JGLOBAL_PRINT

Thể Hiện Quán Thập Thiện

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích Hành Thập Thiện. tr.25-30)

Nguồn: Sách: Hành Thập Thiện

Kinh A-Hàm dạy: Bệnh sắc dục dùng bất tịnh trị. Thực vậy, đứng trước sắc, khi tâm tham dục khởi, ta phải dùng quán bất tịnh để đối trị. Nghĩa là phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất tịnh, dù cho chúng có những sắc tướng khêu gợi khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên, dễ ô nhiễm, nhưng chúng đều sinh ra mùi hôi thúi ghê tởm.

Muốn làm chủ được tâm tham sắc dục không có pháp môn nào để chế ngự hơn là kinh nghiệm bản thân (ghê tởm sắc dục). Phải trực tiếp mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng bất tịnh, những ghê tởm uế trược, hôi thúi và còn nhiều bất tịnh khác nữa của đối tượng đang phơi bày trước mắt ta. Nhờ có trực tiếp như vậy nên khi vừa thấy sắc là ta liên tưởng mà thấy ghê tởm ngay. Xét về thân của mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm nhớt, máu, mũ, thảy đều bất tịnh; xét về phần tinh thần là tâm của mình, cũng dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng bất tịnh của vạn hữu; vì thế chúng ta càng khởi tâm tham dục lạc thì càng thọ vô lượng đau khổ. Muốn chế ngự và hàng phục tâm sắc dục, điều tối quan trọng là phải thông suốt rằng: "Ở đâu có khoái lạc, ở đó có khổ đau". Sự đau khổ nhắc cho chúng ta thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.

Người mang bệnh sân hận nặng muốn đối trị phải dùng từ tâm, nghĩa là phải biết đem lòng từ bi tha thứ và thương xót những kẻ lầm lỗi, những người hung ác, gian tham, tật đố, v.v... Tại sao? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không được ánh sáng chân lý soi chiếu vào tâm họ nên đời sống họ luôn luôn bám chặt vào vật chất, chịu nhiều thứ đau khổ.

Muốn trị bệnh ngu si mà không chịu học Phật pháp thì không làm sao có trí tuệ giải thoát, không thể làm chủ được tư tưởng của mình và thấu suốt được vạn hữu. Vả lại người ngu si không thể nào biết áp dụng phương tiện của Đức Phật dạy. Kẻ ngu si không đủ trí hiểu biết, họ luôn luôn sống một đời đầy đau khổ sân hận, lúc nào cũng nô lệ cho vật chất.

Người tu Thập Thiện phải thể hiện đúng 10 điều lành của Phật dạy và còn phải nhìn thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.

Là người hành Thập Thiện, chúng ta phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh kiến và luôn thực hiện lòng từ bi đối với mọi người. Nhờ vậy lòng đau khổ, sự giận hờn mới chấm dứt. Ý thức được sự ích kỷ, nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm hồn; chỉ có lòng từ bi mới cứu chúng ta sống.

Người hành Thập Thiện phải biết dùng pháp môn quán của Đức Phật đã giảng dạy suốt con đường A-Hàm tức Nhị Thừa. Pháp môn này dùng để đối trị tất cả tư tưởng phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành chớ không do một đấng vạn năng nào biến hóa ra.

Xét cho cùng tột về cuộc sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người không và vạn hữu đều không. Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Đế Hoàn Nhơn! Như vậy tất cả hiện tượng đều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ”. Ở đây chúng ta nghe Đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không thì hóa ra lời dạy kia phi lý và mâu thuẫn hay sao?

Muốn rõ lý sắc không, chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ muốn dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại tạo nên một cái nhà như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa, đòn dông. Nếu lấy một cây cột mà bảo đó là cái nhà thì không đúng.

Trong kinh Malinda có câu chuyện đối đáp giữa vua Malinda và tỳ kheo Nagasena như sau:

- Thưa Đại Đức! Quý danh Ngài là gì?

- Tâu bệ hạ! Người ta gọi tôi là Nagasena, nhưng không có thật tôi.

Nhà vua hỏi:

- Nếu không có thật ngã thì ai cúng dường, ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực hành giáo lý và ai tu chứng Niết Bàn? Vậy cái gì mới thực là Nagasena? Hay tóc trên đầu là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ! Không phải tóc là tôi.

- Lông nơi thân là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Vậy thì sự cảm xúc, sự nhận biết vui buồn là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Vậy thì ngũ uẩn, tứ đại là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Như thế ngoài thân còn cái gì là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không có cái thân nào khác ngoài Nagasena.

Vua Malinda hỏi xong, Nagasena hỏi lại:

- Tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?

- Bạch Đại Đức! Trẫm đến đây bằng xe.

.- Vậy bệ hạ có thể giải thích xe là gì chăng? Có phải gọng là xe chăng?

- Không phải thế.

- Cái trục lăn có phải là xe chăng?

- Bạch Đại Đức không.

- Hai bánh có phải là xe chăng?

- Cũng không.

- Vậy nhà vua nói các thứ đó có cái gì là xe không?

- Cũng không.

Câu chuyện này cho chúng ta thấy rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có bản ngã. Sinh mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức, hay nói một cách khác hơn: con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Đời sống vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là ngũ uẩn, gồm có thọ, tưởng, hành, thức uẩn.

Đứng về phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn là giả hợp; còn về phương diện thời gian thì vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng; cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mệnh chúng sanh có, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt hay chết.

Vạn hữu mượn danh mà đặt tên, chớ không có thực tên, cũng như cái chúng ta thấy gọi là xe thì nó đâu có một bản thể chính yếu. Không có các bộ phận như gọng xe, bánh xe, trục xe, căm xe, v.v... thì xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từ để chỉ sự kết hợp của các bộ phận ấy mà thôi.

Tôn giả Tu Bồ Đề còn giảng những ví dụ giải thích cho chúng ta thấy vạn hữu do duyên hợp tạo nên, khi hết duyên thì tan, nó sẽ hoại diệt. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàn lá, một cơn gió to, cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa nẩy nụ làm quả, một trận mưa đá làm hư hoại tất cả. Gió to, mưa đá, đó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây đang héo úa gặp mưa các cành liền đâm chồi nẩy tược. Đó là duyên hợp.

Khéo quán xét, chúng ta đào sâu vào tự thể của vạn hữu, mới thấy rằng bệnh tật không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế bệnh tật không phải do thân hay do ý sanh, mà chính là duyên hợp tạo nên. Các pháp do duyên hợp mà có. Duyên hợp là động, động thì các pháp sanh.

Pháp pháp tự diệt, nghĩa là hết duyên hợp thì các pháp tự hoại diệt, tự trở về bản thể của nó.

Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Đế Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt. Ta trước kia mắc bệnh đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ được, không còn bệnh khổ".

Lời dạy của Tôn giả Tu Bồ Đề, chúng ta nhận thức như thế nào? Có phải chăng khi suy tư quán xét liền thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay một duyên cớ gì mà ông Tu Bồ Đề bảo bệnh ông đã hết?

Khi dùng pháp Quán để thấu suốt cội nguồn của bệnh tật mới rõ được rằng nguyên nhân tạo tác của bệnh tật này là do duyên hợp nhiều đời, kể luôn cả trong đời hiện tại. Nhờ thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại, sợ sệt bệnh tật, mà nhìn thẳng vào bệnh tật với lòng không chút sợ hãi lo lắng vì biết rằng duyên hợp đủ thì bệnh tật thành. Khổ đau, vui buồn, thương ghét, giận hờn, cũng vậy... Hết duyên tất cả phiền lụy đều tan hết.

Thấu suốt được lý duyên hợp duyên tan này, hành giả phải chấp nhận bệnh tật, hoặc tai nạn. Không bao giờ sợ hãi và tìm cách trốn tránh. Lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp, và luôn luôn tạo thiện nghiệp. Do lòng an vui chấp nhận các nghiệp khổ mà tinh thần dũng mãnh, can đảm chịu đựng những thử thách của nghiệp khổ, để rồi vượt qua, nghiệp khổ dần dần tan biến.

Nói đến duyên hợp, duyên tan mà không nói đến nhân quả là một điều thiếu sót quá lớn. Nhơn quả là do nghiệp lành, nghiệp ác mà có. Muốn đối trị quả khổ thì phải thấu lý nhơn quả, tức là biết rõ quả thiện ác đang chủ động tác động vào đời sống con người, khiến cho con người bị cực khổ thất điên bát đảo. Vì vậy chúng ta phải luôn luôn hành Thập Thiện, cố gắng gieo nhân lành. Khi nhân lành đầy đủ thì sự phiền não đau khổ sẽ chấm dứt.

Muốn cứu nguy bệnh tật của thân, mưu tìm chơn hạnh phúc cho gia đình thì phải hành Thập Thiện. Hành Thập Thiện là chuyển từ nghiệp ác thành nghiệp thiện, chuyển điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta được thuận duyên hoàn toàn. Nhờ đó mà cuộc hành trình về xứ Phật không còn trở ngại nữa.

Hành Thập Thiện mà thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được. Muốn có trí tuệ chúng ta phải học Phật pháp. Nhờ học Phật pháp trí tuệ mới sáng suốt, chánh kiến giải thoát của Phật mới thấm nhuần. Nhờ đó tâm hồn xuất sanh lòng từ bi. Nhờ có lòng từ bi chúng ta mới dễ nhẫn nhục. Với sự nhẫn nhục, chúng ta mới thực hành Thập Thiện dễ dàng. Chỉ có hành Thập Thiện, quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui hạnh phúc.

Tóm lại, con người muốn thoát khỏi bệnh tật khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương tiện hay pháp môn nào mau chóng bằng pháp môn Hành Thập Thiện.

Với luật nhân quả, dù thuốc hay thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, cho dù người đó là bậc vua chúa hay các y-sư giỏi nhất cũng không thoát khỏi bệnh tật. Đó là qui luật sanh tử.

Thế nên học Phật pháp mà biết khôn khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì thân bệnh sẽ không còn nữa và tâm thường được an vui.

Chúng ta hãy nghe bài kệ của Tôn giả Tu Bồ Đề để gắng công tu tập Thập Thiện:

Hãy nói như lời này

Căn bản thấy đầy đủ

Người trí được an ổn

Nghe Pháp dứt các bệnh
Kinh Tăng Nhất A-Hàm

Chúc quý vị tu tập thành công để luôn luôn sống an vui hạnh phúc.

Trưởng lão Thích Thông Lạc,

Tu viện Chơn Như.

***