chỉ bắt chước người lớn như vua cha và các quan trong triều được lục sư ngoại đạo dạy tu tập bốn thiền.
Do tư duy điều này chín chắn nên chúng tôi xác định Sơ thiền mà đức Phật lúc còn bé nhập được này là của ngoại đạo, vì lúc bấy giờ đức Phật chưa đi để tu chứng đạo nên không thể có Sơ Thiền của đạo Phật được. Sơ thiền mà đức Phật nhập lúc còn bé, lúc ngồi tránh nắng dưới cây hồng táo này là của Lục sư trong thời đức Phật. Xin quý vị phật tử cần lưu ý và quan tâm đến những điểm sai khác nhau trong Sơ thiền của ngoại đạo và Sơ thiền của Phật giáo mà chúng tôi sẽ chỉ rõ để quý vị hiểu biết tường tận. Quý vị phật tử sẽ biết Sơ thiền nào đúng của Phật giáo và Sơ thiền nào không đúng của Phật giáo màchỉ là pháp của ngoại đạo.
Những học giả nghiên cứu đọc đến đoạn kinh này xin phải xem xét cho kỹ vì Sơ thiền của ngoại đạo và Sơ thiền của đức Phật là hai pháp môn khác nhau chớ không phải cùng một pháp môn. Đừng nghe có cùng tên Sơ Thiền mà cho hai pháp môn khác nhau này là một.
Sơ Thiền của ngoại đạo cũng bảo ly dục ly ác pháp mới nhập Sơ thiền và Sơ thiền của Phật giáo cũng bảo như vậy, nhưng ly dục ly ác pháp có nhiều cách.
Sơ thiền của ngoại đạo ly dục ly bất thiện pháp bằng cách tu tập ức chế ý thức không cho ý thức khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm thì cho đó là nhập Sơ Thiền. Ðó là sự sai khác về cách thức tu tập không giống chút nào cả cho cách ly dục ly ác pháp. Đạo Phật muốn ly dục ly ác pháp không phải ức chế ý thức để ý thức không khởi niệm.
Sơ thiền của Phật tu tập cũng gọi ly dục ly bất thiện pháp, nhưng cách thức ly dục ly bất thiện pháp không giống như Sơ Thiền của ngoại đạo. Cách ly dục ly bất thiện pháp của Phật là phải sống đúng giới luật của Phật đã dạy và dùng pháp Như lý tác ý. Nếu giới luật chưa sống đúng và không dùng pháp Như lý tác ýđể ly dục thì dù tu như thế nào cũng không ly dục ly bất thiện pháp được.
Cho nên người ta không hiểu biết vì không có ai hướng dẫn chỉ dạy để biết những sự sai khác này trong sự tu tập Sơ Thiền của Phật giáo và Sơ Thiền của ngoại đạo. Người ta đâu hiểu rằng Sơ thiền của Phật và Sơ thiền của ngoại đạo là hai pháp môn khác nhau và cách thức tu tập cũng khác xa nhau. Người ta cứ nghĩ Sơ thiền của đạo Phật không khác chi với Sơ thiền của ngoại đạo.
Như chúng tôi đã nói ở trên muốn tu tập Sơ Thiền của Phật giáo là phải sống đúng giới luật. Khi sống đúng giới luật là đã ly dục ly ác pháp phần thô.
Khi dục và ác pháp phần thô đã ly thì có nghĩa giới luật đã sống nghiêm chỉnh. Nếu giới luật chưa sống đúng nghiêm chỉnh thì không thể ly dục và ác pháp phần thô được. Dục và ác pháp phần thô chưa ly thì dù tu pháp môn nào cũng bị ức chế ý thức hết.
Chính chỗ này là điều quan trọng mà quý vị phật tử cần nên lưu ý, nếu không lưu ý những điều quan trọng này dù quý vị có ham tu cũng chỉ uổng công mà thôi.
Như chúng tôi đã nói muốn ly dục ly bất thiện pháp thì đầu tiên quý vị nên lấy giới luật làm pháp để sống theo rồi kế đó mới tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN là ngăn ác diệt ác pháp sinh thiện tăng trưởng pháp. Ðây là pháp thứ hai trong khi tu tập ly dục ly bất thiện.Trong Sơ Thiền của ngoại không có pháp môn TỨ CHÁNH CẦN này.
Khi tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN, do ngăn ác và diệt các ác pháp nên tâm bất động, thanh thản an lạc và vô sự, vì thế tâm luôn luôn bám trên TỨ NIỆM XỨ.
Khi tâm bám trên TỨ NIỆM XỨ 7 ngày đêm thì tâm có đủ đạo lực. Ðạo lực đó gọi là TỨ THẦN TÚC, Tứ Thần Túc gồm có:
1- Tinh Tấn Như Ý Túc.
2- Ðịnh Như Ý Túc.
3- Tuệ Như Ý Túc.
4- Dục Như Ý Túc.
Tu tập đến đây hành giả có Ðịnh Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thiền của Phật giáo.
Sơ Thiền của ngoại đạo không có tu tập ly dục ly ác pháp như vậy. Sơ thiền của ngoại đạo là làm cho ý thức không khởi niệm rồi bảo đó là ly dục ly ác pháp. Như vậy chúng ta thấy Sơ Thiền của ngoại đạo và Sơ Thiền của đạo Phật không giống nhau quá rõ ràng.
Và như vậy Bốn Thiền của Phật giáo và Bốn Thiền của ngoại đạo không giống nhau chút nào cả. Muốn nhập bốn Thiền của ngoại đạo không cần Ðịnh Như Ý Túc, vì pháp tu tập của ngoại đạo không có Ðịnh Như Ý Túc mà chỉ có một pháp duy nhất là ức chế ý thức làm cho ý thức không khởi niệm.
Bây giờ quý vị đã hiểu Sơ Thiền của đạo Phật và Sơ Thiền của ngoại đạo, tên tuy giống nhau nhưng pháp tu tập để nhập vào Sơ thiền thì khác nhau một trời một vực.
Cho nên khi đức Phật ngồi dưới cây hồng táo nhập Sơ Thiền, đó là Sơ Thiền của ngoại đạo, còn khi đức Phật tu tập nhập Sơ Thiền dưới cây bồ đề là Sơ Thiền của đạo Phật, vì Sơ Thiền dưới cội bồ đề là do đức Phật truy tìm pháp môn Tứ Chánh Cần, tu tập nó để nhập được Sơ Thiền. Vì lý do này chúng tôi mới nói rằng: “ÐẠO PHẬT CÓ ÐƯỜNG LỐI TU TẬP RIÊNG, KHÔNG BỊ ẢNH HƯỞNG DÙ BẤT CỨ MỘT PHÁP MÔN NÀO CỦA NGOẠI ÐẠO”.
KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG
Sau khi Ðức Phật rời bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp, con thơ, liền đi tìm một tu sĩ ngoại đạo nỗi tiếng nhất bấy giờ, và nhập được định KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG. Vị tu sĩ ngoại đạo này có tên là Alara Kalama, đức Phật đến thọ giáo với Ngài và được hướng dẫn tận tường, chẳng bao lâu sau đức Phật đã chứng nhập được KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG. Sau khi chứng nhập Không Vô Biên Xứ Tưởng Ngài nhìn lại tâm mình vẫn thấy tâm tham, sân, si, mạn, nghi còn nguyên vẹn, nên đức Phật đến từ giã vị thầy đã hết lòng truyền dạy cho mình. Ngài xin từ giã đi nơi khác để tìm pháp nào tu tập giải thoát làm chủ bốn sự khổ đau sinh, già, bệnh, chết. Sau khi nghe được người đệ tử của mình xin từ giã thì Ngài Alara Kalama hết lời khuyên ngăn đức Phật ở lại. Nhưng đức Phật một mực xin đi tìm một vị thầy khác mong sao tu tập được giải thoát mọi khổ đau của bản thân và sau này có thể giúp đỡ mọi người tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ
Khi đức Phật rời khỏi đạo tràng của Alara Kalama, rồi vượt sông Hằng tìm đến đạo tràng của Uddaka Ramaputta học đạo. Ở đây đức Phật cũng được vị thầy này chỉ dạy các pháp tận tường. Ðức Phật tu tập chẳng bao lâu liền nhập được định PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ. Ðịnh PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ là một loại định cao nhất của ngoại đạo lúc bấy giờ, các vị thầy ngoại đạo khó có ai tu đạt được thiền định này, nhưng chỉ có đức Phật nổ lực tu tập trong một thời gian ngắn mà Ngài đã nhập được một cách dễ dàng. Khi nhập xong định PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ thì đức Phật được Ngài Uddaka Ramaputta chia cho nửa tòa để cùng lãnh chúng. Tuy đức Phật nhập được PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ nhưng cảm nhận tâm mình vẫn còn tham, sân, si, mạn, nghi, vì thế đức Phật xin từ giả vị thầy đã tận tình hướng dẫn tu tập để đi tìm một vị Thầy khác dạy tu tập để làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Từ vị thầy này đến vị thầy khác, nhưng đến đâu đức Phật đều thấy các vị thầy đó đều tu tập rèn luyện thần thông hơn là chú ý đến giải quyết mọi sự khổ đau của kiếp người. Vì thế đức Phật đi tìm mãi và gặp một số tu sĩ tu tập khổ hạnh để mong làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Nghe thế đức Phật liền nhập vào số những người tu sĩ này và cùng tu tập.
SƠ THIỀN DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ
Sau khi đức Phật tu hành khổ hạnh cùng 5 anh em tôn giả Kiều Trần Như không tìm ra được sự giải thoát, nên Ngài từ bỏ khổ hạnh và rời bỏ các vị ngoại đạo tu khổ hạnh vì khổ hạnh không mang đến sự giải thoát mà còn gây tạo ra sự đau khổ nhiều hơn, mà lợi dưỡng thì chạy theo dục mà chạy theo dục thì không bao đời hết khổ. Do tư duy như vậy nên Ngài bỏ đi và tìm đến một cội cây bồ đề.
Dưới cội cây bồ đề mát mẻ này, có một phiến đá to, mặt hướng ra sông Ni Liên, thật là nơi tu hành lý tưởng. Chọn nơi tu hành yên tĩnh xong Ngài quyết định sống ở đây cho đến khi tu hành thành chánh quả. Khi có chỗ ở tốt cho sự tu hành, Ngài mới suy tìm một phương pháp nào tu tập để được giải thoát hoàn toàn. Ngài từ giả lối tu khổ hạnh ép xác và cũng không sống chạy theo dục lạc ăn uống.
Ngài nhớ lại lúc còn bé theo vua cha làm lễ hạ điền, ngồi dưới cội cây hồng táo Ngài bắt chước vua cha tu tập Sơ Thiền. Bấy giờ Ngài cũng lấy phương phápSơ thiền đó ra tu tập, nhưng Ngài lại tư duy muốn nhập Sơ thiền là phải ly dục ly ác pháp mà lại cố ức chế tâm, cố gắng giữ gìn tâm không vọng niệm thì làm sao ly dục ly ác pháp được?
Tự đặt ra câu hỏi rồi Ngài lại tiếp tục tư duy suy nghĩ: “Dục là lòng ham muốn của mình, mà lòng còn ham muốn là còn đau khổ, cho nên phải dứt trừ lòng ham muốn, dứt trừ lòng ham muốn bằng cách nào?”.
Câu hỏi được đặt ra nhưng câu trả lời chưa có, nên Ngài lại tiếp tục tư duy: “Trong tâm ta thường hay bị chướng ngại do các ác pháp bên ngoài tác động vào làm cho nó khổ đau. Những đối tượng bên ngoài phần đông là ác pháp, nên khi chúng tác động vào thân hay tâm là chúng ta thấy bất an liền. Như vậy mục đích ly dục ly ác pháp còn có nghĩa là ngăn ngừa lòng dục bên trong tức là không cho khởi lên lòng ham muốn, nếu nó có khởi lên lòng ham muốn thì phải quán xét tư duy diệt nó ngay liền”. Như vậy ta mới có pháp tu tập ly dục ly ác pháp, chớ nói ly dục ly ác pháp thì chỉ là lời nói suông mà không có pháp hành thì làm sao ly dục ly ác pháp.
Bởi vậy, khi đức Phật ngồi dưới cội cây bồ đề tư duy về các vị thầy ngoại đạo dạy tu tập Sơ thiền đều nói ly dục ly ác pháp nhưng kỳ thực là không có pháp ly dục ly ác pháp mà chỉ có pháp ức chế ý thức khiến cho ý thức không còn niệm khởi. Vì thế, tâm tham, sân, si, mạn, nghi không bao giờ ly và diệt nó được.
Nói LY DỤC LY ÁC PHÁP mà không có pháp tu tập thì biết ly dục ly ác pháp như thế nào? Một câu hỏi mà ngoại đạo không thể trả lời, mà có chỉ ú, ớ và bảo rằng: “Thầy Tổ xưa nay đều dạy sao thì tu tập vậy”. Như Thầy Tổ dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”, “Biết vọng liền buông”, “Biết vọng không theo”, “Tham thoại đầu”, “Tham công án”, “Niệm Phật nhất tâm”, “Sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh” v.v... Ðó là những phương pháp xưa nay do Thầy Tổ từng dạy các đệ tử tu tập như vậy là ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp như vậy làm sao ly dục ly ác pháp được. Cho nên kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Tông dạy không bao giờ tu tập chứng đạo làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Khi quý vị nghiên cứu kỹ lại thì giáo pháp của Phật dạy ly dục ly ác pháp có pháp môn tu tập hẳn hoi. GIỚI, ÐỊNH, TUỆ là phương hướng xác định đường lối tu tập theo Phật giáo từ thấp đến cao.
Nếu ai chưa tu GIỚI mà tu ÐỊNH là tu sai pháp của Phật.
Nếu ai chưa nhập được ÐỊNH mà bảo mình có trí TUỆ là người này lừa đảo người khác.
Căn cứ vào GIỚI, ÐỊNH, TUỆ mà chúng ta biết được người tu đúng hay tu sai pháp Phật; biết được người tu theo pháp Phật hay tu theo pháp ngoại đạo. Ðó là chúng ta chỉ căn cứ vào GIỚI, ÐỊNH, TUỆ mà còn biết sai đúng như vậy huống là chúng ta căn cứ vào BÁT CHÁNH ÐẠO thì pháp môn ngoại đạo không thể lừa phật tử được.
Do vậy, kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Tông không còn dối trá lừa người khác được. Kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Tông rất khôn ngoan muốn biến kinh sách của mình thành những lời Phật thuyết nên chúng dựng lên bộ sử 33 vị Tổ Sư Ấn Ðộ và Trung Hoa.
Vào đầu kinh sách Ðại Thừa cuốn nào cũng có câu này giới thiệu: “NHƯ THỊ NGÃ VĂN NHẤT THỜI PHẬT TẠI XÁ VỆ QUỐC KỲ THỌ CẤP CÔ ÐỘC VIÊN DỮ KỲ ÐÀ...”. Ðọc câu này ít ai để ý nên cứ lầm tưởng kinh sách này do Phật thuyết. Cho nên từ xưa đến nay còn biết bao nhiêu người học tu theo các tổ Trung Quốc mà cứ ngỡ mình tu theo Phật. Thật là tội nghiệp!
May sao trước giờ thị tịch đức Phật di chúc: “CÁC THẦY TỲ KHEO! SAU KHI TA TỊCH HÃY LẤY GIỚI LUẬT CỦA TA LÀM THẦY, ÐỪNG LẤY AI LÀM THẦY”. May mắn thay cho đời sau nhờ có lời dạy này của đức Phật như vậy mà quý phật tử không bị lầm mưu kế gian xảo của Ðại Thừa và Thiền Tông Trung Quốc.