3.- TÂM NIỆM PHẬT
TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA
(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette)
GIỚI HÀNH TỨ BẤT HOẠI TỊNH
3.- TÂM NIỆM PHẬT
Bây giờ chúng ta tiếp tục Tâm Niệm Phật.
1- Tâm Phật không có ưa muốn, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không ưa muốn đối với các pháp thế gian. Đối với các pháp thế gian thì đức Phật đã xả bỏ hết, không còn để pháp nào trong tâm cho nên Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp con xinh mà ra đi tìm đường giải thoát. Ngài không còn ham muốn gì cả hết, chỉ mong tìm sự giải thoát sanh lão bịnh tử.
Tâm ta niệm Phật thì ta cũng phải như Phật vậy, không có ham muốn gì hết, bỏ xuống hết giống như Phật. Mà muốn giống được như Phật vậy thì ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như cái lí mà tác ý "Các pháp thế gian là vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn nó mà phải từ bỏ, xa lánh nó, ta dừng sự tham muốn nó, đừng bén mãn đến các pháp thế gian". Chúng ta dùng câu pháp hướng như vậy.
2- Tâm Phật không tham đắm một vật gì ở trong thế gian. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tham đắm một vật gì ở trong thế gian. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm như cái lí mà tác ý "Các pháp thế gian có sự cám dỗ và sự lôi cuốn, ta không nên tham đắm vì tham đắm là khổ và nguy hiểm cho mình, là tai họa. Ta hãy từ khước, từ bỏ và xa lánh nó."
3- Tâm Phật không sân, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không sân hận đối với một ai. Ta nên trạch pháp câu này để thường nhắc nhở tâm ta như cái lí giải thoát mà tác ý ra "Sân hận là pháp khổ đau, làm cho mình khổ mà còn khiến cho người khác khổ. Ta hãy vất bỏ, không được sân hận dù với bất cứ một ai". Quý thầy phải nhớ lúc nào mình cũng như cái lí này tác ý ra để nhắc nhở tâm của mình không còn sân hận vì sân hận là một pháp rất là ác, nó làm cho mình khổ và người khổ. Người mà lấy tâm niệm Phật thì không để cho tâm mình sân hận.
- "Sân hận là một pháp rất ác, phải dứt bỏ ngay, không được lưu lại ở trong tâm ta một phút giây nào". Muốn được như vậy thì thường ngày lúc nào rảnh rang ta cũng phải như cái lí giải thoát mà tác ý, vạch mặt nó là một cái pháp rất ác chúng ta cố gắng để xa lìa nó.
4- Tâm Phật thì không nghi ngờ, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nghi ngờ ai cả vì nghi ngờ là một tánh xấu ác làm cho tâm ta bất an, làm cho ta nghi kỵ đối với người khác, không có thân tình với người khác, làm cho người khác cũng đau khổ. Muốn được vậy, ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng hăng ngày như cái lí mà tác ý ra để dứt bỏ tâm nghi "Nghi là một ác pháp làm khổ mình khổ người. Từ nay ta phải dứt bỏ, ta phải từ giả, lìa xa tất cả những gì nghi ngờ người khác. Cái lòng nghi hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa". Khi ta trạch pháp câu này rồi thì ta cứ nhớ nhắc vì tâm nghi ngờ thấy người nào hơi có cái vẻ sanh nghi thì làm chúng ta hết sức bận tâm là phải nhìn ngó họ, xem xét họ, theo dõi họ bằng cách này cách kia, vì vậy nó làm cho tâm ta rất khổ. Rồi người khác nhận ra được mình theo dõi họ như vậy thì họ sanh ra ghét và không ưa mình. Cho nên đối với ta phải hiểu rõ tâm nghi đã làm cho mình rất khổ là cứ phải theo dõi người khác, phải để ý người khác, rồi người khác hiểu được mình theo dõi họ như vậy họ sanh ra ghét, họ sanh ra thù hận, họ đâm ra tìm cách nói xấu mình, hoặc là họ tìm cách này cách khác để hại mình.
Vì thế, chúng ta muốn cho tâm nghi này không ở trong mình nữa thì hằng ngày chúng ta đặt những câu mà hồi nãy Thầy đã dạy ở trên, thường nhắc nó cho nên ai làm gì thì chúng ta chẳng để ý, chẳng nghi ngờ, ai làm ác thì họ chịu lấy quả ác, ai lầm thiện thì hưởng quả thiện, chứ chúng ta chẳng nghi họ là trộm cắp, hay nghi họ nói xấu mình, hay nghi họ thế này thế kia. Cái nghi làm chúng ta rất khổ tâm do phải để ý người khác làm ta rất mệt, cho nên chúng ta biết nó tạo cho chúng ta khổ thì chúng ta phải lấy tâm niệm Phật để diệt trừ tâm nghi. Tâm Phật không bao giờ nghi ngờ ai hết, mình lấy tâm mình niệm Phật thì cũng xả bỏ, diệt trừ, dứt đoạn tâm nghi đừng có để ở trong lòng của mình. Có được như vậy thì chúng ta mới có được an vui, mới có được hạnh phúc.
5- Tâm Phật không tị hiềm, tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tị hiềm ai hết. "Tị hiềm là một tánh xấu ác làm khổ mình khổ người, ta hãy dứt bỏ, xa lánh, từ khước, viễn li, đừng để nó bén mãn ở trong tâm ta". Chúng ta cũng phải hiểu cái tâm tị hiềm: tị là ganh tị, hiềm là hiềm hận. Ganh tị là thấy người ta hơn mình thì sanh lòng ganh tị, không muốn họ hơn mình, thấy họ giàu hơn mình thì sanh lòng ganh tị, không muốn họ hơn mình, thấy họ tài giỏi hơn mình, thì mình cũng sanh lòng ganh tị, không muốn ai tài giỏi hơn mình, thấy họ tu giỏi hơn mình, thì mình cũng đâm ra ghét họ, rồi tìm cách nói xấu họ, không để cho họ tu hành. Chúng ta thấy lòng tị hiềm tạo nhiều tánh xấu, tánh ác ở trong lòng, nó làm cho mình bất an mà người khác cũng không an. Do tánh tị hiềm như vậy làm cho mình ngày càng lui chứkhông tiến trên con đường tu tập.
Do thấy được lòng tị hiềm là lòng quá xấu như vậy thì chúng ta cố gắng lấy cái tâm của mình mà niệm Phật, tâm của mình cũng giống như Phật, không tị hiềm ai hết. Ai hơn thì mình mừng, ai tu tốt thì mình mừng, ai làm giàu thì mình mừng, mình vui theo, mình hoan hỉ với họ chớ mình không có ganh ghét họ, mình không có nói xấu họ bằng cách này bằng cách khác. Lòng tị hiềm là lòng rất tệ bạc, do vậy mà chúng ta phải cố gắng xa lánh nó, từ giả nó, từ khước nó. Muốn được vậy, ta hãy trạch pháp câu trên, dùng pháp hướng chặt đứt lòng tị hiềm. Thường ngày chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già, đặt niệm tị hiềm trước mặt, rồi chúng ta dùng pháp quán suy tư lòng tị hiềm của mình đưa đến những nổi khổ nào, mình thấy họ hơn mình rồi mình ganh ghét họ làm sao, rồi nó làm cho mình khổ đau như thế nào. Mình quán xét cho thấu suốt được lòng tị hiềm của mình. Do lòng ganh tị đó đem đến bao nhiêu sự khổ đau cho chính mình. Rồi từ sự hiểu biết như vậy, mình mới dùng pháp hướng là câu mình đặt ra để đuổi nó đi, đừng cho lòng ganh tị ở trong tâm của mình nữa, xem nó như một đồ bỏ.
Ngày xưa, khi Đề-bà-đạt-đa thấy đức Phật có một giáo đoàn được uy tín, các nhà vua đều rất kính nể đức Phật, thì Đề-bà-đạt-đa sanh ra tâm tị hiềm. Do đó ông tìm mọi cách chia rẻ giáo đoàn của Phật ra. Đề-bà-đạt-đa đặt ra những giới luật cho nó có vẻ sống khổ hạnh hơn giới luật của Phật, để làm cho giáo đoàn của ông hơn giáo đoàn của Phật, và đồng thời ông quyến dụ được nhà vua A-Xà-Thế. Nhờ vua A-xà-thế cúng dường hộ trợ ông. Ông lợi dụng lòng tin của nhà vua, tìm mọi cách để hại Phật. Ông lăn đá làm cho Phật phải chảy máu, ông dùng voi say để giết Phật, ông dùng mọi cách để hại Phật. Đó là lòng tị hiềm, lòng ganh ghét. Lòng tị hiềm của con người ghê gớm như vậy.
Một người tu theo đạo Phật biết rằng đức Phật ngày xưa không bao giờ có tị hiềm đối với lục sư ngoại đạo, dù người ta tu như thế nào thì đức Phật cũng không có chỉ trích lục sư ngoại đạo, tức là không có lòng tị hiềm với ai hết. Đôi khi đệ tử ngoại đạo đến hỏi Phật, như một vị tu khổ hạnh theo hạnh của con bò và một vị tu khổ hạnh theo hạnh con chó đến hỏi Phật, ba lần Phật đều bảo đừng hỏi Ta, vì Ta nói ra đúng với sự thật thì các ngươi sẽ khổ sở và có thể nghĩ rằng Ta tị hiềm các ngươi, hoặc là Ta nói xấu các ngươi, các ngươi nên hỏi ai khác chứ đừng hỏi Ta. Phật từ chối trả lời câu hỏi nhưng hai vị đó có ý muốn hỏi Phật họ tu những hạnh như vậy sau này họ sẽ tái sanh về đâu, sẽ được cái gì, cho nên đức Phật buộc lòng phải nói ra sự thật. Phật nói không phải do lòng tị hiềm muốn bài bác pháp của người tu, nói xấu pháp của người khác, nhưng vì thật sự pháp đó không đưa đến cái chỗ giải thoát.
Cũng như khi Thầy hiểu biết được các pháp hiện bây giờ người ta đang gọi là Phật pháp và người ta đangtu theo, người ta cứ ngở tưởng nó sẽ đưa họ đi đến giải thoát. Nhưng Thầy biết rằng nó sẽ chẳng bao giờ đưa đến giải thoát.
Ý muốn của Thầy là sẽ núp sau lưng Hòa Thượng Thanh Từ để giúp đở những người tu tu đúng theo đường lối của đạo Phật để họ đạt được cứu cánh giải thoát. Nhưng không có đủ nhân duyên để Thầy làm theo ý muốn của Thầy giúp người tu được giải thoát luân hồi. Do vậy Thầy phải nói thẳng ra cho họ biết những pháp họ đang tukhôngđi đến cứu cánh giải thoát, chỉ đưa họ đến chỗ sai lệch Phật pháp, chỉ làm cho họ phí cuộc đời tu hành. Họ đang sống trong dục lạc thế gian thì làm sao họ li được dục, li được ác pháp. Thầy nói ra không phải ganh tị với họ về danh lợi, mà nói ra để họ biết được cái đúng cái sai của đạo Phật, Thầy mong muốn giúp cho họ sáng suốt để nhận thấy được đường đi đúng để được giải thoát.
Ai tu cũng muốn được giải thoát, nhưng chỉ uổng phí một cuộc đời tu hành, đến khi bỏ thân này thì họ chịu đau khổ vô cùng vô tận. Nhìn sự đau khổ đó của họ, Thầy đâu nở tâm, mình là tu sĩ đã giải thoát, Thầy đâu nở nhìn họ như vậy. Cho nên Thầy nói ra không có nghĩa là tị hiềm với họ, ganh ghét với họ, hay bài bác họ, mà nói ra để biết đâu là pháp đúng của Phật, đâu là pháp không đúng của Phật, để giúp cho người tu hành.
Cũng như đức Phật nói ra cho hai vị khổ hạnh tu theo hạnh của con bò và hạnh của con chó hỏi đức Phật họ tu như vậy thú hướng sẽ được như thế nào, thì đức Phật nói bây giờ một người sống, ngủ, nằm, ăn giống như con chó thì sau khi chết đi,người đó sẽ sanh thành con chó, hay một người sống, ngủ, nằm, đi, ăn giống như con bò thì sau khi người đó chết đi sẽ sanh vào loài bò. Đó là việc dĩ nhiên. Người đó tưởng là tu những hạnh đó sau khi chết đi được sanh vào cõi trời, được sanh vào cõi sung sướng hơn, nhưng không ngờ nó lại đi vào trong một thú hướng quá đau khổ. Cho nên hai vị này nghe xong thì khóc lên.
Đức Phật nói do các ngươi hỏi nên Ta thấy như thế nào, hiểu như thế nào thì Ta nói như vậy cho các ngươi biết mà các ngươi sửa lại cho nó đúng, chứ Ta không bao giờ muốn nói điều này.
Như bây giờ mình làm một điều thiện thì thú hướng sẽ đi vào hướng thiện, mà làm điều ác thì thú hướng sẽ đi vào hướng ác, hướng khổ. Đó là cái hướng của mình đã làm. Như một cây nghiêng về hướng nào thì cái bóng của nó sẽ ngã về hướng ấy chứ làm sao ngã hướng khác được. Phật nói thú hướng đó ra thì không phải là lòng tị hiềm mà lòng tốt. Còn như Đề-bà-đạt-đa là do lòng tị hiềm tìm vì ông ta mọi cách hại Phật để mình đạt uy tín hơn Phật.
Còn Thầy muốn ẩn sau lưng của Hòa Thượng Trúc Lâm để giúp cho những người đang tu hành với Hòa Thượng làm chủ được sanh tử. Và đồng thời giúp cho Hòa Thượng chấn hưng lại Phật giáo, chấn hưng lại Thiền tông Việt Nam, để cho Phật giáo Việt Nam sáng sủa. Việc Phật giáo Việt Nam và Thiền tông Việt nam được chấn hưng là công của Hòa Thượng, chứ riêng Thầy, mọi người chỉbiết Thầy là đệ tử của Hòa Thượng, Thầy chẳng cần cho ai biết Thầy là người nào.
Nay thì Thầy buộc lòng phải nói ra giáo án này. Khi nói ra giáo án này, Thầy đâu có lòng tị hiềm với ai. Tị hiềm người ta để làm gì? Khi Thầy nói ra giáo án xong để người ta biết điều này đúng, điều kia sai thì Thầy đã từ giả danh và đã đi vào một nơi xa vắng yên tịnh ẩn bóng rồi. Đã ẩn bóng thì còn đâu danh, còn đâu lợi, còn đâu sự cung kính cúng dường nữa, có phải không?
Như vậy quý thầy biết rằng một người đã lấy tâm niệm Phật thì không còn cái tâm tị hiềm mà chỉ có tâm thương yêu, tâm muốn cho mọi người hiểu đúng Phật pháp, tu đúng theo Phật pháp để tìm sự làm chủ sanh già bệnh chết.
Bây giờ chúng ta trạch pháp thêm một câu pháp hướng nữa để nhắc nhở cho chúng ta biết lòng tị hiềm rất ác. Thí dụ tâm tị hiềm của Đề-bà-đạt-đa chúng ta đã thấy rất là ác, Đề-bà-đạt-đa đã tìm mọi cách để hại Phật. Chúng ta biết rằng cái tâm tị hiềm của mình, nếu có và nếu mình không có đủ sức yểm cái tâm tị hiềm đi, thì chắc chắn mình cũng tìm mọi cách hại người,hay tìm cách nói xấu người, hay ghét người.
Hầu hết mọi người phàm phu có lòng tị hiềm người khác thì tìm cách nói xấu người khác, làm những điều rất tệ ác. Cho nên ở đây chúng ta phải trạch pháp những câu pháp hướng để nhắc nhở tâm của mình phải xa lìa tâm tị hiềm. Chúng ta lấy tâm mình niệm Phật thì không bao giờ còn để tâm tị hiềm ở trong tâm ta nữa.
Muốn được vậy thì chúng ta phải trạch pháp câu: "Tị hiềm là một tâm rất ác, nó luôn luôn tìm cách hại người, tìm cách nói xấu người. Chính nó đã làm khổ cho ta và đưa ta vào những thú hướng đọa vào ác đạo, sanh làm ác thú hoặc là những kẻ hung dữ, không phải trong một kiếp này mà nhiều đời". Rõ biết như vậy, ta phải luôn luôn cảnh giác và từ giả, xa lìa, viễn li cái tâm tị hiềm, không để nó ở trong tâm ta nữa.
Khi đặt câu này rồi thì hằng đêm, hằng ngày ta phải nhắc, vì cái tâm tị hiềm rất độc, nó hại người, hại mình sanh vào trong cõi địa ngục, sanh làm những con vật ác độc. Vậy chúng ta phải cảnh giác và phải siêng năng tu tập để cho thấm nhuần cái lí của câu này, để tâm ta không bao giờ có tị hiềm, không bao giờ tranh hơn thua với ai hết, không bao giờ nghĩ làm khổ người khác. Do chỗ tu tập đó chúng ta mới được giải thoát.
Có thể tác ý "Mình là người tu, là đệ tử của Phật thì phải dứt bỏ tâm tị hiềm, phải coi tâm tị hiềm như chiếc giày rách, coi nó như đồ bỏ, không còn xài được nữa". Hằng ngày ta thường nhắc tâm của mình ném bỏ lòng tị hiềm như ném bỏ chiếc giày rách; rồi một ngày nào đó tri kiến giải thoát của chúng ta nương vào câu trạch pháp này mà phóng ra, giúp chúng ta thấu suốt được cái lí tị hiềm đưa đến cho mình khổ, người khác khổ như thế nào. Rồi tri kiến giải thoát sẽ quét sạch lậu hoặc trong tâm của chúng ta bằng định vô lậu.
Chúng ta đã lấy thân niệm Phật, thọ niệm Phật, rồi bây giờ chúng ta lấy tâm niệm Phật. Chúng ta tu tập bằng những pháp hướng. Sau đó chúng ta có những pháp quán do từ pháp hướng này mà nó sanh ra rất tuyệt vời. Nếu chuyên tâm tu hành các pháp hướng này thì trí tuệ chúng ta ngày càng thông minh, không phải nhai lại các tri kiến của người khác.
Chính nhờ sự tu hành những pháp hướng này mà tri kiến giải thoát của chúng ta phát triển ra. Tri kiến giải thoát sẽ có những cái mà người ta không ngờ được. Như các con thấy hôm nay Thầy nói ra những kinh nghiệm do bản thân của Thầy, do những trí tuệ tri kiến giải thoát của Thầy chứ không vay mượn trong kinh sách của người khác. Do mình được giải thoát như thế nào thì mình sẽ nói ra theo sự giải thoát của mình như vậy. Chỗ đó gọi là tri kiến giải thoát. Chỗ sai, chỗ đúng, chỗ tu được hay không tu được, Thầy nói ra qua kinh nghiệm của Thầy chứ không phải vay mượn của kẻ khác mà nói lại.
Sự hiểu biết hiện giờ của các con là sự hiểu biết của người khác chứ không phải là sự hiểu biết của riêng các con. Tại sao các con tu hành suốt trong thời gian 5, 10 năm nay mà không có kinh nghiệm nào của các con để nói ra, mà cứ nói kinh nghiệm của kẻ khác? Như vậy các con chẳng có gì cả, các con tu mà chẳng có thành quả gì hết. Đâu phải các con không tu, nhưng tu các con không phát triển được cái tri kiến giải thoát để nói pháp hành của các con ra, mà chỉ nói pháp hành của người khác thôi, riêng các con không có cái gì cả. Tức là các con không triển khai được cái trí tuệ cho nên không thấy pháp hành đúng để đưa các con đến giải thoát. Bây giờ các con cứ theo Thầy nói ra chứ các con không có cái gì mới của các con hết. Nếu các con biết khai triển tri kiến giải thoát bằng cách đặt các câu pháp hướng này, từ đó các con có trí tuệ vô sư. Tri kiến giải thoát có những cái thông hiểu riêng của nó, khi nói ra làm người ta thấy rõ cái đó là cái riêng biệt của mình, chứ không phải là của người khác đem ra nói lại.
Như vậy những câu pháp hướng có mục đích triển khai trí tuệ vô sư của các con, triển khai cái thông minh của các con, chứ không phải nhai lại bả mía của người khác.
6- Tâm Phật không ngã mạn, tâm ta niệm Phật cũng không bao giờ có ngã mạn, cống cao, kiêu căng, tự đắc vì cống cao, kiêu căng, tự đắc là phải trạch pháp câu này, dùng pháp hướng như lí tác ý để luôn nhắc nhở và diệt trừ tánh này "Ngã mạn, cống cao là một trong 5 pháp ác của ngũ triền cái, ta phải dứt bỏ tánh này".
Cuộc sống con người là do nhân quả hợp mà thành nên có người xấu kẻ tốt, người sang kẻ hèn chớ đâu phải ta hơn ai, ta bình đẳng như mọi người. Chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, mới cho mình hơn người, sự thật chẳng ai hơn ai. Nghĩa là chúng ta sống trong nhân quả, do nhân quả lành, nhân quả ác mà người ta có sự tốt xấu, có sự hơn kém nhau, có người thông minh, có người u tối.
Rồi cái người thông minh tự đắc tự cao, ngã mạn. Nhưng sự thật đó là cái vòng nhân quả. Bây giờ người này ngu nhưng kiếp sau người đó còn ngu không, còn mình kiếp này thông minh, làm ông tiến sĩ, bác học... mình thông minh, mình giỏi, đọc qua thì mình thuộc liền, nhưng kiếp sau mình còn được vậy không? Bây giờ thì mình cống cao ngã mạn, coi người ta không ra gì hết, nhưng không ngờ đó chỉ là nhân quả. Cũng như bây giờ mình có được nhan sắc đẹp đẻ rồi nhìn người mặt rổ, mũi tẹt, môi dày, miệng hô, mình chê họ, nói họ thế này thế khác, cho mình là ngon, là đẹp, là tốt, còn họ là xấu,... Mình đâu biết đó là nhân quả của người ta, người ta phải trả quả, còn mình được nhân quả nào đó mà hiện nay mình được tướng tốt.
Như vậy mình đâu hơn họ cái gì, có hơn họ cái gì đâu mà chỉ đó là nhân quả mà thôi, có gì đâu mà mình cống cao ngã mạn. Như bây giờ sao mình hay, mình đọc xong là mình thuộc liền, còn người đó sao đọc hoài không thuộc. Đó cũng là nhân quả. Người không hiểu biết nẽo đi của nhân quả nên ngã mạn cống cao, còn chúng ta hiểu biết nhân quả thì thấy mình bị chi phối trong nhân quả chứ mình chẳng hơn ai hết.
Như hiện giờ chúng ta là con người thấy con kiến nhỏ mọn đang bò trên nền nhà rồi thấy mình hơn con kiến thì đó là ngã mạn cống cao, mình đâu biết rằng đó là cái nhân quả, do mình được cái phước nào đó mà mình làm người, còn người ta bị cái nghiệp nào đó mà người ta làm thân con kiến, con trùn. Mình phải thấy nhân quả, do nhân quả xấu tốt mà xuất hiện làm thân này thân khác, thì ta đâu có nở coi thường một con kiến, giết nó mà không thương. Như vậy do hầu hết các con chưa thông suốt, chưa thấy rõ đường đi của nhân quả cho nên chưa có giải thoát được tâm mình.
Cũng như tại sao có người lại thương mình, lo lắng cho mình, họ hy sinh cả đời họ cho mình, nhưng cũng có người làm cho mình mãi mãi khổ đau, có người chửi mắng mình hay làm thế này thế khác. Thế mà mình không thấy nhân quả. Trước cái nhân quả đó mà sanh ra giận hờn buồn khổ, rồi tạo thêm những nhân quả mới làm cho đời mình càng lúc càng đi vào sự khổ đau.
Còn người thấy nhân quả, khi bị cái nghịch nhân quả, người ta thấy giải thoát mà thấy cái thuận nhân quả thì không thích thú; còn mình được cái thuận nhân quả thì mê man, thích thú lắm, mà bị cái nghịch của nhân quả thì khóc lóc sướt mướt, không có ai chịu nổi. Thầy thường dạy các con nhân quả mà các con không thấy cái nhân quả.
Muốn nói đến cái tâm không có ngã mạn tức là nói đến tâm bình đẳng, không thấy sự hơn thua người khác là không có ngã mạn. Ông Phật nói "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành", câu nói đó rất là bình đẳng. Người nào tu thì cũng sẽ làm Phật được hết, mà tất cả chúng sanh chứ không phải chỉ có loài người thôi. Trong luật nhân quả, kiếp này chúng ta mang thân người mà kiếp sau có thể mang thân kiến, hay ngược lại kiếp này mang thân chúng sanh kiếp sau có thể sẽ mang thân người, có sai khác nhau chỗ nào đâu.
Như mọi người ngồi trước mặt Thầy sau khi bỏ thân này rồi, các con có chắc chắn còn làm người được không hay ccó thể phải làm thân côn trùng. Bởi vậy Phật nói được thân người là khó. Nhưng các con cứ nghĩ mình mất thân này rồi mình cũng lại được thân người nữa. Bởi vậy các con có một chút gì hơn người thì sanh tâm ngã mạn cống cao, tu chỉ mới hơn người hơi hơi, chưa ra gì là đã có ngã mạn cống cao rồi. Nghe Thầy khen mình tu khá, rồi bổng dưng nghe Thầy khen người khác là ganh tị rồi, chịu không nổi rồi, muốn luôn luôn lúc nào chỉ có mình là hơn thôi, còn nếu ai được khen nữa là không chịu. Đó cũng là cái tâm ngã mạn cống cao chỉ muốn mình, tự mình mà thôi. Thí dụ như Thầy khen một người nào đó khéo tu, tu càng ngày càng tiến bộ, thì thấy người đó hiu hiu rồi, thì đó là ngã mạn. Còn nghe Thầy khen người khác tu hơn thì người đó thấy khó chịu trong người của mình, không ưa người mới được khen rồi, thấy người đó là không ưa, không chấp nhận; như vậy là người đó có tâm ngã mạn.
Tu từ hồi nào tới giờ, cái ngã mạn chưa xả cho nên phải dùng câu trạch pháp để nhắc đi nhắc lại phá cái tâm ngã mạn đó đi. Chúng ta là những con người từ nhân quả sanh ra, chết đi thì chúng ta cũng trở về nhân quả. Nếu chúng ta không thấy được đường đi của nhân quả mà cứ nuôi ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc nào cũng nuôi nó ở trong lòng. Xả ngã mạn, cống cao đi; bỏ ngã mạn, cống cao đi, đừng nuôi lớn nó nữa. Tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Người ta chửi mình, mắng mình là do nhân quả chứ không có gì hết. Chúng ta biết được nhân quả thì chúng ta chẳng có buồn khổ gì hết.
"Ngã mạn, cống cao là một trong 5 pháp ác của ngũ triền cái, ta phải dứt bỏ cái này vì cuộc sống con người do nhân quả mà thành nên có người xấu kẻ tốt, người sang kẻ hèn chứ đâu phải ta hơn ai, ta bình đẳng như mọi người, chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả nên cho mình hơn người. Sự thật chẳng ai hơn ai hết". Đó là câu trạch pháp nhắc cho chúng ta biết chúng ta đang sống trong nhân quả, đừng tự cao tự đại, kiêu căng ngã mạn gì hết.
7- Tâm Phật không khoe khoang, tâm ta niệm Phật cũng vậy, phải giống như Phật, không khoe khoang. Khoe khoang là bản chất của ngã mạn, kiêu căng. Có gì mà khoe khoang. Mọi pháp trên thế gian này đều do nhân quả chi phối, diễn biến, nên kẻ hơn người kém, kẻ hay người giỏi, không có ai hơn ai chi cả.
Muốn dứt bỏ tánh khoe khoang, ta trạch pháp câu này để hằng ngày như lí tác ý "Khoe khoang là tánh xấu ác làm cho người khác tủi thân, buồn khổ. Ta hãy dứt trừ, xa lìa, không bao giờ còn có tánh khoe khoang nữa”.
Thí dụ như được vật gì (quần áo) tốt đẹp thì mình đem khoe với người khác "Tôi được cái này”. Người khác cũng ham muốn như vậy mà không được, làm cho người ta buồn tủi phận mình nghèo làm sao có được vật này.
Thí dụ các con có được chiếc nhẫn hột xoàn, rồi đem khoe ba tôi mới cho tôi nè, hột xoàn rất là đẹp, thì người kia cũng muốn vật đó nhưng họ nghèo làm gì có được, cho nên họ tủi thân, họ khổ sở. Chúng ta đừng có khoe khoang vật gì tốt đẹp của chúng ta có. Khoe khoang như vậy rất tai hại.
Thầy nhớ trong bộ Tây Du Ký, Đường Tam Tạng được đức phật Quan Âm cho cái y có hào quang chiếu sáng.Khi thầy trò Tam Tạng ngủ nhờ tại ngôi chùa kia, Tôn Hành Giả thấy y của mấy ông thầy trong chùa xấu không bằng y của thầy mình, Tôn Hành Giả mới đem y của Tam Tạng ra khoe và chê bai y của các thầy trong chùa. Ông thầy trong chùa xin Tam Tạng đem y vào phòng xem cho thỏa thích không ngờ có con quỷ đi ngang thấy y đẹp, động lòng tham hóa gió hốt y của Tam Tạng đi, trong khi ông thầy chùa cũng dự tính đốt cháy cả ba thầy trò Tam Tạng đặng lấy y. Đêm đó ông thầy tưởng cái y còn trong phòng của mình nên cùng với đám đệ tử đốt chùa để giết chết thầy trò Tam Tạng. Tôn Hành Giả thấy mấy ông thầy chùa tham quá nên thổi gió thêm cho cháy chùa. Khi chùa cháy xong thì y của Tam Tạng đã bị quỷ lấy mất rồi. Cuối cùng thì chùa cháy tiêu mà y không có. Tìm lấy y lại rất vất vả cực khổ. Các con coi có đồ quý có nguy hiểm không, tại mình khoe nên chúng tính kế giết mình.
Chúng ta biết rằng khoe khoang không hay ho gì hết. Chúng ta phải biết rằng đây là nhân quả, có được cũng do nhân quả mà không có cũng do nhân quả.
Tâm chúng ta còn yếu lắm, có gì mừng vui là khoe, làm được cái gì hay cũng khoe ra, mình tu được giỏi chút cũng khoe. Thí dụ các con ngồi được 5, 7 tiếng đồng hồ cũng khoe cho người ta biết mình ngồi được 5, 7 tiếng, cho mình hay hơn họ chơi.
Chúng ta không nên khoe như vậy. Tất cả những cái tu tập được phải cẩn thận dè dặt. Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải trạch pháp nhắc đi nhắc lại câu pháp hướng "Khoe khoang là tánh xấu ác làm cho người khác tủi thân, buồn khổ, ta hãy dứt trừ, xa lìa, không bao giờ còn có tánh khoe khoang nữa”để chúng ta bỏ khoe đi, dẹp sạch khoe đi mới không còn khoe nữa.
8- Tâm Phật không phẩn nộ, tâm ta niệm Phật thì cũng giống như tâm Phật, phải không phẩn nộ. Phẩn nộ là một cơn giận dữ, có thể giết người mà chẳng hề sợ ai. Người đang phẩn nộ giống như một con thú dữ, một con thú ác. Thú hướng phẩn nộ sẽ sinh ra ác thú, ác cầm, những loài độc dữ. Người phẩn nộ không thể sanh cõi trời được, không thể sanh làm người được, chỉ có thể sanh làm ác thú hay vào địa ngục mà thôi. Nghĩa là người có tâm phẩn nộ thì thú hướng của họ không thể sanh vào cõi trời hay cõi người mà chỉ sanh làm ác thú hay cảnh dữ mà thôi. Hiện giờ họ là con người, mỗi lần sân hận dữ tợn thì phải biết thú hướng của họ chỉ sanh vào những loài vật hung dữ chứ không thể là loài hiền được. Do vậy chúng ta biết phẩn nộ rất là tệ ác, là cái hướng không tốt cho đời sống của chúng ta.
Muốn có tánh không phẩn nộ, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lí tác ý, để hằng ngày chúng ta tu tập cho cái tánh phẩn nộ không còn nữa, chúng ta mới có thú hướng khác tốt hơn, chứ không thì hành động phẩn nộ đó sẽ đưa chúng ta đi vào chỗ sanh ra loài thú dữ, hoặc là loài độc dữ, hoặc là ở cõi địa ngục khổ đau. Đây là câu pháp hướng: "Phẩn nộ là tánh hung ác, làm khổ mình khổ người, ta hãy dứt bỏ, tránh xa, từ khước. Từ nay về sau, ta không còn tánh phẩn nộ nữa". Mình hướng tâm nhắc như vậy để từ nay về sau giữ gìn tâm của mình không phẩn nộ nữa.
Không phẩn nộ nữa thì tâm ta niệm Phật mới giống như Phật được. Nếu còn phẩn nộ mà tâm ta niệm Phật thì chắc chắn không giống như Phật được. Cho nên muốn tâm niệm Phật giống Phật thì phải làm sao bỏ phẩn nộ, phải không phẩn nộ.
Muốn được vậy thì hằng ngày phải trau dồi, phải rèn luyện, phải tu tập tới lui bằng pháp hướng nhắc tâm mình bỏ phẩn nộ, bỏ những pháp ác đã chứasẳn trong tâm mình do nhân quả đã huân tập nhiều đời nhiều kiếp cho nên bây giờ phẩn nộ đã trở thành một tâm phẩn nộ rất dữ tợn.
Muốn bỏ tâm phẩn nộ không phải trong một ngày, một tháng mà hết, mà chúng ta phải siêng năng cần mẫn từ năm này đến năm khác, ngày nào cũng dùng pháp hướng đặt trước mặt rồi nhắc tâm mình tới lui để dứt bỏ tâm phẩn nộ, không để phẩn nộ mang trong tâm nữa. Làm như vậy thì một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn phẩn nộ nữa. Mà khi không còn phẩn nộ nữa thì chúng ta hướng về hướng thiện, hướng tốt. Tâm của mình không phẩn nộ nữa là tâm mình giống như tâm Phật rồi, mà giống như tâm Phật thì thú hướng đó mình sẽ thành Phật, mình sẽ như là ông Phật không khác nữa. Đó là cái hướng chúng ta tu tập tốt.
9.- Tâm Phật không hiềm hận, vậy tâm ta niệm Phật cũng giống như tâm Phật, không bao giờ hiềm hận (nghĩa là không bao giờ hận thù ai hết). Hiềm hận tức là hận thù và hiềm nghi là pháp ác làm cho khổ mình khổ người.
Muốn tâm niệm Phật không còn hiềm hận ai, ta phải trạch pháp một câu để dùng pháp hướng như lí tác ý: "Hiềm hận là hận thù, là nghi kỵ, là pháp ác làm đau khổ mình, đau khổ người. Ta hãy từ bỏ, đoạn dứt, không bao giờ có tâm hiềm hạn ai hết". Hằng ngày dùng câu này nhắc tâm mình đừng có hiềm hận.
Bây giờ mình đâu có hiềm hận ai, nhưng mình cần phải dùng câu pháp hướng tác ý nhắc tâm mình để cho nó không hiềm hận ai. Bởi khi nó đã mình hiềm hận rồi, thì nó đã làm chúng ta khổ rồi. Bây giờ tuy không có hiềm hận ai cho nên chúng ta nghĩ chúng ta không có tâm hiềm hận. Thật ra tâm mình còn phàm phu, mỗi mỗi cái đều có thể xẩy tới cho mình, cho nên tâm mình niệm Phật thì phải giống như tâm Phật. Muốn giống tâm Phật thì mình phải chuẩn bị trước, phải ngăn ngừa trước để cho tâm chúng ta đủ lực, đến khi gặp đối tượng làm cho chúng ta hiềm hận thì chúng ta không hiềm hận. Chứ không khéo chúng ta nói chưa có đối tượng hiềm hận nên nói tôi đâu có hiềm hận ai đâu. Chúng ta cho là chúng ta không có tâm hiềm hận mà không tác ý câu pháp hướng trên.
10.- Tâm Phật không giả dối, tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như tâm Phật, không giả dối, không lường gạt, không bịp bợm ai, luôn luôn thành thật, biết sao nói vậy, biết sao làm vậy.
Muốn cho tâm ta niệm Phật không giả dối, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lí tác ý "Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác làm khổ mình vì trạo hối (nghĩa là mình lường gạt người ta rồi thì lương tâm mình cắn rức, do đó mình cứ hối hận) và làm khổ người (vì lường gạt người). Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ giả dối, luôn luôn ngay thẳng, chơn thật". Cứ nhắc tâm mình như vậy để đến khi gặp đối tượng thì chúng ta kịp thời đối phó, kịp thời tâm chúng ta không còn giả dối nữa. Thầy nhắc lại câu tác ý: "Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác làm khổ mình vì trạo hối và làm khổ người. Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ giả dối, luôn luôn ngay thẳng, chơn thật".
11.- Tâm Phật không tật đố, tâm ta niệm Phật cũng vậy, giống như tâm Phật, không tật đố ai hết. Tật đố là lòng ganh tị, nhỏ nhen, ích kỷ thường hay làm khổ mình. Nghĩa là cái tâm tật đố đem lại khổ mình, tự làm khổ mình, hết sức tàn nhẫn đối với mình. Trong tâm tật đố mình cứ ganh ghét người ta thế này thế khác, tức là đem lại sự tàn nhẫn đối với mình. Ngầm ngầm ganh tị với người là tự làm khổ mình cho nên tâm Phật không bao giờ tật đố.
Đối với Đề-bà-đạt-đa thì Ngài nói như vậy thôi chứ không ghét, nhưng Đề-bà-đạt-đa luôn luôn tật đố với đức Phật, như lợi dụng nhà vua tin yêu mình để hại Phật bằng cách này cách khác. Đó là tâm tật đố. Đức Phật tự tại trả nghiệp tật đố đó mà thôi.
Muốn cho tâm ta niệm Phật giống như tâm Phật, không có tật đố, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng để nhắc nhở tâm mình và hằng ngày như lí tác ý "Tật đố là lòng ganh tị nhỏ mọn làm tâm ta đau khổ. Ta phải dứt trừ, từ bỏ không tật đố đối với bất cứ một ai để cứu mình ra khỏi biển khổ của tâm tật đố xấu xa, đê tiện hèn hạ. Từ đây ta phải dứt bỏ đi".
Chúng ta nhấn rất mạnh điều này chứ không thì thấy người ta hơn mình một chút là cũng tật đố với người ta rồi, đó là cái xấu. Vì vậy chúng ta hãy cố gắng tu tập cái này để sau này có ai tu tốt hơn mình thì mình mừng, mình hoan hỉ cho người chứ mình không có tật đố.
12- Tâm Phật không xan lẫn, tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như tâm Phật. Xan lẫn là tham lam, gian xảo cực ác, gạt biết bao nhiêu người, làm khổ biết bao nhiêu người.
Muốn cho tâm ta không xan lẫn thì ta phải trạch pháp câu này dùng pháp hướng như lí tác ý để đoạn dứt tâm xan lẫn xấu xa tệ hại đó "Xan lẫn là đê tiện hèn hạ, lầm khổ người tàn nhẫn nhức. Là đệ tử của Phật, ta phải nỗ lực dứt bỏ, từ khước, xa lìa, ném bỏ tâm xan lẫn như chiếc giày rách". Chúng ta cứ nhắc nhở hằng ngày để tâm ta không xan lẫn.
13- Tâm Phật không phản bội, tâm ta niệm Phật cũng không phản bội. Phản bội là một pháp môn rất ác, phản bội làm hại biết bao nhiêu người đau khổ, phản bội là tánh hèn nhát, ích kỷ nhỏ mọn chỉ nghĩ đến cá nhân mình, phản bội để mưu cầu sự sống cá nhân, phản bội để mưu cầu lợi danh của mình. Phản bội dân tộc là kẻ bán dân bán nước. Những kẻ phản bội tôn giáo là người lợi dụng tôn giáo làm cuộc sống của mình. Phản bội Phật giáo biến Phật giáo thành thần giáo, làm mọi người mê tín lạc hậu.
Những kẻ phản bội Phật giáo là kẻ phá giới luật của đạo Phật, ngang nhiên giữa ban ngày họ ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, sống theo dục lạc thường tình của thế gian. Đó là những kẻ phản bội Phật giáo. Phật giáo chỉ sống 3 y 1 bát đi ăn xin, còn những kẻ phè phởn trên nhung lụa, hưởng dục lạc thế gian là những kẻ phản bội lại Phật giáo, bán đứng Phật giáo cho ma vương. Họ lường gạt phật tử bằng mọi hình thức để móc tiền phật tử, lợi dưỡng cá nhân mình. Họ lợi dụng danh từ từ thiện. Họ giống như những người xem rẻ mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo. Họ ăn trên ngồi trước, sống trên danh và lợi của mọi người mà pháp luật không bắt tội họ được. Họ là kẻ phản bội lại Phật giáo, làm ngược lại đời sống của đức Phật, làm ngược lại đạo giải thoát của đức Phật. Họ phản bội lại giáo lí của đạo Phật, làm giáo lí của đạo Phật đảo lộn khiến cho mọi người mờ mịt, mê man, không biết đâu là chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo.
Phật giáo ngày nay ra nông nổi này là do một số đệ tử Phật đã phản bội lại Phật giáo. Nhưng chúng ta không thể kết án họ vì họ là những người u mê, chỉ đi theo gót của người xưa, lời giảng hay việc làm của họ chỉ nhai lại bọt giải của người xưa. Họ chỉ nghĩ rằng xưa bày thì nay làm hoặc là tổ tổ truyền nhau. Họ chỉ lấy những lời như vậy để làm theo những cái phản lại Phật giáo. Họ cho xưa bày nay làm, các tổ dạy sao thì nay họ làm vậy, họ không làm gì khác các thầy các tổ. Nhưng chúng ta nhìn gương hạnh của đức Phật và các đệ tử của Phật ngày xưa, so sánh với các tổ, chúng ta thấy các tổ sai quá xa các vị đó. Do đó chúng ta không nên trách những người hiện nay. Họ đang cố chấp cái kiến chấp sai lạc của các tổ của họ mà không chịu buông ra. Họ sống mãi trong cái sai lạc đó, nên gọi họ phản bội lại Phật giáo. Không phải họ là những người không hiểu Phật pháp, đức Phật đã để lại giáo pháp rõ ràng nhưng vì ngũ dục lạc thế gian làm mờ mắt họ.
Họ biết rõ giới luật của Phật không ăn uống phi thời, không cất giữ tiền bạc, không xây chùa to tháp lớn, mà họ vẫn cứ làm thì không phải là họ không biết giáo lí phật pháp và giới luật của Phật. Họ biết rất rõ ràng và cụ thể giáo pháp và giới luật của Phật. Những tạng kinh A hàm và Nikaya đã in ra thì ai cũng thấy rất rõ giáo lí và giới luật của Phật rồi, thế mà họ vẫn sống ngang nhiên trong dục lạc. Họ nói tổ tổ truyền nhau xưa bày nay làm, họ chẳng công nhận kinh điển nào cả, họ sống phè phởn trong dục lạc. Nghĩa là họ hiểu giới luật mà họ cố phạm, họ hiểu giáo lí Phật mà họ cố phản lại Phật giáo vì dục lạc thế gian làm mờ mắt họ, làm tối đầu óc của họ. Họ chỉ mượn hình thức tu để sống trong lợi dưỡng, trong danh lợi thế gian, mà còn được mọi người kính trọng lạy lễ chẳng khác nào vua chúa. Họ làm như những đại vương, tiểu vương. Đâu đâu cũng thấy các ông thầy sống ở trong cung vàng điện ngọc, tức chùa to tháp lớn. Họ tu hành chẳng ra gì, giới luật chẳng nghiêm túc mà chùa cất lên thật là vĩ đại và khi họ chết thì xây tháp vĩ đại như lăng của vua chúa.
Các kỳ quan tôn giáo ngày nay là kết quả sự khổ đau của nhân dân trong thời vua chúa độc tài ngày xưa đó. Nhân dân nước đó đã đem công sức và xương màu mình xây dựng nên kỳ quan vĩ đại của tôn giáo. Bây giờ có những ngôi chùa thờ Phật đồ sộ, cất tốn kém hằng tỷ bạc, thì đó là gom góp biết bao mồ hôi nước mắt của hàng phật tử. Một người tu chơn chánh không thể nào làm như vậy được. Vậy mà có người nói ông thầy này có uy tín mới cất được ngôi chùa to lớn như vậy. Chúng ta nhìn thấy cái đồ sộ vĩ đại đó là cái đau khổ của người đương thời, nó không thể hiện được cái gì.
Phật giáo mà có những ngôi chùa nguy nga thì biết rằng Phật pháp sắp hay đang suy đồi, không người tu chứng, không có những bực chơn tu, không có những người giới hạnh nghiêm túc. Nhìn vật chất xây dựng phản ảnh được sự tu hành rất rõ ràng.
Các ông tôn giáo gạt người cúng dường, xây chùa tháp, tô đắp tượng vàng được phước báu vô lượng. Lời nói này đã lường gạt biết bao nhiêu người, vì tâm tham lam ham muốn được nhiều phước báu nên họ đâu tiếc của cúng dường.
Chúng ta nghe câu chuyện của vị tỳ kheo tự bỏ công xây cất am thất bằng đất nung như gạch thì bị đức Phật sai các tỳ kheo khác đập bỏ. Như vậy đức Phật đâu chấp nhận cho tỳ kheo có am thất kiên cố đẹp sang. Đức Phật chỉ cho các tỳ kheo sống tạm bợ trong am thất đơn sơ. Cho nên ngày nay chúng ta trở lại đất Phật chỉ thấy rừng cây hoang vu, không còn gì hết.
Ở đây chúng ta muốn nói tâm phản bội là cái tâm rất xấu ác, nhất là những người tu theo đạo Phật mà phản bội lại Phật giáo, phá kinh sách Phật, thêm thắt đủ điều, viết bậy bạ không đúng giáo pháp của Phật. Như quý thầy thấy họ viết giới bổn, họ thêm cái này thêm cái kia, như vậy làm sao mà đúng được giới bổn. Họ sống phá giới luật nên viết dịch sai lệch hoặc thêm, hoặc bớt không đúng giới luật của Phật để lại cho đời sau. Đời sau không biết đâu là chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo, làm cho đời sau bỏ đời tu hành mà tu không tới đâu được.
Khi mới vào tu ai cũng quyết đi tìm con đường giải thoát, nhưng lâu ngày dài tháng biến họ tuy có hình thức của đạo mà đời sống là đời sống thế gian. Người biết suy ngẩm thì đau khổ lắm, không thể sống trong lối sống hèn hạ của thế gian, khi mình đã đi tu rồi thì không thể nào ăn bòn ăn rút của người phật tử để sống đời chẳng ra đời mà đạo chẳng ra đạo. Những tu sĩ hiện tại trên thế gian này chẳng biết đường nào tu để giải thoát, rất uổng phí cho đời tu hành. Lối sống của tu sĩ ngày nay là phản lại giáo lí của đạo Phật, phản lại giới luật của đức Phật, cho nên họ sống trái ngược với người tu sĩ Phật giáo ngày xưa. Nghĩa là những thánh tăng ngày xưa thì gương hạnh của các ngài trái ngược với gương hạnh của tu sĩ ngày nay.
Nếu bây giờ chúng ta tìm lại cái đúng của Phật giáo thì phải mạnh dạn và thẳng tay chỉ thẳng mặt cái sai, không nễ nang, vị tình ai hết. Đạo Phật mà không phải là đạo Phật thì đừng mạo danh là đạo Phật. Người nào phạm giới, phá giới, đời sống không đúng phạm hạnh tu sĩ của đạo Phật thì chúng ta chỉ thẳng để họ sửa sai, để họ sống không làm tội ác nữa, để giúp họ thoát ra khỏi những điều họ đã mê mờ, đã lầm lạc. Mặc dù họ có tìm mọi cách giết chúng ta, chúng ta vẫn thẳng thắn nói. Ngày xưa ông Galilê không chịu nói trái đất vuông để khỏi bị giết, thì ngày nay chúng ta không nói người tu sĩ đạo Phật có phạm hạnh sai với giới luật mà nói là phạm hạnh của Phật giáo. Thà chúng ta chết chứ không bao giờ phản bội lại Phật giáo. Nếu chúng ta bào chửa cho người phạm giới là chúng ta đã phản bội lại Phật giáo.
Chúng ta là tu sĩ đạo Phật, không phản lại sự thật mà phải nói đúng sự thật. Phản bội là phản bội với Phật giáo, phản bội với giáo lí của nhà Phật. Chúng ta không phản bội lại Phật giáo tức là chúng ta không phản bội với người nào hết. Không để họ làm điều tội ác, không để họ gạt người bán Phật, bán pháp, không để họ chạy theo lối sống của vua chúa bằng chùa tháp to lớn. Đó là chúng ta dựng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo thì mới mong có những bậc chơn tu của Phật giáo xuất hiện.
Hiện giờ người tu sĩ Phật giáo mất phạm hạnh như thế này thì các bậc chơn tu thiền đức của Phật giáo làm sao có thể sống chung với họ được, cho nên họ phải ẩn bóng mãi mãi. Thí dụ Thầy là một người tu hành mà có những kinh nghiệm có thể giúp hướng dẫn người khác, nhưng bây giờ Phật giáo như thế này thì làm sao Thầy không ẩn bóng, đâu còn độ ai được nữa, nói ra có ai nghe đâu. Hiện giờ trong số quý thầy đang nghe Thầy, chắc gì toàn bộ quý thầy tin lời Thầy. Dục lạc cám dỗ ghê gớm, chắc gì quý thầy sống nổi theo lời Thầy. Quý thầy cũng có những kiến chấp và lí luận để bào chửa những lợi dưỡng của quý thầy nên sống theo giới luật Phật không được. Sống theo giới luật không được thì Phật giáo làm gì có người tu hành giải thoát được.
Hai câu tác ý sau để tránh phản bội lại Phật giáo:
Câu 1.- Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lí tác ý "Phản bội là một pháp cực ác. Là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lí của Phật thì còn tệ hại hơn là súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng kiếp. Ta phải dứt trừ, phải xa lìa tâm phản bội, hành động phản bội, cuộc sống phản bội". Nghĩa là khi nhìn thấy được sự phản bội Phật giáo của các tu sĩ hiện giờ thì mình dùng câu pháp hướng này để lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống phản bội ấy. Như hằng ngày, tu sĩ ăn uống phi thời đó là cuộc sống phản bội Phật giáo, như tu sĩ kêu gọi phật tử đóng góp này kia để họ sống trong nhung lụa, sống trong đầy đủ, thì đó là phản bội lại Phật giáo. Tâm ham muốn, tâm không li các ác pháp thì đó là phản lại Phật giáo.
Câu 2.- "Một tu sĩ Phật giáo mà sống phá giới luật, sống không đúng phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo là phản bội lại Phật giáo. Vậy chúng ta là tu sĩ Phật giáo phải sống đúng giới hạnh, không phản bội lại Phật giáo, luôn luôn phải xa lìa tâm phản bội ấy".
14- Tâm Phật không ngoan cố, chúng ta lấy tâm niệm Phật thì tâm ta cũng không được ngoan cố. Ngoan cố là một tánh cố chấp, biết sai mà không chịu sửa, biết tội mà không chịu chừa, khăng khăng giữ đến cùng, không chịu từ bỏ kiến chấp sai lệch giới hạnh, sống phi phạm hạnh của mình. Khi người khác nhắc nhở, còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác, nghĩa là hỏi ngược lại người nhắc nhở đó có phải là Phật không, có phải là bồ tát, có phải là Alahán không mà dám chỉ vạch lỗi của tu sĩ hiện giờ như vậy.
Khi nghe lời dạy của Thầy trong băng Phật Ngôn Bảo Huấn, Thầy chỉ cho những tu sĩ hiện giờ sống như vậy không đúng phạm hạnh, sống chạy theo dục lạc, thì có vài thầy đặt câu hỏi như vậy. "Ông ta có phải là Phật không, có phải là bồ tát, có phải là Alahán không mà dám chỉ vạch lỗi của tu sĩ hiện giờ như vậy". Quý thầy thấy rằng ngày xưa có một vị tỳ kheo phạm lỗi, vị đó bị cư sĩ chỉ trích phê bình thì vị cư sĩ đó đâu cần phải là Phật. Còn bây giờ các thầy nhan nhãng sai mà nói các thầy đó sai thì các thầy đó hỏi người chỉ trích có phải là Phật không mà nói như vậy. Có nghĩa chỉ có ông Phật nói thì họ mới nghe thôi còn ai khác nói thì họ không nghe. Quý thầy thấy luận điệu của họ như vậy rất ngoan cố, họ không thấy lỗi của mình phạm giới, phi phạm hạnh như vậy. Người ta nói mình không sửa thì mình làm thinh đi, trái lại còn ngoan cố bào chửa cho mình, còn nói ông ta có phải là Phật không, có phải là bồ tát không, có phải là Alahán không mà dám nói như vậy. Lời họ nói như vậy thì quý thầy nghĩ như thế nào? Họ rất là ngoan cố, đã phạm giới không sửa mà còn hỏi người chỉ cái sai của họ người đó có phải là Phật, Bồ tát, Alahán không mà dám nói như vậy. Nếu người chỉ lỗi là Phật, Bồ tát, Alahán thì các thầy đó có được gặp họ chăng.
Bởi vậy ngoan cố là một pháp rất cực ác khiến cho người ta cố chấp, không chịu buông xả để đời đời kiếp kiếp đọa ở địa ngục, nợ nần của đàn na thí chủ biết bao giờ trả cho hết. Quý thầy có thấy chăng những vị tu sĩ ngoan cố không chịu sửa sai, sống không đúng phạm hạnh đến giờ lâm chung để lại một thảm trạng đau lòng cho những người đệ tử cũng như những người tu sĩ sau này. Đó là sự cảnh cáo cho những người tu sĩ sống phạm giới, phá giới, phi phạm hạnh.
Những người tu sĩ ngoan cố, chính mắt họ đã trông thấy những thảm trạng của thầy tổ họ, thế mà họ chẳng chịu sửa đổi, họ chẳng bao giờ để ý thầy tổ mình đã để lại gương xấu nên mắc phải thảm trạng này.
Ta đã thông hiểu được Phật pháp, được gần gủi các bậc giới đức đầy phạm hạnh, thì hãy noi gương theo họ, xả tâm ngoan cố, chấp hành giới luật, sống đúng đời sống phạm hạnh là ta đã thắp sáng lại ngọn đèn Phật pháp, làm sống lại Phật pháp.
Chùa to tháp lớn, chúng ta dẹp qua một bên để thực hiện đời sống trắng bạch như vỏ ốc, giải thoát hoàn toàn những sợi dây ràng buộc thương ghét và đoạn dứt những dục lạc thế gian để thanh thản tiến bước đến mục tiêu giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta để chùa to tháp lớn cho người đi tham quan, đừng thèm ở trong đó nữa, cất chòi tranh vách lá ở trong khu rừng, sống li dục li ác pháp, thực hiện định vô lậu, thực hiện 4 thiền để làm chủ sống chết.
Đó là những điều hiện giờ Thầy thành thật khuyên quý thầy đừng kêu gọi phật tử đóng góp để xây dựng chùa to Phật lớn. Chùa đã xây quá nhiều, tiền bạc đổ vào đó quá nhiều rồi, mồ hôi nước mắt của phật tử đã đổ vào đó quá nhiều rồi, thì quý thầy không nên giữ gìn nó nữa, hãy bỏ nó xuống để quý thầy tìm lấy sự giải thoát cho mình. Nên trạch pháp câu này để thường nhắc tâm ta hướng đến như lí tác ý vì Ngoan cố là một pháp cực ác khiến cho ta khó buông xả, khiến cho ta sống phá giới, sống phi phạm hạnh, sống theo dục lạc thế gian mà không chịu buông bỏ. Ta phải đoạn dứt, phải từ bỏ ngoan cố. "Ngoan cố hãy đi đi, không được ở đây, không được bén mãn đến ta nữa. Hãy đi đi để cho ta sống đúng đời sống phạm hạnh không phạm giới, sống li dục li ác pháp".
Đó là chúng ta ra lệnh đuổi tâm ngoan cố. Tâm ngoan cố dính hoài trong tâm chúng ta, không chịu buông ra. Thí dụ như mình muốn gì đó mà không thỏa mản được thì phải dùng pháp hướng này tu tập đuổi tâm ngoan cố đi, chứ không khéo khi không thỏa mản được thì làm cho tâm khổ đau vì nó. Do đó phải dùng pháp hướng này đuổi tâm ngoan cố đi vì chúng ta biết tâm ngoan cố là pháp ác làm cho tâm chúng ta không được vui vẻ, làm cho tâm chúng ta khổ sở, cho nên chúng ta phải xả tâm ngoan cố đi, quét sạch nó đi, để chúng ta đi vào con đường giải thoát. Chúng ta phải nỗ lực từng mỗi cái mà Thầy sẽ dạy cho quý thầy sau này. Chúng ta lấy tâm niệm Phật, chúng ta phải biết từng phần này để thực hiện trong pháp hướng cho sự tu tập của chúng ta.
15- Tâm Phật không nông nổi. Tâm ta niệm Phật cũng phải như vậy, phải không nông nổi. Nông nổi là nông cạn, hời hợt, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động. Đó là tánh tình bộp chộp. Bởi vậy, Phật dạy chúng ta ý tứ tư duy khi muốn làm một điều gì. Quý thầy phải có suy nghĩ kỹ lưỡng, phải tư duy cân nhắc để khi làm sẽ không bị thất bại. Nếu quý thầy nông nổi, bộp chộp thì quý thầy sẽ bị thất bại khi làm công việc gì. Cũng như quý thầy tu hành mà không suy nghĩ kỹ pháp hành đó đúng thời điểm đó hay không đúng thời điểm đó. Quý thầy nông nổi lắm, nghe nói hay là lo tu chứ không biết cái đó phải ở trong lúc nào, thời điểm nào để chúng ta thực hành cho đúng.
Thầy dạy quý thầy tu tập năm loại định:
1/ Định Niệm Hơi Thở.
2/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
3/ Định Sáng Suốt.
4/ Định Vô Lậu.
5/ Định Hiện Tại An Lạc Trú.
Mỗi loại định, khi tu đều có khác nhau thế mà quý thầy đã nông nổi, không chịu suy tư phải tu tập như thế nào cho đúng, quán như thế nào cho đúng, hướng như thế nào cho đúng, đến khi Thầy hiểu được thì quý thầy đã tu sai.
Như quán vô lậu mà quý thầy cứ kê ra một chữ hay hoặc một số chữ nào đó để rồi quý thầy cứ nhẩm đi nhẩm lại chữ đó khiếnkhông đem lại tâm vô lậu cho mình. Đó là quý thầy tu đã sai. Quý thầy đã có sự lười biếng trong quán vô lậu. Quý thầy quán như vậy thì bao giờ cho hết lậu hoặc. Như quý thầy đem ra một số từ, thí dụ như vô thường, khổ, vô ngã, quý thầy đặt ra thân là vô thường, khổ, vô ngã rồi cứ đọc hoài như người ta niệm Phật như vậy, thì cái quán này có nhằm nhò gì cho sự tu tập tâm vô lậu của quý thầy đâu. Bởi vậy sợ quý thầy không hiểu nên Thầy mới nêu lên những gương của các thánh tăng, của các thánh ni trong thời đức Phật (Trưởng Lão Tăng Ni Kệ) lấy đó để quý thầy tự suy tư vô thường, khổ như thế nào để tu tập. Muốn cho quý thầy tự khai triển được trí tuệ vô sư, tri kiến giải thoát chứ đâu muốn cho quý thầy nhẩm lại cặn bả, đờm giải đó hoài thì làm sao cho tâm vô lậu được.
Rồi đến định Chánh Niệm Tỉnh Thức không biết quý thầy tu có đúng hay không. Rồi định Sáng Suốt chẳng ai thưa hỏi gì cả. Chắc chắn là không có tu. Nếu có tu thì quý thầy cũng phải nói cái sai cái đúng chứ, làm sao mà không thấy ai trình gì hết. Đâu lẻ Thầy dạy như vậy mà quý thầy tu đúng liền đâu. Quý thầy không có trình bày cho Thầy biết quý thầy tu ra sao, vì vậy mà Thầy biết quý thầy tu chưa hẳn đã là đúng.
Đến định Hiện Tại An Lạc Trú thì người trình hơi thở như thế này, kẻ trình hơi thở như thế khác. Tu thì có tu, nhưng tu đúng cách thì như thế nào đúng, hầu hết quý thầy không rõ, cho nên nhìn quý thầy sống trong tu viện này thì biết quý thầy tu đúng tu sai, chứ Thầy không cần theo dõi hơi thở của quý thầy. Thấy lối sống thì biết được sự tu hành của quý thầy. Một người tu đúng thì họ sống phải như thế nào, mà tu sai thì họ sống như thế nào. Với một bực thầy có kinh nghiệm thì thấy rất rõ, người ta thấy lối sống thì biết cách tu. Lối sống không đúng thì thiền định đã tu sai.
Thời gian của quý thầy còn ngắn quá, bởi vậy lấy tâm niệm Phật thì quý thầy không được nông nổi. Quý thầy muốn tu một định nào phải suy nghĩ cho kỹ, xét xem có đúng chưa rồi mới thực hành, khi thực hành còn phải coi xem có hay không có những trạng thái gì xẩy ra. Những trạng thái đó đúng hay sai, phải thưa hỏi lại, nếu không chịu hỏi, lở có gì, sửa rất là khó khăn.
Câu này quý thầy phải trạch pháp để dùng pháp hướng như lí tác ý "Tánh nông nổi là tánh bộp chộp rất xấu, thường đưa người ta đến thất bại trong việc làm cũng như trong sự tu hành. Từ đây làm việc gì hay tu tập ta thường nhắc nhở không được hời hợt nông cạn, suy tính cho kỹ lưỡng rồi mới hành. Tánh nông nổi làm việc gì cũng thất bại, hãy đi đi, đừng ở đây nữa".Nghĩa là mình nhắc, mình đuổi nó vậy. Mỗi lần nhớ nó thì khi mình muốn làm gì, muốn tu gì, phải suy nghĩ rất kỹ rồi hãy làm, chớ để bộp chộp, mình phải suy nghĩ cái đó đúng hay sai.
Những pháp tu đúng là những điều kiện rất quý báu để chúng ta theo dõi, chúng ta cần phải hiểu để mà tu. Đó là những cơ bản để đi vào thiền định. Nó là những pháp lúc nào cũng tạo thành niềm tin bất diệt trong lòng của chúng ta đối với Phật. Bởi vì tâm Phật như vậy mà tâm ta không đúng như vậy thì chúng ta quy y Phật làm gì. Quy y Phật là phải nương theo Phật, phải sống như Phật, mà bây giờ tâm chúng ta khác Phật thì phải nỗ lực cho giống Phật, như vậy gọi là niệm Phật. Nếu mình không theo Phật thì thôi, mình cứ niệm cái gì cũng được, còn mình theo Phật thì mình niệm Phật bằng cách làm đúng như Phật.
Tại sao theo Phật mà không làm đúng như Phật. Làm đúng như Phật thì có giải thoát. Mà giải thoát rồi, quý thầy thấy như thế nào? Tin Phật không? Tin chứ. Nếu không kết quả làm sao mà tin, mà đã có kết quả thì phải tin. Cho nên từng tánh như là nông nổi, phản bội,... đưa dần chúng ta đến chỗ sai lệch Phật pháp.
Trong khi học Tâm Phật không phóng dật, Thầy xin đọc lại một bài kệ của một vị thánh tăng để giúp cho chúng ta trên đường tu tập. Tâm không phóng dật. Ngài Khitaka sau khi chứng quả Alahán, ngài thường dùng kệ khuyến khích các bạn đồng tu của mình. Qua bài kệ này, chúng ta nghe để cố gắng giữ tâm mình không phóng dật như tâm Phật vậy.
Tâm ái như tảng đá
Đứng vững không giao động
(mình tập luyện tâm không phóng dật của mình cho nó như một cục đá luôn luôn vững vàng trước các pháp làm cho nó giao động. Trước các pháp làm cho nó giao động thì chúng ta cố gắng giữ cho nó không giao động; do nó không giao động thì tâm ta mới không phóng dật, vì vậy chúng ta sẽ thoát ra những cái khổ đau do các vật, các hoàn cảnh, các sự kiện lôi cuốn làm cho tâm chúng ta khổ sở trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta).
Hởi vật khả ái kia
Tâm ta không tham ái
(nghĩa là tất cả mọi đối tượng của ngũ dục lạc thì nó gợi lên những khả ái khả lạc khả hỉ làm tâm chúng ta dễ bị say đắm, dễ bị ham mê, do vậy mà chúng ta phải giữ gìn tâm của mình không cho nó tham ái. Cho nên ngài mới nhắc "Hởi vật khả ái kia, tâm ta không tham ái", giữ tâm mình như vậy thì các vật kia không cám dỗ được, như vậy tâm mình mới vững vàng như tảng đá).
Đối vật dễ giao động
Tâm ta không giao động
(Trước các vật, trước các pháp, tâm dễ bị giao động lắm, nhưng người tu hành thì phải đầy đủ nghị lực, đầy đủ can đảm, không để tâm chúng ta giao động theo các vật cám dỗ lôi cuốn mình).
Tâm ai tu tập vậy
Từ đâu khổ sẽ đến?
(Nếu chúng ta giữ gìn tâm không phóng vật theo vật được như vậy thì làm sao có khổ đến với tâm ta).
Đó là bài kệ của ngài Khitaka khuyến khích ta tu hành để cho tâm không phóng dật.
Trong khi học về tâm Phật không phóng dật, chúng ta phải lấy bài kệ này để rèn luyện, để thực tập cho chính tâm mình không phóng dật.
Đây, Thầy đọc lại bài kệ:
Tâm ái như tảng đá
Ðứng vững, không dao động,
Hỡi những vật khả ái,
Tâm không có tham ái,
Ðối vật làm dao động,
Tâm không có dao động,
Tâm ai tu tập vậy,
Từ đâu, khổ sẽ đến.
Những bậc như vậy thì mình sống gần gủi họ, bởi đời sống của họ là đời sống đúng giới hạnh, không chạy theo dục lạc và những người đó mới có pháp tu, họ tu như thế nào mà đạt được như thế đó. Vì vậy mà mình đến với những người đó học pháp của họ, mình nương vào những hành động đó của họ. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta muốn cho tâm không phóng dật thì mình phải thân cận, tức là mình sống gần với các bậc đó, rồi mình học những pháp của họ, của những bậc thánh đó. Họ đã tu tập, đã học được, làm sao mà họ hiểu được những pháp như vậy.
Như bây giờ Thầy ăn ngày một bữa, Thầy sống như thế nào mà Thầy ăn được một bữa, rồi Thầy sống như thế nào mà Thầy không ngủ, Thầy sống như thế nào mà nhập được thiền định, Thầy sống như thế nào mà không giết hại chúng sanh. Do thân cận những bực đó, quý thầy sẽ học được những pháp và nương tựa gương hạnh của các bậc đó thì quý thầy sẽ thấy mình được giải thoát hoàn toàn.
Vì vậy mà đức Phật bảo mình phải thân cận những bậc thánh, mình phải nương tựa vào những bậc thánh và những bậc chân nhân. Những bậc chân nhân không phải như những bậc thánh đâu. Bậc thánh là những người sống gần bên những người phàm phu khác nhưng lối sống của họ không ở trong sự xa hoa, dục lạc của thế gian. Cuộc sống của họ là cuộc sống giải thoát. Còn những bậc chân nhân thì họ ở trong rừng, trong núi, họ ở nơi những túp lều tranh, họ ở nơi hang đá. Nếu mình gặp những bậc đó nữa thì quý biết là bao nhiêu, vì họ sống cuộc sống bỏ hết cuộc đời, không còn sống ở trong xã hội này nữa, coi như tách lìa ra khỏi xã hội, để họ thực hiện con đường tu tập đến rốt ráo. Và sau khi được rốt ráo rồi, họ mới trở về, để cho mọi người khác được ở gần bên những bậc thánh. Những bậc thánh sống đời sống thánh thiện để làm gương cho người khác, để cho mọi người trong xã hội nương vào gương hạnh của những bậc thánh và lời nói của những bậc thánh.
Thí dụ trong thời gian Thầy còn ở trong thất tu hành, đó là những bậc chân nhân. Những giới hạnh, việc làm rất là nghiêm túc. Còn như hiện giờ Thầy đang sống gần bên các con để dạy các con, lấy gương hạnh mình làm gương cho các con soi để tu tập, thì đó là những bậc thánh. Do đó đời sống của những bậc thánh khác lạ hơn đời sống thường tình của thế gian. Đời sống thường tình của thế gian thì người ta nằm giường cao rộng lớn, còn đời sống của những bậc thánh thì nằm giường tre hoặc người ta nằm trên đất hay trên tảng đá. Đó là đời sống của thánh thiện. Những bậc thánh không còn dính mắc với vật chất, sống chung với mọi người, không tách lìa mọi người, không tách lìa thế gian mà sống ở trong thế gian, đem gương hạnh sống của họ hướng dẫn cho người khác, để cho người khác buông xả, để cho người khác không khổ.
Như bây giờ có người làm ăn đổ nợ nần, họ khổ sở hết sức, họ không biết cách thức nào giải quyết được, thì nếu họ gần gủi bậc thánh, họ bạch với bậc thánh con làm ăn gặp khó khăn như vậy, bây giờ làm sao thoát ra khỏi cảnh khổ đó, thì vị bậc thánh đó sẽ chỉ cho họ thấy đường đi nhân quả của họ. Khi người đó thấy được đường đi nhân quả sẽ giải quyết theo nhân quả của bản thân, cho nên không còn nợ nần, không còn khổ đau nữa.
Từ lâu họ làm ăn như thế, nếu bây giờ để người ta biết được họ đã làm ăn như thế thì bị người cười chê thế này thế khác. Cho nên người đó khó sống trong xã hội. Cái khổ tâm nhất của người đó là cái nợ nần, bởi vay nợ của người ta, tiền lời cứ mỗi ngày chồng lên, càng ngày mình càng lún sâu xuống trong nợ nần, rồi phải đi ở tù nữa là khác. Nhưng gặp bậc thánh người ta không sợ cái cười chê đó đâu, mà giải quyết theo nhân quả cho người đó. Bậc Thánh sẽ chỉ cho người đó giải quyết tất cả theo nhân quả, người đó trả sạch nợ đi, rồi chừng đó còn một đồng thì ăn một đồng, còn một cắc thì ăn một cắc, lúc bấy giờ tâm hồn người đó thanh thản. Đó là bậc Thánh giải quyết theo nhân quả của người đó. Nếu cứ để ngày càng lún sâu hơn nữa trong nợ nần thì người đó chỉ có nước đi ở tù hoặc tự tử chết chứ không thể nào mà sống được.
Đó là gặp bực thánh chỉ cho người đó con đường đi của nhân quả rồi tự người đó phá ra. Hồi đó cứ sợ người ta cười chê, cho nên cứ vay thêm tiền bỏ vô để còn cái danh hư giả mà cuối cùng thì càng lún sâu trong nợ nần mà chết.
Cho nên gặp được những bậc chơn tu, những bậc thánh hiền thì người ta mới chỉ cho mình thấy cái nhơn quả, dù bán nhà bán cửa để trả cho hết nợ, dù bán hết tất cả để trả cho hết nợ, để không còn sinh lời nữa, giải quyết được cuộc sống. Bây giờ dù sống ở trong túp lều nhưng người đó vẫn thấy thoải mái. Cái khả năng, cái tài của người đó vẫn còn, cho nên dù người đó có trở lại với hai bàn tay không, rồi sau một hai năm làm ăn sẽ vươn lên, sẽ giàu có trở lại mà không vay nợ ai nữa hết.
Từ hồi nào tới giờ vì không hiểu nhân quả, cho nên người đó cứ vay tiền của người ta bỏ vào làm ăn để lấy tiếng, nhưng vì trả nợ lãi, cuối cùng chúng ăn hết mà mình càng ngày càng khổ, không có đồng nào.
Như vừa rồi có một phật tử đến gặp Thầy, cũng trong trường hợp nầy, Thầy đã giảng cho người đó con đường đi của nhân quả của họ. Họ mong ước gặp Thầy để giải quyết sự khổ của họ. Chính người phật tử này xin Thầy chỉ dạy cho họ cách thức để giải quyết theo con đường nhân quả của mình. Họ đã vô đường đi nhân quả đau khổ đó. Khi nhận được lời Thầy chỉ cho họ thấy rõ nhân quả của họ rồi thì họ xin hứa với Thầy họ sẽ về bán đồ đạt để trả dứt các nợ, giải quyết hết nợ nần để tâm hồn họ được giải thoát, dứt được sự khổ đau của cuộc sống. Nếu gặp người khác thì họ bảo phải vô chùa lạy Phật, hay cầu Quan Âm hay tụng kinh Pháp Hoa cho nhiều đi, rồi đức Phật Quan Âm phù hộ, cuối cùng cứ vay nợ đổ vô thì người phật tử này bị nợ ngày càng chồng chất. Càng ngày càng đổ vốn vô để làm ăn, mà bị thất bại, riết rồi có thể nói người phật tử này chỉ chết chứ không thể sống nổi.
Còn Thầy thì dạy họ chấm dứt làm ăn ngay liền. Nhân quả họ đoạn dứt liền, chuyển liền, đời sống họ thanh thản ngay. Cái khả năng của họ, cái tài của họ trong việc làm ăn vẫn có, họ sẽ vươn lên làm lại cuộc đời, không nợ nần ai nữa hết.
Các con thấy trong đời tu hành mà gặp bực chân nhân và bực thánh có lợi ích rất lớn. Còn nếu không gặp được bực chân nhân, bực thánh thì cuộc đời tu hành của các con chỉ phí mà thôi, bởi các con không gặp gương hạnh sống đúng giới hạnh, mà chỉ gặp gương hạnh phóng dật, rồi gặp pháp môn tu không đúng nữa thì làm sao các con tu tới được.
Như hồi nào tới giờ, người ta dạy các con niệm Phật phải không? Ai cũng biết niệm Phật hết, thế mà niệm Phật như họ dạy, tới giờ các con đã giải thoát chưa? Chưa có người nào được giải thoát hết. Bây giờ Thầy dạy các con lấy thân niệm Phật, các con chưa từng thấy người ta dạy lấy thân niệm Phật như thế bao giờ. Đây là lần đầu các con nghe lời Thầy dạy lấy thân niệm Phật, lấy tâm niệm Phật, lấy thọ niệm Phật, lấy các pháp niệm Phật. Khi các con lấy thân niệm Phật, lấy tâm niệm Phật, lấy thọ niệm Phật, lấy các pháp niệm Phật, các con thấy giải thoát ngay liền tức khắc. Phải không?
Các con thấy, đầu tiên mới vô, các con quy y Tam Bảo là nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Từ hồi nào tới giờ người ta dạy cho các con niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là các con niệm nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng, khi gặp nhau thì các con chào hỏi "Nam mô Phật". Ai cũng biết niệm Phật Pháp Tăng như họ dạy hết. Nhưng cách niệm như vậy không có giải thoát gì hết. Chưa có người nào được giải thoát hết. Có khi đụng nhau nãy lửa, choảng nhau nữa, làm ăn thì tranh hơn nhau chứ không nhường nhau. Còn Thầy dạy lấy thân niệm Phật, lấy tâm niệm Phật, lấy thọ niệm Phật, lấy các pháp niệm Phật. Khi các con lấy thân niệm Phật, lấy tâm niệm Phật, lấy thọ niệm Phật, lấy các pháp niệm Phật như lời Thầy dạy, các con thấy giải thoát ngay liền tức khắc. Đây là lần đầu các con nghe lời dạy như vậy.
Thầy dạy các con niệm Phật có giải thoát hoàn toàn. Nếu các con nghe lời Thầy dạy dùng pháp hướng đặt ra những câu để áp dụng đúng cách thì các con sẽ thấy thân tâm của các con được giải thoát hoàn toàn. Thậm chí như cái thọ đau nhức đến mức độ cuối cùng của sức chịu đựng của các con, các con vẫn thấy thản nhiên, thấy không có đau khổ nữa.
Muốn chấm dứt tâm phóng dật, muốn cho tâm không phóng dật là một điều rất khó, cho nên các con phải gần những bậc thánh hiền, những bậc chân nhân, rồi các con bắt chước những hành động sống của họ, bắt chước những pháp của họ tu hành thì các con sẽ được giải thoát. Hằng ngày các con phải tu tập và trau dồi những pháp của những bậc chân nhân, có như vậy tâm các con mới không phóng dật.
Ngày xưa đức Phật thấy tất cả chúng sanh đau khổ, lui tới trong sanh tử luân hồi là không xa lìa được tâm phóng dật, cho nên Ngài rất thương mà nói bài kệ này:
Khó thấy được vô ngã
Không dễ thấy sự thật
Với người có hiểu biết
Xa lìa tâm phóng dật
Vị ấy đã thấy rõ
Đâu còn có vật gì
(nghĩa là không phóng dật thì đâu có còn dính vật gì đâu.)
"Khó thấy được vô ngã" nghĩa là các pháp đều là vô ngã, không có cái ngã thật mà mình cứ thấy nó có cái ngã thật, như thấy cái đồng hồ là có đồng hồ rồi, làm sao mà nói nó là vô ngã thật. Nhưng đâu ngờ rằng đem lửa đốt thì nó có còn không. Nếu nó là thật thì nó đâu có cháy. Nó không thật cho nên nó phải hoại diệt, nó đâu có thường hằng được. Bây giờ thấy đồng hồ chạy vậy chứ mai mốt nó hư thì chỉ còn có nước quăng vào đống rác. Cho nên đồng hồ thật sự là vô ngã.
Cũng như cái thân của mình, nói nó thường. Thường sao được. Thường sao mà hồi nhỏ thì mạnh khỏe, bây giờ già yếu, sức khỏe suy sụp, không biết chết ngày nào. Vậy sao thấy nó là thường, là ngã được. Nó vô ngã thật. Cho nên Phật nói "Khó thấy được vô ngã".
Mình thấy mọi vật đều có thật, tại sao Phật nói nó vô ngã. Ông Phật nói nghe lạ quá. Nhưng thật sự nó vô thường chứ nó có thường đâu. Vì các vật có thật nhưng trong bản chất của nó không có trường tồn được, nó không vỉnh viển được cho nên Phật nói vô ngã.
Nhưng muốn thấm lí vô ngã đó thì chúng ta phải tu định vô lậu, thấm được lí vô lậu mới chứng được lí vô ngã. Thấm được lí vô lậu cho nên lúc bấy giờ chúng ta đâu còn thương ghét, đâu còn giận hờn ai đâu, vì đâu có gì thường còn. Các pháp đều là vô thường, vô ngã.
"Không dễ thấy sự thật" nghĩa là khó mà nhìn ra được sự thật của thân tâm của mình, của các pháp chung quanh, của cái bàn cái ghế. Tất cả mọi cái này đều nói là không có thì không thể nào chúng ta thấy được, nhưng sự thật nó không có. Trước kia nó đâu phải là cái bàn như thế này. Nó chỉ là những hạt nhựa rồi người ta nung chảy ra, đưa vào máy móc, đổ nó vào trong khuôn của cái bàn, mới thành ra cái bàn, mới có cái bàn. Như vậy trước kia nó chỉ là các hạt nhựa, rồi dưới sức nóng chúng kết hợp lại, qua cái khuôn mới có cái bàn, chứ đâu phải khi không có cái bàn. Chúng ta có tập giấy này là sự kết hợp của nhiều công việc, từ cái cây chế biến thành bột, qua các công đoạn kết hợp lại thành giấy. Bao nhiêu công việc mới có giấy, mới thành tập giấy, nghĩa là do duyên hợp mới có hình dáng của nó. Khi duyên hợp hết, duyên tan đến thì có gì còn nữa đâu.
Muốn nhìn thấy được sự thật đó, muốn thấm nhuần được sự thật như vậy thì chúng ta phải có một quá trình nhuần nhuyển về định vô lậu. Nếu không chịu tập luyện định vô lậu thì cái gì cũng thật hết. Cho nên chuyện gì chúng ta cũng thương ghét, trách giận, phiền não trong lòng đủ mọi cách.
"Với người có hiểu biết", người hiểu biết thì người ta không để tâm dính mắc nó, không phóng theo vật đó cho nên không dính mắc, mà không dính mắc thì người ta thấy thanh thản, không bận rộn, không lo lắng, là "Xa lìa tâm phóng dật"
"Vị ấy đã thấy rõ". Thấy rõ sự thật các pháp của thế gian là vô thường, vô ngã, luôn luôn đem đến sự đau khổ cho con người. Cho nên có nhiều người hiểu Phật pháp rồi buông xuống sạch hết. Còn bây giờ mình tuy hiểu nó là vô ngã nhưng mình vẫn thấy nó thật, cho nên nó đâu phải là vô ngã, đâu phải là vô thường. Thấy khổ chứ đâu phải khổ. Mình lấy cái bát uống nước thì thấy cực hơn là lấy cái ca cho nên mình lấy cái ca. Mình thấy cái ca xinh đẹp còn cái bát bằng đất nặng nề đâu bằng cái ca. Do sự so sánh đó mà mình thấy giữa cái bát bằng đất và bát bằng kim loại là thật. Nhưng dù có tốt hay xấu thì nó cũng là vật vô thường. Hôm nay còn mới thì khác nhau, nhưng ngày mai cũ rồi thì còn gì mà tốt xấu.
Thân chúng ta còn không duy trì cho thời trai trẻ còn hoài, để cho bây giờ da nhăn nheo. Các con còn trẻ, vậy sao các con không giữ cho trai trẻ hoài đi mà để cho thân già đi. Nếu thân là thường thì giữ cho nó đẹp hoài, cho nó trẻ hoài. Thế mà không có một người nào giữ được hết.
Như vậy chắc chắn có sự hoại diệt, có sự vô thường cho tất cả. Do đó chúng ta chuẩn bị, đừng khóc than, đừng chạy theo mọi vật, chúng ta hãy dứt đi, bỏ hết đi, đừng ham vật gì hết. Thậm chí như tất cả lòng thương yêu của chúng ta đối với con cái, đối với mọi người, chúng ta thấy nó cũng là không thật. Hãy buông xuống hết đi, buông xuống để chúng ta tìm lối giải thoát, cứu bản thân của mình ra khỏi sự đau khổ của cuộc đời này.
Đối với con người, phóng dật là một pháp rất ác, nó trói buộc khiến cho người ở kiếp này khổ, đến kiếp khác cũng khổ. Nghĩa là tâm phóng dật trói buộc chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác. Tâm phóng dật trở thành nghiệp, trở thành nhân quả, nó lôi chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác, chúng ta không thể rời tâm phóng dật được.
Tâm Phật không phóng dật nên Phật ra khỏi sanh tử luân hồi. Ta còn tâm phóng dật cho nên ta làm sao ra khỏi sanh tử luân hồi được. Nghĩa là còn một vật nhỏ mà không bỏ được, còn dính vật đó, là còn tâm phóng dật. Mình cứ nghĩ rằng để dành vật đó mai sau dùng làm gì đó. Do đó chưa phải là bỏ. Chúng ta phải dẹp hết đi không còn vướng vật gì. Ta còn phóng dật thì làm sao ta thoát khỏi sanh tử luân hồi được.
Biết tâm phóng dật là tâm rất nguy hiểm và tai hại rất lớn cho đời tu hành, ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng như lí tác ý, hằng ngày tu tập và trau dồi thân tâm ta. Phóng dật là một pháp rất ác, nối tiếp sự đau khổ từ kiếp này sanh kiếp khác không bao giờ dứt. "Là tu sĩ Phật giáo ta phải thấy rõ để quyết tâm dũng cảm, gan dạ, kiên trì dứt bỏ tâm phóng dật, từ giả, từ khước, xa lìa tâm phóng dật. Phóng dật là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa".
Câu pháp hướng này chỉ ra sự khổ đau dính mắc của tâm phóng dật, để rồi chúng ta chỉ mặt nó "Mày là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa". Các con phải nhớ câu pháp hướng này để trước giờ tu định hiện tại an lạc trú trong hơi thở, cũng như trước khi bước đi kinh hành để tu định chánh niệm tỉnh thức thì phải nhắc tâm đuổi phóng dật đi, đừng để tâm phóng dật ở gần mình nữa, rồi mới bắt đầu hít thở tu định hiện tại an lạc trú hay đi kinh hành chánh niệm tỉnh thức. Bởi vì mình biết phóng dật tai hại cho đời mình, làm cho mình dễ chạy theo cái này cái khác, cho nên phải đuổi phóng dật đi rồi mới tu pháp môn muốn tu.
Đó là dùng pháp hướng đuổi phóng dật để cho tâm mình như tâm Phật, không phóng dật. Tâm phóng dật là tâm làm cho mình thỏa mãn.
Ngược với tâm phóng dật là tâm sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình. Luôn luôn lúc nào cũng nhắc nhở tâm để tâm không dính mắc các vật, không bị phóng dật.