• toduongtuyetson
  • phattuvandao1
  • amthat3
  • tamthuphattu
  • chanhungphatgiao
  • tinhtoa1
  • vandaptusinh
  • ttl1
  • ThayTL
  • khatthuc1
  • amthat1
  • daytusi
  • phattuvandao3
  • benthayhocdao
  • tinhtoa2
  • thanhanhniem2
  • lopbatchanhdao
  • tranhducphat
  • quetsan
  • lailamtoduong1
  • ttl3
  • huongdantusinh
  • thanhanhniem3
  • vandao2
  • thanhanhniem1
  • amthat2
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
JGLOBAL_PRINT

LỢI ÍCH CỦA GIỚI LUẬT

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích VHTT, tập 2, TG. 2010, tr. 40-96, tỳ khưu Từ Quang sắp xếp lại đề mục)
link sách: VHTT, tập 2

A.- MUỐN THÀNH TỰU ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH

1.- ĐƯỢC MỌI NGƯỜI QUÝ KÍNH, TÔN TRỌNG

Ðiều lợi ích thiết thực thứ nhất của Giới luật là sự ước nguyện cho mình được mọi người thương yêu, quý mến, cung kính, tôn trọng như trên đã nói.

Muốn được lòng tin vững chắc thì chúng ta hãy sống đúng giới luật để thấy sự ước nguyện thành hiện thực. Cho nên điều ước nguyện thứ nhất là điều ước nguyện để được mọi người thương yêu quý kính. Vậy chúng ta hãy nghe lời Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, neu Tỳ Kheo co ước nguyện: “Mong rằng ta được đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính, tôn trọng, Tỳ Kheo sống phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Theo như lời Phật dạy trên đây thì khi nào giữ gìn giới luật được nghiêm túc thì có năm đức hạnh khác được viên mãn như trên đã nói. Các bạn đừng nhầm lẫn năm đức hạnh này là năm pháp tu. Năm đức này gồm có:

1- Ðức kiên Trì.

2- Ðức tịch tĩnh.

3- Ðức thiền định.

4- Ðức quán hạnh.

5- Ðức độc cư.

Khi giới luật được nghiêm túc thì năm đức hạnh này được thể hiện viên mãn trong nếp sống hằng ngày của các bạn, do đó mọi người cảm nhận và thấy được năm đức này hiện bày nơi các bạn rõ ràng, nên họ đều quý mến, thương yêu, cung kính và tôn trọng. Cho nên chúng ta phải hiểu những lời dạy trên đây là để nhấn mạnh về sự ước nguyện đạt được kết quả tốt đẹp, rõ ràng, thực tế, cụ thể do từ hành động sống đúng giới luật.

Ðoạn kinh trên đây cho chúng ta thấy đạo Phật có một tiêu chuẩn về sự ước nguyện hay cầu mong một điều gì để đạt được kết quả tốt đẹp như ý muốn, thì giới luật chính là tiêu chuẩn của nó.

Hầu hết mọi người sống trên hành tinh này đều có nhiều ước nguyện, nhưng tất cả những ước nguyện ấy không thành tựu, viên mãn được là do họ không biết tiêu chuẩn nào sống để đạt thành kết quả ước nguyện đó, chính họ không biết nên sự ước nguyện của họ trở thành không hiện thực, không kết quả.

Thưa các bạn! Theo chúng tôi nghĩ: không phải mọi người không muốn sống đúng giới luật, nhưng vì họ không biết giới luật. Nhất là không biết giới luật là tiêu chuẩn kết quả của sự ước nguyện, của sự mong ước. Do không biết giới luật là đức hạnh, là thiện pháp, nên họ sống trong ác pháp mà cứ tưởng là thiện pháp. Do sống trong ác pháp mà cầu mong ước nguyện mình được hạnh phúc an vui, thì làm sao có được. Phải không các bạn?

Ðó là một điều xác quyết chắc chắn mà đạo Phật đã chủ trương lấy giới luật làm thầy, dạy cho chúng ta thấy rằng tiêu chuẩn sống đạo đức làm Người, làm Thánh chắc chắn không phải pháp môn nào khác hơn là giới luật. Vì thế, mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh giới luật, phải tự nguyện như đức Phật đã dạy: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”, nhưng đi bằng cách nào?

Thưa các bạn! Ði bằng tri kiến. “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó, giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nhờ có thắp đuốc tri kiến và giới luật thì những ước nguyện của bạn mới toại nguyện, chứ không ai giúp cho ai được, dù chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh, chư Thần, v.v... cũng đành bó tay trước sự công bằng của luật nhân quả. Sống trong ác pháp (phạm giới) mà cầu mong mình được hạnh phúc, an vui thì làm sao đạt được. Phải không các bạn?

Không đạt được, nên các bạn phải dựa lưng vào thế giới siêu hình bằng sức tưởng uẩn của chính mình để thể hiện những trạng thái siêu hình linh thiêng ban phước giáng hoạ. Những trạng thái siêu hình ấy là để thỏa mãn lòng ước mơ và cũng làm chỗ nương tựa tinh thần, khi gặp tai nạn, bệnh tật nan y hay bất cứ một việc gì khó khăn xảy đến trong đời sống.

Vì không tự tin nơi mình nên các bạn phải sống trong ảo tưởng. Do sống trong ảo tưởng nên thế giới siêu hình mới xuất hiện. Có thế giới siêu hình, từ đó loài người tưởng mình dựa lưng vào thế giới đó sẽ có sự an vui, hạnh phúc chân thật, nào ngờ lại phải chịu khổ thêm vì gánh nặng của thế giới siêu hình này, công sức và sự tốn hao của cải, tài sản của các bạn chi phí cho thế giới này gần như chiếm hết 1/10 tài sản của loài người trên hành tinh này để xây dựng và nuôi dưỡng những người hành nghề mê tín ảo tưởng này mà mọi người đều gọi là tôn giáo.

Ðức Phật biết rõ tâm niệm của loài người thường ước nguyện cho cuộc sống của mình được hạnh phúc, an vui, nhưng họ lại không biết cách thức nào, đường lối nào sống để đạt được hạnh phúc, an vui ấy. Bản chất con người phần đông là hay tự ti mặc cảm, tự thấy mình quá yếu đuối trước những uy lực của vũ trụ vô hình hoặc những hiện tượng hữu hình vĩ đại như sông, núi, rừng, biển, thời tiết, nắng, mưa gió, bão, sấm sét, lũ lụt, thiên tai, hỏa hoạn, bệnh tật, tai ương, v.v... khiến cho loài người quá sợ hãi, kinh khủng và khiếp đảm. Họ cảm thấy như mình quá nhỏ bé trước hình sắc và sức mạnh của vũ trụ lúc nào cũng đang đe dọa họ.

Thưa các bạn! Ðứng trước những sự hùng vĩ của vũ trụ như vậy, con người chưa biết nguyên nhân nào tạo ra vạn vật và sức mạnh kinh khủng ấy. Vì thế, sự khổ đau chính bản thân của họ lại chồng chất lên những sự khổ đau khác của ngoại cảnh nữa.

May mắn thay! Trong loài người, lại sản sinh ra một bậc vĩ nhân. Người ấy cũng như bao nhiêu con người khác, nhưng đã khắc phục được thân tâm mình, từ đó người ấy đã khám phá ra những nguyên nhân tạo nên sự vĩ đại của vũ trụ và chính người ấy biết rất rõ những nguyên nhân của nó. Vì vậy, người ấy đã dạy cho con người biết cách để khắc phục những sức mạnh kinh khủng ấy. Cách thức để khắc phục làm chủ sức mạnh kinh khủng ấy, tức là cách thức làm chủ thân tâm mình. Người ấy chính là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trong kinh Ước Nguyện đã dạy mọi người những điều ước nguyện rất rõ ràng và cụ thể. Khi muốn sự ước nguyện được thành tựu viên mãn thì nên căn cứ vào giới luật mà sống. Vì giới luật là thiện pháp, là đạo đức của mọi người. Như vậy chúng ta suy nghiệm lời dạy của đức Phật là lấy thiện pháp chuyển hóa ác pháp rất đúng, vì chỉ có thiện pháp mới chuyển được ác pháp.

Vậy ác pháp là gì?

Ác pháp là những uy lực của vũ trụ có những hiện tượng vô hình như sấm sét, những từ trường khí lực, điện lực, tưởng lực, v.v... hoặc những hiện tượng hữu hình vĩ đại như sông, núi, rừng, biển, thời tiết, nắng, mưa gió, bão, lũ tụt, thiên tai, hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bệnh tật, tai ương, v.v…

Còn thiện pháp là gì?

Thiện pháp là giới luật, là Phạm hạnh, là đạo đức nhân bản - nhân quả.

Vậy lấy thiện pháp chuyển hóa ác pháp như thế nào?

Ví dụ: Người ta chửi mình, mình không chửi lại, đó là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Họ chửi mãi một lúc mà không ai nói hoặc chửi mắng lại, chửi mãi cho đến khi mỏi mệt họ liền thôi và không chửi nữa. Đó là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Do sự biết nhẫn nại như vậy và biết vui lòng trước nghịch cảnh của nhân quả như vậy, vì thế mọi việc đều trở lại an ổn bình thường thì đó gọi là lấy thiện pháp chuyển ác pháp. Có phải vậy không các bạn?

Nếu các bạn đặt thành vấn đề hơn thua không nhẫn nại, chửi lại họ thì mọi việc đâu có được bình thường và yên ổn. Có thể xảy ra án mạng, người đi bệnh viện kẻ ở tù. Có đúng như vậy không các bạn? Ðó là không lấy thiện pháp chuyển ác pháp.

Nhẫn nại không chửi lại người khác, đó là hành động thiện pháp. Không chửi lại tức là không phạm giới, vì trong giới luật Phật dạy khi chửi lại người khác là phạm vào giới nói lời hung ác. Nói lời hung ác thì làm sao chuyển được hoàn cảnh ác trở nên hoàn cảnh thiện. Phải không các bạn? Ở đời mọi người chỉ biết ăn thua đủ thì ác pháp chồng thêm ác pháp, khổ đau chồng thêm khổ đau, chứ bao giờ hết khổ được.

Cho nên, đức Phật dạy ước nguyện được bình an, không bệnh tật, không tai nạn, thì giới luật phải được giữ gìn nghiêm túc. Giới luật giữ gìn nghiêm túc thì ước nguyện ấy sẽ mãn nguyện.

Ðọc những lời dạy của đức Phật các bạn thấy pháp của Phật rất thực tế, cụ thể, hiện tại không có thời gian, kết quả sẽ thấy ngay liền. Nếu không giữ gìn giới luật thì thôi, chứ đã giữ gìn giới luật nghiêm túc, thì điều chi ước nguyện cũng sẽ được mãn nguyện.

2.- ĐƯỢC CƠM ĂN ÁO MẶC

Ðiều ước nguyện thứ hai là ước nguyện cho đời sống của mình về thức ăn, về vải mặc, về chỗ ở và về thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì giới luật phải sống nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, luôn sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt.

Trong cuộc đời này làm người ai cũng mong cầu cơm ăn, áo mặc, nhà ở được khang trang, được đầy đủ tiện nghi, nhưng chúng ta ai cũng biết sự ước nguyện ấy là cả một cuộc đời, một cuộc đấu tranh không ngừng, chiến đấu để bảo vệ sự sống cơm ăn, áo mặc, nhà ở cho được đầy đủ hơn.

Nhưng các bạn cũng biết, sự ước nguyện được đầy đủ ấy có bao giờ đạt được như ý muốn đâu! Cho nên sự ước nguyện ấy mãi đến khi các bạn xuôi tay trở về với lòng đất cũng cảm thấy chưa được đầy đủ. Phải không các bạn?

Do sự ước nguyện sống có một cuộc đời được đầy đủ và sung sướng hơn, nên mọi người tạo ra nhiều ác pháp, do tạo ra nhiều ác pháp nên phải gánh chịu nhiều sự khổ đau. Do đó người ta bảo: “Sống là tranh đấu”. Vậy tranh đấu với ai?

Tranh đấu với mình hay tranh đấu với mọi người? Sống là tranh đấu tức là muốn bảo vệ cuộc sống của mình. Muốn bảo vệ cuộc sống của mình là phải đấu tranh với mọi người, tranh đấu với thiên nhiên, với thời tiết nắng, mưa, gió, bão, v.v... tranh đấu với vạn vật từ loài cầm thú to lớn cho đến những loài côn trùng. Tranh đấu chính là phải vật lộn với cuộc sống của mọi người, mọi vật để mưu sinh cho mình. Do sự tranh đấu như vậy nên con người ước nguyện được đầy đủ và hạnh phúc thì chẳng bao giờ có đầy đủ và hạnh phúc được.

Cuộc tranh đấu như vậy là cuộc tranh đấu bên ngoài, cuộc tranh đấu đó gây ra nhiều ác pháp và khổ đau cho mình, cho người. Ngược lại, cuộc tranh đấu mà đức Phật đã dạy cho chúng ta là cuộc tranh đấu nội tâm. Cuộc tranh đấu nội tâm là sự ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình. Hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện. Mong rằng ta được các vật dụng, như y phục các món khất thực sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Ðọc đoạn kinh trên đây cho chúng ta biết rất rõ ràng muốn có cơm ăn, áo mặc và thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì không phải là cuộc đấu tranh với mọi người bên ngoài mà là cuộc đấu tranh với nội tâm của mình.

Mục đích của đạo Phật dạy chúng ta ở đây, nếu muốn có cơm ăn, áo mặc và thuốc thang trị bệnh được đầy đủ thì phải chiến đấu với nội tâm của mình. Chiến đấu với nội tâm của mình là giữ gìn giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, nhờ đó sự ước nguyện ấy sẽ thành tựu viên mãn, không có mệt nhọc, không có phí sức, không có đau khổ. Ðó là cuộc đấu tranh nội tâm của chúng ta.

Còn ngược lại càng đấu tranh với mọi người để đạt được vật chất bên ngoài, thì càng vất vả và gặp khổ đau nhiều hơn. Cho nên muốn đạt được vật chất bên ngoài bằng cuộc đấu tranh với mọi người thì tinh thần và sắc thân đều rất mỏi mệt, chứ đâu có sự an lạc, hạnh phúc.

Ðường lối đạo Phật ứng xử vào cuộc sống rất kỳ diệu không đấu tranh với mọi người để tìm vật chất, của cải, tài sản mà chỉ có cách buông xả vật chất, của cải, tài sản ở nội tâm của mình tức là giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả thì của cải, tài sản, vật chất lại đầy đủ như lòng ước nguyện.

Vì thế, giới luật đức hạnh là một vấn đề quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó quyết định được những điều ước nguyện của mình để đạt được kết quả đầu tiên trong cuộc sống, đó là ước nguyện cơm ăn, áo mặc nhà ở, của cải, tài sản được đầy đủ như trên đã dạy.

Tóm lại, chỉ có giới luật đức hạnh là một phương pháp giúp cho con người đạt thành ý nguyện sự sống đầy đủ an vui và hạnh phúc. Vậy các bạn phải lưu ý về đạo đức thân hành, khẩu hành và ý hành của mình, đừng để chúng sống phi đạo đức thì tai họa sẽ đến với mình muôn vàn sự khổ đau trùng trùng duyên khởi.

3.- NHIẾP PHỤC LẠC, BẤT LẠC

Ðiều ước nguyện thứ ba cho mình làm chủ được dục lạc, dục khổ, không để cho dục lạc, dục khổ làm chủ mình.

Muốn ước nguyện được như vậy thì các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Trong cuộc sống của mọi người trên thế gian này hiện giờ ai ai cũng bị thọ lạc, thọ khổ nhiếp phục, nghĩa là chúng ta đang làm nô lệ cho thọ lạc và thọ khổ. Vậy thọ lạc và thọ khổ là gì?

Kính thưa các bạn! Thọ lạc là chạy theo dục lạc thế gian như ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, chạy theo tâm dâm dục, lấy của không cho, không từ bỏ vọng ngữ, không từ bỏ thuốc lá, rượu men, không từ bỏ trang điểm, ca hát, không nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng, không sống cho riêng mình bằng hạnh độc cư. Ðó là chạy theo thọ lạc. Còn thọ khổ như thế nào?

Thọ khổ có hai phần:

- Thứ nhất thuộc về tâm. Tâm phiền não, sơ hãi, buồn rầu, lo lắng, tức giận, ganh tỵ, ghen ghét, căm thù, v.v... Ðó là thọ khổ thuộc về tâm.

- Thứ hai thuộc về thân. Thân bị bệnh đau, nhức, tật nguyền, v.v.. Ðó là thọ khổ thuộc về thân.

Như lời dạy trên rất rõ ràng: “Mong rằng ta nhiếp phục thọ lạc và thọ bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta”. Người sống trong đời thường bị hai cảm thọ này chi phối thân tâm khiến cho họ phải chịu nhiều sự khổ đau. Muốn thoát ra những sự đau khổ này thì giới luật chúng ta phải chấp nhận nghiêm chỉnh, có nghĩa các bạn phải chấp nhận và sống một đời sống giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Mọi người ai cũng biết do giới luật mà các bạn ly dục ly ác pháp, do ly dục ly ác pháp các bạn không còn chạy theo (dục) sự ham muốn, không còn chạy theo sự ham muốn tức là các bạn nhiếp phục được thọ lạc. Nhưng khi các bạn đã nhiếp phục được thọ lạc thì cũng phải nhiếp phục được thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ. Như trên đã nói thọ khổ tức là thân bị bệnh đau hay nhức nhối khổ sở do bệnh tật. Thế mà ta giữ giới luật nghiêm chỉnh thì cũng nhiếp phục được tất cả bệnh khổ nơi thân. Ðây các bạn có nghe thấy và hiểu biết sự lợi ích của giới luật chưa?

Tóm, lại muốn nhiếp phục được tâm tham dục cũng như bệnh tật khổ đau thì ta phải sống đúng lời dạy của Ðức Phật, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như trên đã nói thì cuộc sống của chúng ta sẽ nhiếp phục được mọi sự khổ đau. Ðó là sự lợi ích thứ năm trong giới luật của Phật. Xin các bạn nên lưu ý và cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì bệnh tật của các bạn sẽ chấm dứt.

4.- NHIẾP PHỤC KHIẾP ĐẢM SỢ HÃI

Ðiều ước nguyện thứ tư cho mình làm chủ tâm, có nghĩa là tâm luôn luôn nhiếp phục được mọi sự sợ hãi và khiếp đảm. Mọi sự sợ hãi và khiếp đảm không nhiếp phục được tâm mình. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chứ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Con người ở đời thường hay có tâm sợ hãi và khiếp đảm như: sợ ma, sợ bóng đêm, sợ chuột, rắn rết, cóc nhái, sâu bọ, v.v... và khiếp đảm trước sắc tướng và uy lực của vũ trụ như núi non, rừng biển, ao hồ, sông nước, rừng núi âm u hoang vắng, nghĩa địa, nhà mồ, thời tiết nắng mưa gió bão, sấm sét, lũ lụt, giông tố, v.v...

Người tu theo đạo Phật nhờ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nên nhiếp phục được mọi sự sợ hãi và khiếp đảm như trên đã nói. Ðây là sự lợi ích thiết thực cụ thể mà mọi người cần phải tu học và rèn luyện.

Như vậy chúng ta thấy rất rõ ràng giới luật là một pháp bảo vô giá không có một vật gì trên thế gian này sánh bằng.

Ðứng trước đám đông người chúng ta muốn phát biểu một việc gì thì cảm thấy hồi hộp sợ hãi, đó là do chúng ta không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Còn những người không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nhưng họ đã từng phát biểu ý kiến nên thành thói quen, tuy dạn ăn dạn nói, nhưng tâm họ vẫn hồi hộp. Những người này cho họ sống một mình trong nghĩa địa, nơi rừng núi hoang vắng thì họ vẫn run sợ và khiếp đảm như những người khác.

Muốn nhiếp phục sự sợ hãi và khiếp đảm thì chỉ có giới luật là pháp môn đệ nhất. Vậy các bạn hãy lập lại lời Phật dạy để đặt trọn niềm tin nơi giới luật: “Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Giới luật Phật lợi ích như vậy, thế mà các nhà Ðại Thừa và Thiền Tông đã xem thường giới luật, thường không răn dạy chúng Tăng, Ni về giới luật nên chúng Tăng, Ni tu hành chỉ là tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu ăn, tu ngủ, tu làm việc lừa đảo, mê tín cúng bái, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, v.v... Ðại Thừa và Thiền Tông phế bỏ giới luật, xem giới luật lỗi thời, vì thế, khiến cho Phật giáo suy đồi và chánh pháp đã chết mất từ lâu.

Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất, thế mà Ðại Thừa và Thiền Tông lại nở tâm quét sạch giới luật ra khỏi Phật môn. Bộ giới cấm còn đó nhưng tu sĩ thì phạm giới ngang nhiên, coi thường giới luật như chiếc giày rách ném trong thùng rác.

5.- CHỨNG ĐƯỢC BỐN THIỀN HIỆN TẠI LẠC TRÚ

Ðiều ước nguyện thứ năm cho mình và cho những người tu theo Phật giáo thân tâm được nhập các định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng và trú bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú. Muốn được vậy thì các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng, tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, Ta chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!” Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Thưa các bạn! Các bạn có nghe chăng? Muốn nhập được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức thì giới luật các bạn hãy giữ gìn nghiêm túc không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Ðó là lời dạy đúng đắn của đức Phật.

Vậy mà các bạn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống một đời sống phi Phạm hạnh: chùa to, Phật lớn, tiền của nhiều, vật chất sang cả, v.v... mà tu thiền định thì các bạn tự nghĩ: Ðó là loại thiền gì? Từ lâu các bạn tu hành mà không nhập Bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú là vì các bạn giữ gìn giới luật không nghiêm túc, xem thường những giới nhỏ nhặt. Lúc nào cũng dựa vào kinh sách Ðại Thừa lý luận để bỏ những giới nhỏ nhặt, chạy theo dục lạc mà không bị người cư sĩ chỉ trích phê phán. Nhất là các thiền Sư Ðông Ðộ xem giới luật chẳng ra gì, như: Nam Tuyền sát miêu, Lâm Tế chém rắn, Phần Dương và Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt uống rượu, v.v... Ðối với đôi mắt của chúng tôi thì những thiền sư này là Ma Ba Tuần chứ không phải là tu sĩ Phật giáo. Tu sĩ Phật giáo là những Thánh Tăng nên oai nghi tế hạnh rõ ràng, không hề vi phạm một giới luật nhỏ nhặt nào. Xứng đáng làm ruộng phước cho mọi người cúng dường, có đâu lại phạm giới sát sanh, uống rượu quá nặng như vậy. Ðó là những gương hạnh xấu các bạn nên lấy đó mà làm gương cho mình soi để tránh xa những hạng tu sĩ này. Họ không xứng đáng làm thầy của các bạn đâu.

Lấy giới luật mà xét các thiền sư thì biết ngay Thiền Ðông Ðộ chỉ là thiền đầu môi chót lưỡi tu hành chẳng có giải thoát gì cả, chỉ lừa đảo người bằng ngôn ngữ úp mở, khiến cho mọi người tưởng nó có cái gì đặc biệt, chứ kỳ thực chẳng có cái gì cả, đến khi chết ông nào cũng rên: Hừ! Hừ!!!! như thiền sư Pháp Loa.

Tóm lại, Bốn Thánh Ðịnh từ xưa đến nay chưa có ai nhập được chỉ vì các Tổ hiểu biết giới cấm mà không hiểu biết rõ giới kinh đức hạnh, nên không sống và tu tập giới đức, giới hạnh, giới hành. Vì thế, nên mới phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, v.v... Giới luật đã vi phạm thì thiền định không bao giờ nhập đúng chánh định được. Xin các bạn nên lưu ý.

Bốn Thánh Ðịnh không phải nhập khó khăn, mà khó khăn là vì giới luật các bạn không giữ gìn nghiêm túc. Có phải vậy không các bạn? Do giới luật không nghiêm chỉnh nên tất cả tu sĩ Phật giáo từ Ðông sang Tây tu mãi mà không nhập được Tứ Thánh Ðịnh thật là phí công vô ích.

Muốn nhập được Tứ Thánh Ðịnh thì ngay từ bây giờ các bạn hãy bắt đầu giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì chắc chắn điều ước nguyện nhập được Tứ Thánh Ðịnh sẽ không còn là giấc mơ.

6.- AN TRÚ SIÊU THOÁT SẮC GIỚI VÔ SẮC GIỚI

Ðiều ước nguyện thứ sáu cho thân tâm của mình, của các bạn được cảm nhận và sống an trú trong những trạng thái tịch tĩnh, nhờ đó thoát ra khỏi sắc giới và vô sắc giới, có nghĩa là tâm các bạn không còn dính mắc trong hai trạng thái ý thức và tưởng thức. Nếu giải thích như vậy thì chỉ có những người tu chứng mới hiểu ngay được. Nơi đây có hai cụm từ khó hiểu, đó là sắc giới và vô sắc giới.

Vậy sắc giới và vô sắc giới nghĩa là gì?

Sắc giới là cảnh giới có hình tướng như cuộc sống của các bạn hiện giờ.

Vô sắc giới là cảnh giới không hình tướng như giấc mộng, chiêm bao của các bạn. Trạng thái vô sắc giới không những chỉ là giấc mộng mà còn nhiều trạng thái khác nữa, như những trạng thái tưởng của đồng cốt, cơ bút, và những từ trường hình danh, sắc tướng còn lưu lại trong không gian mà những nhà ngoại cảm bắt gặp. Nhất là những người tu tập thiền ức chế tâm lạc vào thiền tưởng nên tưởng uẩn hoạt động, xuất hiện 18 loại hỷ tưởng, khiến cho người tu thiền ức chế tâm khi hết vọng tưởng liền bị rối loạn thần kinh đi đến chỗ điên khùng, mất trí.

Người tu hành đúng theo phương pháp của đức Phật dạy thì phải xả tâm ly dục ly ác pháp thì mới vượt ra khỏi sắc giới và vô sắc giới. Người nào không hiểu biết, xem thường giới luật tu tập ức chế tâm cho hết niệm khởi tức là ức chế sắc giới, do đó cảnh giới vô sắc giới hoạt động, vì thế thường hay bị chiêm bao, mộng mị. Người hay bị mộng mị, chiêm bao là người không vượt qua cảnh vô sắc giới.

Cho nên muốn tâm được tịch tĩnh, vượt thoát ra khỏi niệm khởi và chiêm bao, mộng mị thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Ngoài giới luật ra không còn có một pháp nào vượt thoát ra hai cảnh giới này. Các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới, thuộc vô sắc giới. Mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Tóm lại, đoạn kinh trên đây mang đầy đủ ý nghĩa của một người tu tập tìm cầu sự giải thoát chân thật tức là tâm phải bất động, tịch tĩnh trong cảnh sắc giới và vô sắc giới, nếu còn rơi vào một trong hai cảnh giới này thì giới luật chưa nghiêm chỉnh. Và như vậy các bạn hãy lưu ý và nghiên cứu lại giới luật xem coi còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật, để điều chỉnh ngay sự sai phạm ấy thì kết quả tu tập mới thực hiện đi sâu được.

7.- CHỨNG QUẢ DỰ LƯU

Ðiều ước nguyện thứ bảy cho mình diệt trừ ba kiết sử để chứng quả dự lưu, không còn bị đoạ lạc sáu nẻo luân hồi và chắc chắn hướng đến chánh pháp giác ngộ. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, ne áu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đoạ lạc, chắc chắn hướng đến chánh giác!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Muốn hiểu rõ đoạn kinh này thì các bạn phải hiểu rõ những cụm từ cần thiết như ba kiết sử và quả Dự lưu. Vậy BA KIẾT SỬ và QUẢ DỰ LƯU nghĩa là gì?

Ba kiết sử gồm có:

1/ Thân kiến kiết sử nghĩa là sợi dây chấp ngã trói chặt quá nặng, nếu ai đụng đến ngã mình là không chấp nhận, chống đối lại liền.

Ví dụ: Sự hiểu biết chấp thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta và còn cho trong thân này có Phật tánh, linh hồn, thần thức, tiểu ngã, v.v... Sự chấp ngã này gọi là thân kiến kiết sử. Sợi dây thân kiến kiết sử này rất khó bứt, nhưng ở đây đức Phật dạy chỉ giữ gìn giới luật nghiêm túc là thân kiến kiết sử sẽ được bứt sạch.

2/ Nghi kiết sử nghĩa là lòng nghi ngờ quá nặng như một sợi dây trói buộc, lúc nào cũng nghi ngờ người này như thế này, người kia như thế khác. Lòng nghi ngờấy chỉ có giữ gìn giới luật thì mới bứt sạch.

3/ Giới cấm thủ kiết sử nghĩa là chấp chặt vào những giới cấm phi lý như tu theo hạnh con bò, hạnh con chó, tu khổ hạnh như tu đứng ba năm, tu ngồi ba năm, ngồi thiền kiết già đau chân mà cứ ráng ngồi v.v.. Ðó là những giới cấm thủ kiết sử.

QUẢ DỰ LƯU nghĩa là kết quả sự tu tập được nhập vào dòng Thánh thường gọi là quả Tu Ðà Hoàn.

Lời dạy này rất rõ ràng chỉ cần diệt ba kiết sử là chứng quả Tu Ðà Hoàn. Vậy các bạn xét xem ba kiết sử này kiết sử nào khó diệt?

Nghi kiết sử và Giới cấm kiết sử thì không khó diệt, nhưng thân kiến kiết sử mới là khó. Cả một đời tu hành là diệt ngã, nếu diệt ngã xong là tu hành xong. Cho nên cuộc đời tu hành vốn là diệt ngã, nhưng muốn diệt ngã là hằng ngày phải tinh tấn siêng năng cần mẫn tu tập ngăn ác diệt ác pháp tức là ly dục ly ác pháp, nhưng ly dục ly ác pháp là các bạn đã nhập vào dòng Thánh.

Muốn ly dục ly ác pháp đều phải sống đúng giới luật. Cho nên, bài kinh dạy rất rõ ràng: “Diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu”. Quả Dự Lưu tức là quả Tu Ðà Hoàn tương ưng với trạng thái Sơ Thiền ly dục ly ác pháp.

Muốn chứng Quả Dự Lưu không có khó khăn không có mệt nhọc thì hằng ngày các bạn nên ở trên Tứ Niệm Xứ mà quét tâm, bền chí quét mãi sẽ thành công.

8.- CHỨNG NHẤT LAI

Ðiều ước nguyện thứ 8 cho mình diệt trừ ba kiết sử làm muội lược tham, sân, si chứng được NHẤT LAI, chỉ phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau.

Thưa các bạn! Ðiều lợi ích thứ tám không giống điều lợi ích thứ bảy vì đoạn kinh về ước nguyện thứ bảy dạy: “Diệt trừ ba kiết sử, chứng qua Dự lưu”. Còn đoạn kinh ước nguyện thứ tám thì Ðức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện:“Mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, làm muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhất lai, chỉ trở lại đời này một lần nữa để đoạn tận khổ đau!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Ở đoạn kinh ước nguyện thứ tám này có thêm làm muội lược tham, sân, si thì mới chứng quả Nhất Lai. Dù tu tập pháp nào trong 37 phẩm trợ đạo, nhưng phải nhớ giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì mới đạt được ước nguyện chứng Quả Nhất Lai. Quả Nhất Lai tức là Quả Tư Ðà Hàm. Quả Tư Ðà Hàm tương ưng với trạng thái Nhị Thiền. Vì chỉ có nhập được Nhị Thiền mới chứng Quả Tư Ðà Hàm. Cho nên, thiền định thì phải có quả của thiền định. Quả của thiền định là kết quả của thân tâm thanh tịnh từ chỗ ly hay diệt dục của ý thức hay tưởng thức.

9.- HÓA SANH CHỨNG ĐƯỢC NIẾT BÀN

Ðiều ước nguyện thứ chín cho mình trừ diệt năm hạ phần kiết sử được hoá sanh chứng được Niết Bàn ngay cảnh giới ấy, không còn trở lại thế gian này nữa.

Muốn chấm dứt tái sanh luân hồi, chứng vào Niết Bàn thì chỉ cần diệt năm hạ phần kiết sử. Muốn diệt năm hạ phần kiết sử thì phải giữ gìn giới luật nghiêm túc. Vậy năm hạ phần kiết sử là gì?

Năm hạ phần kiết sử gồm có:

1- Thân kiến kiết sử.

2- Nghi kiết sử.

3- Giới cấm thủ kiết sử.

4- Tham kiết sử.

5- Sân kiết sử.

Năm hạ phần kiết sử này các bạn đã hiểu nghĩa được ba kiết sử trên, còn tham kiết sử và sân kiết sử các bạn chưa hiểu. Vậy tham kiết sử và sân kiết sử nghĩa là gì?

Tham kiết sử nghĩa là lòng tham muốn đang bừng bốc cháy trong tâm các bạn. Còn sân kiết sử lòng tức giận đang ngự trị trong tâm. Năm hạ phần kiết sử này là năm ác pháp, người tu sĩ Phật giáo phải ngăn và diệt không được để duy trì trong tâm dù là một phút, một giây. Dù các bạn đang tu hành 37 phẩm trợ đạo, nhưng muốn diệt trừ năm hạ phần kiết sử, thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mới diệt được nó, bằng không giữ gìn giới luật thì các bạn khó mà diệt được năm hạ phần kiết sử này. Vậy các bạn hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Này cac Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng trừ diệt năm hạ phần kiết sử, ta được hoá sanh, chứng được Niết Bàn ngay cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Lời dạy trên đây các bạn nghĩ như thế nào? Trừ diệt năm hạ phần kiết sử không phải dễ đâu các bạn ạ! Phải tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Pháp Thân Hành Niệm thì mới mong diệt được nó.

10.- CHỨNG ĐƯỢC CÁC LOẠI THẦN THÔNG

Ðiều ước nguyện thứ mười là cho mình chứng các loại thần thông: Một thân các bạn hiện ra nhiều thân, nhiều thân các bạn hiện ra một thân; các bạn hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi nhưđi ngang hư không; các bạn độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; các bạn đi trên nước không chìm như trên đất liền; các bạn ngồi kiết già đi trên hư không như chim; với bàn tay các bạn chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại oai thần như vậy; các bạn có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm Thiên.

Ðây là những loại thần thông mà người tu sĩ nào tâm vô lậu đều thực hiện được cả, nhưng Phật giáo Nguyên Thuỷ xem nó là những trò ảo thuật lừa đảo mọi người. Còn Phật Giáo Ðại Thừa xem những thần thông này rất quan trọng, nên kinh sách Ðại Thừa lúc nào đức Phật bắt đầu thuyết pháp đều phóng hào quang và hiện Phật hoá thân hoặc có khi đức Phật xuống Long Cung giảng đạo hoặc bay lên Trời Ðầu Xuất thuyết pháp.

Mục đích trong đoạn kinh này dạy các bạn ước nguyện có những thần thông thì giới luật phải sống nghiêm chỉnh, chứ không phải đức Phật nêu ra thần thông để cám dỗ các bạn. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không; ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như chim; với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Tóm lại, tu hành muốn có thần thông thì các bạn hãy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Giới luật không nghiêm chỉnh thì sự tu hành của các bạn là con số không, chẳng bao giờ ước muốn một điều gì được huống là thần thông. Các bạn có biết không?

Nếu giới luật không nghiêm chỉnh các bạn tu tập có thần thông cũng chỉ là thần thông tưởng hay là những mánh khoé gian xảo như các nhà ảo thuật để lừa đảo mọi người. Ðó là tu tập không giới luật, thường chạy theo tâm danh lợi mà thôi.

Kính thưa các bạn! Người tu sĩ Phật giáo không chọn thần thông mà chỉ chọn lấy sự giải thoát làm chủ sự sống chết của mình. Cho nên, giới luật là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện con đường làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người.

Còn thần thông không quan trọng trong vấn đề làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Nhưng khi tâm thanh tịnh, chúng ta không muốn có thần thông nhưng thần thông vẫn có trong ta. Chúng ta chỉ xem chúng như một trò ảo thuật lừa đảo người. Cho nên, người nào tu theo Phật giáo mà thị hiện thần thông là không phải đệ tử Phật.

Có câu chuyện một hôm đức Phật và Tăng đoàn đi đến bờ sông, trời đã tối không còn ghe xuồng đưa sang sông, nên tất cả Tăng đoàn đều nghỉ lại trên bờ sông. Ðêm hôm đó nước sông dâng tràn làm cho tất cả Tăng đoàn không ngủ được. Ðức Phật sai một vị Tỳ kheo ông hãy ra cản nước sông lại để chúng Tỳ kheo ngơi nghỉ mai sẽ lên đường. Vâng lệnh Phật vị Tỳ kheo dùng thần thông ngăn nước lại. Sáng hôm sau người ta không thấy vị Tỳ kheo ấy nữa.

Thưa các bạn! Tu sĩ Phật giáo là như vậy, nếu đã lỡ thị hiện thần thông thì liền ẩn bóng, không để lộ tung tích của mình cho một ai biết được nữa.

Chúng tôi nguyện đời tu hành của mình cũng vậy, khi chúng sanh còn duyên thì hết lòng dạy đạo, còn hết duyên thì ẩn bóng và âm thầm thị tịch, không lưu lại một dấu vết gì để lừa gạt đời. Danh làm chi, lợi làm chi? Ðời người còn có gì đâu, chỉ là một tuồng kịch trên sân khấu nhân quả. Những người còn vô minh không thấu suốt nhân quả mới đắm chìm trong danh lợi mà thôi. Mọi người cứ nghĩ rằng: người tu hành theo Phật giáo có thần thông là tu chứng đạo, điều này không chắc các bạn ạ! Các bạn đã lầm, mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thần thông các bạn.

11.- CÓ THIÊN NHĨ THANH TỊNH SIÊU NHIÊN

Ðiều ước nguyện thứ mười một cho mình tu tập có thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân. Nhờ thần thông này các bạn có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người ở xa hay ở gần. Muốn rõ được sự tu tập điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người ở xa hay ở gần!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Ðọc đoạn kinh này các bạn muốn hiểu rõ nghĩa của nó thì phải hiểu các cụm từ: thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, chư Thiên, loài Người. Vậy thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, chư Thiên, loài Người nghĩa là gì?

- Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghĩa là lỗ tai bất động trước những âm thanh khả lạc, khả hỷ, khả khổ, v.v... của người phi thường.

- Tiếng của chư Thiên nghĩa là tiếng nói của tưởng uẩn. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật đã xác định 33 cõi Trời là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri).

- Tiếng nói của loài Người nghĩa là tiếng nói của sắc uẩn. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật cũng đã xác định cõi Người là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri). Bởi vì cõi Người cõi duyên hợp tạo thành không có một vật gì thường hằng bất biến luôn luôn thay đổi từng giây, từng phút.

Ðoạn kinh trên đây là để chỉ sự ước nguyện ngoài tầm tay của loài người, nhưng nhờ sống đúng giới luật mà các bạn có thể nắm được trong tay những việc làm siêu việt không thể nghĩ bàn.

Nghe được tiếng nói của thế giới tưởng tri và cảm nhận được ý nghĩa tiếng nói của loài người trên hành tinh này dù ở xa hay ở gần. Ðây là một năng lực phi phàm mà chỉ có người tu hành đúng pháp tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn thanh tịnh mới có thể thực hiện được. Muốn được tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chỉ có giới luật, ngoài giới luật không còn có pháp môn nào khác nữa.

12.- TRÍ TUỆ TAM MINH

Ðiều ước nguyện thứ mười hai cho mình biết được tâm niệm của mình và của tất cả mọi người, khi tâm có tham, ta biết tâm có tham; khi tâm không tham ta biết tâm không tham; khi tâm có sân ta biết tâm có sân; khi tâm không sân ta biết tâm không sân; khi tâm có si ta biết tâm có si; khi tâm không si ta biết tâm không si; khi tâm chuyên chú ta biết tâm chuyên chú; khi tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn; khi tâm đại hành ta biết tâm đại hành; khi tâm không đại hành ta biết tâm không đại hành; khi tâm chưa vô thượng ta biết tâm chưa vô thượng; khi tâm vô thượng ta biết tâm vô thượng; khi tâm thiền định ta biết tâm thiền định; khi tâm không thiền định ta biết tâm không thiền định; khi tâm giải thoát ta biết tâm giải thoát.

Ðây là sự hiểu biết thuộc về trí tuệ Tam Minh, vừa hiểu rõ tâm mình mà cũng vừa hiểu rõ tâm của những người khác. Muốn có sự hiểu biết được như vậy thì các bạn phải giữ gìn giới luật nghiêm túc.

Ðúng vậy giới luật là một pháp môn để thực hiện trí tuệ Tam Minh. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, neu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham ta biết tâm có tham. Tâm không tham ta biết tâm không tham. Tâm có sân ta biết có sân. Tâm không sân ta biết tâm không sân. Tâm có si ta biết tâm có si. Tâm không si ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành ta biệt tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định ta biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định ta biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát ta biết tâm không giải thoát!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Muốn được trí tuệ Tam Minh tỉnh thức như vậy thì giới luật các bạn phải giữ gìn nghiêm chỉnh, đừng cho vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, sống một đời sống Phạm hạnh như Phật, như chúng Thánh Tăng trong thời đức Phật còn tại thế thì các bạn mới thực hiện được trí tuệ Tam Minh. Có sống như vậy các bạn mới thấy rõ tâm mình và tâm chúng sanh một cách dễ dàng không có khó khăn. Tại vì tâm các bạn trong vắt như nước hồ thu, nhìn thấy tận đáy, không có vật gì mà không thấy được.

13.- BIẾT NHIỀU ĐỜI SỐNG QUÁ KHỨ CỦA MÌNH

Ðiều ước nguyện thứ mười ba cho tâm mình biết đến nhiều đời quá khứ của mình như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp, chúng ta lại còn biết sinh tại chỗ kia, chỗ này, lại còn có tên như thế này, như thế khác, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, sau khi chết tại chỗ kia là được sanh chỗ nọ. Tại chỗấy các bạn có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, sau khi chết tại chỗ nọ, chúng ta được sinh ở chỗ đấy. Ðây là Túc Mạng Minh, một trí tuệ thấy biết như thật trong nhiều đời quá khứ. Nếu giới luật không nghiêm chỉnh thì sự tu hành của các bạn cũng chẳng bao giờ có trí tuệ này. Một trí tuệ không có không gian và thời gian; một trí tuệ tuyệt vời do giữ gìn giới luật mà có. Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo , nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhớ đến các đời sống quá khứ như: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp nhiều thành kiếp, nhiều hoại và nhiều thành kiếp ta nhớ rằng: Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sa nh ra ở đây!”. Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”. Những lời dạy trên đây là một sự xác định chắc chắn của đức Phật. Ngoài giới luật ra, dù các bạn có tu tập pháp môn nào thì cũng chẳng bao giờ có Túc Mạng Minh cả. Xem thế các bạn mới biết con đường tu tập theo Phật giáo chỉ có giới luật là pháp môn hàng đầu và nó là một nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả vững chắc cho những ai quyết tâm tìm tu giải thoát theo Phật giáo.

Kính thưa các bạn! Theo chúng tôi nghĩ chỉ có Phật giáo mới thật sự có trí tuệ Tam Minh. Vì sao?

Vì Phật giáo xây dựng trí tuệ Tam Minh trên nền tảng đức hạnh đạo đức nhân bản – nhân quả.

14.- THẤY SỰ SỐNG CHẾT CỦA CHÚNG SANH

Ðiều ước nguyện thứ mười bốn cho mình có được thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng: chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Còn những chúng sanh nào làm những ác hạnh về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo ác nghiệp tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú đoạ xứ, địa ngục. Còn các tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời nói và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Muốn có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân như vậy thì chỉ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Ngoài giới luật ra thì không có pháp nào tu tập có Tam Minh. Vậy các bạn hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻcao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ !”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Như vậy các bạn có nhận thấy giới luật của Phật là một pháp môn rất quan trọng nhất trong tất cả các pháp môn và trong vấn đề tu tập giải thoát của Phật giáo không?

Ðọc bài kinh này xong không còn ai dám khinh thường giới luật; cũng không còn ai dám bảo bỏ những giới nhỏ nhặt; cũng không còn ai dám bảo rằng giới luật không hợp thời. Những cái sai của Phật giáo Ðại Thừa là phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, v.v... Xem oai nghi tế hạnh chẳng ra gì, cho nên Phạm hạnh của Phật giáo đã bị chôn vùi dưới lớp văn minh dục lạc của thời đại khoa học kỹ nghệ hoá xã hội.

Ðúng vậy giới luật là pháp môn hàng đầu vô lậu của Phật giáo, nếu ai không học và tu tập giới luật thì đừng mong làm chủ sanh, già, bệnh, chết, đừng mong nhập định và thực hiện Tam Minh.

15.- DIỆT TRỪ CÁC LẬU HOẶC

Ðiều ước nguyện thứ mười lăm cho mình tu tập diệt trừ các lậu hoặc tự tri tự chứng, các bạn chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc, đây là sự ước nguyện của người tu. Ðây là giai đoạn rốt ráo cuối cùng của con đường tu tập Phật giáo. Nó giải thoát hoàn toàn ra khỏi nhà sanh tử. Chấm dứt luân hồi.

Thưa các bạn! Quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát cũng phải nhờ đến giới luật. Vậy giới luật là một pháp môn quan trọng đệ nhất như đã nói ở trên. Sự ước nguyện được giải thoát hoàn toàn này không ngoài giới luật mà có được. Cho nên, chúng ta hãy cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đừng để vi phạm, thà chết trong trong giới luật, chứ sống mà phạm giới còn mặt mũi nào nhìn ngó Phật. Phải không các bạn?

Ðức Phật lại nhắc nhở chúng ta một lần nữa: “Này các Tỳ kheo , nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự tri tự chứng, ta chứng đạt an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát tuệ giải thoát, không co lậu hoặc!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Giới luật là một pháp môn quan trọng như vậy, nhưng tại sao Giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề lại quá ít ỏi chỉ có 250 giới cấm nam và 384 giới cấm nữ. Xem thế mới biết thời nay tu sĩ xem thường giới luật, chỉ biết những tông phái ảo tưởng, mê tín như: Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Ðộ Tông, Pháp Hoa Tông, v.v... Hiện giờ tu sĩ học giới chỉ học giới cho biết, chứ không phải học để tu tập giải thoát, để tâm được vô lậu, để sống một đời sống Phạm hạnh. Thật là quá uổng.

B.- MUỐN THÀNH TỰU ƯỚC CHO NGƯỜI

1.- ƯỚC NGUYỆN CHO ĐÀN NA THÍ CHỦ

Người Phật tử tu theo Phật giáo không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ đều có thể ước nguyện cho người khác được toại nguyện, nhưng đều phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Cho nên muốn ước nguyện cho người giúp đỡ mình có cơm ăn, áo mặc, nhà ở đầy đủ để tu hành được lợi ích lớn, được đầy đủ phước báu, như lời đức Phật dạy dưới đây: “Này các Tỳ Kheo, nếu có Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nay hưởng thụ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng các hành động của những vị tạo ra các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Theo lời dạy trên đây người tu sĩ phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì mới ước nguyện cho người đàn na thí chủ được nhiều lợi lạc lớn.

Khi giới luật nghiêm chỉnh thì sự ước nguyện mới được viên mãn, còn giới luật không nghiêm chỉnh mà nhận lãnh của đàn na thí chủ thì không bao giờ ước nguyện cho ai được mà còn mang nợ cơm ăn, áo mặc của đàn na thí chủ và kiếp sau phải làm tôi tớ, người hầu kẻ hạ cho người khác, v.v…

Theo như lời dạy trên đây các bạn nên hiểu không riêng người tu sĩ và cư sĩ Phật giáo mà bất cứ một người nào khác có tôn giáo hay không tôn giáo hoặc ở giai cấp nào, nếu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không những điều ước nguyện cho mình mà còn ước nguyện cho những người khác đều được như ý.

Như các bạn đã thấy rõ điều ước nguyện này đức Phật dạy cho người tu sĩ khi nhận sự cúng dường của người khác thì phải ước nguyện cho người cúng dường nhiều lợi ích lớn, có vậy mới xứng đáng nhận của cúng dường. Người tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là ruộng phước để mọi người cúng dường, mới xứng đáng là người khất sĩ đệ tử của đức Phật.

Chúng ta thấy rất rõ, mỗi điều ước nguyện đều lấy giới luật Thánh hạnh trên đường giải thoát làm căn bản, nếu không giới luật thì không thể nào đi trên đường giải thoát và cũng không thể nào xứng đáng làm người tu sĩ chân chánh của Phật giáo.

2.- ƯỚC NGUYỆN CHO NGƯỜI THÂN KHI LÂM CHUNG

Muốn ước nguyện cho những người thân của mình được bình an, mạnh khoẻ, sống an lạc, hạnh phúc, ít bệnh, ít tật, tai qua, nạn khỏi, khi lâm chung với tâm bình tĩnh, hoan hỉ không có mê muội, không có trăn trở, không có đau nhức, lúc nào tâm cũng yên vui, thanh thản, an lạc và vô sựthì giới luật phải giữ gìn nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, đúng theo như lời đức Phật đã dạy.

Kinh Ước Nguyện dạy nếu muốn đạt được kết quả của những sự ước nguyện thì nên theo lời đức Phật dạy dưới đây: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung nghĩ (đến ta) với tâm hoan hỉ, (và nhờ vậy) được quả báo lớn, lợi ích lớn!”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trụ xứ không tịch”.

Kính thưa các bạn! Lời dạy trên đây rất rõ ràng, muốn ước nguyện một điều gì cho những người thân của mình thì các bạn phải thành tựu viên mãn giới luật. Bởi vì các bạn có thành tựu viên mãn giới luật thì công đức ấy rất lớn. Lớn không thể lấy một vật gì trong thế gian mà lường được. Cho nên nói công đức rất lớn là nói đến thiện pháp, nhưng ở đây các bạn phải phân biệt thiện pháp rõ ràng đừng hiểu thiện pháp hữu lậu là giới luật là sai. Giới luật là thiện pháp vô lậu, vì vô lậu mới có lợi ích rất lớn. Các bạn có hiểu chưa? Các bạn có nghe lời dạy thiện pháp này bao giờ chưa?

Ðức Phật đã từng dạy: “TAM VÔ LẬU HỌC” là Giới vô lậu, Ðịnh vô lậu, Tuệ vô lậu. Cho nên thiện pháp vô lậu của giới luật sẽ chuyển hoá tất cả ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác. Chuyển hoá ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác, nhưng những người thân của các bạn không những phải biết hướng tâm đến những người giữ giới luật thanh tịnh mà tự bản thân phải giữ gìn giới thanh tịnh. Vì thế hai người mới tương ưng nhau với tâm thanh tịnh trong giới vô lậu thiện pháp. Trạng thái giới luật vô lậu thiện pháp là trạng thái tâm thanh tịnh tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Cho nên muốn ước nguyện một điều gì hoặc người thân của các bạn trước khi chết sợ tâm rối loạn, mê muội, không được sáng suốt tỉnh táo thì phải giữ gìn tâm bất động tức là giữ gìn tâm thanh thản an lạc và vô sự rồi hướng tâm vềngười giữ giới thanh tịnh và hai trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự tương ưng với nhau thì được lợi ích rất lớn. Đó là sự hoan hỉ thanh thản, an lạc và vô sự thành một nội lực ly tham đoạn ác pháp. Trong trạng thái ấy không còn nghiệp ác nào tác động vào thân tâm họ được. Tại sao vậy? Kính thưa các bạn! Khi các bạn giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì các bạn biết rất rõ về thân tâm của các bạn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Và lúc bấy giờ các bạn đã xứng đáng làm ruộng phước cho mọi người. Vì thế, các bạn muốn ước nguyện cho một người nào đó thì người đó phải hướng tâm về các bạn.

Cũng như lúc lâm chung, trước khi chết chỉ cần nhớ nghĩ đến các bạn thì tâm người đó được thanh thản, an lạc và vô sự. Ðức Phật và chúng Thánh Tăng giới luật đều nghiêm chỉnh, cuộc đời của các Ngài tâm vô lậu hoàn toàn. Các Ngài đều chứng Thánh quả A La Hán nên tâm niệm của các Ngài luôn ước nguyện cho mọi người đều được an vui, hạnh phúc, nhưng mọi người không hạnh phúc là vì mọi người không hướng tâm về các Ngài mà không giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, nên dù các Ngài có thương xót chúng sanh, cũng không làm sao cứu giúp chúng sanh được. Cho nên đoạn kinh này dạy các bạn phải hướng về các Ngài thì có lợi ích rất lớn.

Vậy hướng về các Ngài như thế nào? Hướng về với các Ngài là hướng về giới luật. Hướng về giới luật là chúng ta phải nghiêm trì Thọ Bát Quan Trai Giới, chỉ có giới luật thì mọi người mới gặp nhau trên một điểm tương ưng “Thanh thản, an lạc và vô sự”. Vì thế trong kinh Ước Nguyện dạy: “Trước khi mệnh chung thì phải nghĩ đến Ta” tức là nghĩ đến giới luật, giới luật là tâm vô lậu, tâm vô lậu là tâm bất động, tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, khi Ta nhập diệt hãy lấy giới làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình” nhờ vậy tâm hoan hỉ, nhờ tâm hoan hỉ mà được quả báo lớn, lợi ích lớn”.

Giới luật là chỗ nương tựa cho mọi người, giới luật là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, giới luật đem đến cho con người lợi ích như vậy, khi sống cũng như lúc chết.

Vậy các bạn hãy theo lời dạy này sống một đời sống Phạm hạnh để mang lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.

Trên đây mười bảy điều ước nguyện từ những điều ước nguyện trong cuộc sống thế gian hằng ngày (cho mình, ước nguyện 1, 2; cho người, 2 ước nguyện cho người), đến những điều ước nguyện vượt ra khỏi cuộc sống thế gian tức là cuộc sống xuất thế gian.

Theo đúng nghĩa của bài kinh này thì mọi người nên đứng trên lập trường nhân quả mà ước nguyện thì mọi việc sẽ thành tựu như lòng ước nguyện của mình. Chính đứng trên lập trường nhân quả mà ước nguyện tức là lấy thiện pháp chuyển ác pháp thành ra cuộc sống giải thoát.

Ðúng vậy đạo Phật lấy thiện pháp chuyển ác pháp biến cuộc sống thế gian thành Thiên Ðàng Cực Lạc. Vì thế, đạo Phật sống không mê tín, không ảo tưởng, không cầu tha lực. Phải tự lực, phải tự thắp đuốc lên mà đi. Có đúng như vậy không các bạn? Ở đây có nghĩa là lấy giới luật làm sự sống của mình. Lấy giới luật làm sự sống tức là sống đời Phạm hạnh. Vì thế đức Phật đã dạy “Phạm hạnh đã thành”. Phạm hạnh đã thành là giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, nên sự tu tập đã viên mãn, chấm dứt tái sanh luân hồi nên kinh dạy: “Những gì nên làm đã làm sau đời này sẽ không có đời sống nào khác nữa”.

Ðọc bài kinh này chúng ta mới nhận ra giá trị giới luật là đệ nhất pháp trong Phật giáo. Thế mà người tu sĩ lại xem thường giới luật thì sự tu tập của họ sẽ đi về đâu và về đâu???

Chúng tôi biên soạn bài kinh này với mục đích chỉnh đốn lại giới luật của Phật giáo, khiến cho người tu sĩ Phật giáo ghi nhớ mãi trong tâm giới luật là pháp môn hàng đầu trong tất cả các pháp ly dục ly ác pháp. Xin các bạn nên lưu ý về điều này, nó chính là cơ bản của sự giải thoát của Phật giáo.

Tóm lại, mười bảy điều lợi ích lớn trên đây đều do giới luật mà đạt thành sự giải thoát chân chánh. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật đã nhắc nhở. Xin các bạn lưu ý: “Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện mong rằng ta đạt được một điều gì đó thì hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới”.