
Mục Liên Thanh Đề
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.6, TG. 2011, tr.165-180)
Nguồn: Sách: Đường Về Xứ Phật - Tập 6
Hỏi: Kính thưa Thầy! Câu chuyện Mục Liên, Thanh Ðề có phải là sự báo hiếu của Ðạo Phật hay không? Báo hiếu như vậy có đúng hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Ðáp: Kinh Vu Lan Bồn là kinh sách phát triển của Ðại Thừa, xây dựng đạo lý của mình trên hình thức cứu độ, kinh khéo léo dùng tập thể cứu độ để đánh lừa người khác, mạo nhận là Phật dạy để không ai truy tìm sự lừa đảo này được.
Như chúng ta đã biết, đức Phật đã từng dạy chúng ta: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”. Giáo pháp của Ngài được xây dựng trên nền tảng “Ðạo đức nhân quả”, thì không có lý nào đức Phật lại dạy một điều phi đạo đức, phi nhân quả như vậy. Chúng ta phải xem xét lại coi những loại kinh sách phát triển này, chứ đừng vội tin.
Ðạo đức nhân quả của Phật giáo là một thứ đạo đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với một trí tuệ vô hạn, thấu suốt được mỗi hành động của con người làm thiện hay làm ác. Vì Phật Thich Ca xây dựng tôn giáo của mình trên một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng cho mọi người như vậy, nên trên đầu Ngài chẳng có ai là Thầy của mình, chẳng có ai cứu độ cho mình được, chỉ có sức tự lực và trí tuệ của mình mới cứu mình thoát ra cảnh đau khổ của kiếp làm người đang bị luân lưu trong vòng nhân quả luân hồi. Ngài đã tự cứu mình bằng những giáo pháp mà Ngài tự tìm ra được. Giáo pháp đó là một thứ giáo pháp rất thực tế và cụ thể, mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng tâm niệm ác và sự đau khổ của con người trong cuộc sống để vượt thoát ra khỏi. Một giáo pháp không có hình ảnh, lý và sự mơ hồ, trừu tượng, không có sự cầu khẩn, van xin, cứu độ; không có sự cúng bái, tụng, niệm và chú thuật, v.v...
Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không có linh hồn người chết. Không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và cũng không có ma, quỷ, v.v... Một giáo pháp chỉ dạy cho chúng ta, những gì cần dứt bỏ thì phải dứt bỏ, những gì cần tu tập thì phải tu tập, những gì cần trau dồi thì phải trau dồi và những gì cần thông hiểu thì phải thông hiểu.
Người nghiên cứu và có thực hành giáo pháp của đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa đảo bằng những pháp tà giáo, ngoại đạo. Chỉ có những người chưa từng nghe đến giáo pháp của đức Phật thì dễ bị kẻ khác mạo nhận pháp môn tà giáo là của Phật. Vì giáo pháp của đạo Phật không có một giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp của Phật là giáo pháp “xả, ly”, với pháp hướng tâm “Như lý tác ý” tuyệt vời, với mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ. Giáo pháp của Phật chỉ có tự lực cứu mình, còn giáo pháp của ngoại đạo thì nhờ đến tha lực cứu mình. Do thế, ta nhận ra giáo pháp của Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực.
Vì thế, câu chuyện Mục Kiền Liên và Bà Thanh Ðề, cho ta thấy rõ đó là giáo pháp của Ngoại đạo đã lồng trong giáo pháp của đạo Phật, mượn danh đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của mình mà không ai nghi ngờ. Ðó là cái khéo léo của Ðại Thừa Giáo và Thiền Ðông Ðộ.
Câu chuyện như vầy: Ngài Mục Kiền Liên đi theo Phật tu hành chứng quả giải thoát, chứng đắc Lục thông. Mẹ của Ngài Mục Kiền Liên là bà Thanh Ðề. Trước kia bà rất kính Phật pháp, bà cúng dường trai Tăng tứ sự đầy đủ (tứ sự: Thực phẩm, y áo, thuốc men, chỗ ở tu.). Sau khi Ngài Mục Kiền Liên bỏ nhà đi tu, bà tức giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng Tăng, nên bị tội đọa địa ngục ngạ quỷ. Ngài Mục Kiền Liên chứng đắc thần thông, dùng thiên nhãn thấy mẹ mình đang đọa địa ngục ngạ quỷ, đói khát vô tận. Thương mẹ, Ngài dùng thần thông xuống địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ. Bà Thanh Ðề đang đói khát, thấy cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không thể ăn được, vì cơm biến thành than cháy đỏ. Ngài Mục Kiền Liên thấy mẹ thọ lãnh quả khổ đói khát,muốn ăn mà ăn chẳng được như vậy, Ngài chẳng biết làm cách nào cứu mẹ được, nên trở về bạch với đức Phật và mong nhờ đức Phật chỉ giáo cách cứu mẹ Ngài. Ðức Phật dạy: “Trong mùa an cư kiết hạ, chúng Tăng đang tu học nên thân, tâm các ngài rất thanh tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày chấm dứt mùa an cư kiết hạ, Ngài Mục Liên nên cung thỉnh chư Tăng cúngdường trai phạn tứ sự, nhờ ơn công đức tu hành của chư Tăng hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức nầy mới có thể cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục”. Ngài Mục Kiền Liên vâng lời đức Phật làm y như lời dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.
Qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng bảy (âm lịch) trở thành một phong tục trong dân gian, là ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân.
Câu chuyện Mục Liên Thanh Ðề là một câu chuyện trong Phật giáo Ðại Thừa, có tính chất rất phi đạo đức. Đây là một câu chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến, lúc vua quan chuyên ăn lo hối lộ, mua quan bán chức, làm những điều bất công, không công bằng, không công lý.
Ðạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ không cầu tha lực độ mình. Cầu tha lực độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật giáo phát triển Ðại Thừa như chúng tôi đã nói. Ðó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả, không công bằng và không công lý.
Ðọc chuyện Mục Liên Thanh Ðề chúng ta thấy đạo Phật có tính chất giống như chế độ phong kiến, không khác chút nào. Ăn lo hối lộ được dấu bằng danh từ rất cao thượng: “Ðộ chúng sanh”. Kiểu như cha mẹ làm tội ác bị nhà vua bắt giam cầm, tù tội. Con thi cử tuy được làm quan nhưng không cứu cha mẹ được vì tội quá nặng, nên phải nhờ những vị quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ. Nhờ có lo lót nhưvậy nên cha mẹ mới thoát cảnh tù tội. Trong câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên đã trai tăng cúng dường tứ sự (một hình thức lo lót hối lộ), nhờ vậy bà Thanh Ðề mới thoát Ðịa Ngục A Tỳ.
Ðối với một tôn giáo còn có hình thức ăn lo, hối lộ như vậy thì trên đời này còn có nghĩa lý gì là đạo đức công bằng và công lý; còn có nghĩa lý gì gọi là đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người; còn có nghĩa lý gì là tôn giáo khi dạy tín đồ làm điều phi đạo đức như vậy.
Nếu trên thế gian này không có luật nhân quả thì loài người không thể có công bằng và công lý; công bằng và công lý chỉ có khi có luật nhân quả. Không có một đấng Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa hoặc một Ðức Chúa Trời hoặc một Ngọc Hoàng Thượng Ðế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người mà chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý này mà thôi. Nhân quả là do hành động của con người, họ tự làm tội hay vô tội, cho nên luật nhân quả chính là để xử phạt hay ban thưởng lại chính con người, chứ không có một kẻ thứ hai nào khác ban thưởng hay phạt họ. Vì thế, luật nhân quả rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Sau khi tu hành chứng đạo, đức Phật dẫn tâm đến Lậu Tận Minh, Ngài đã thấy luật nhân quả rất rõ ràng, công bằng và công lý vô cùng, cũng vì luật nhân quả công bằng công lý như vậy, nên con người phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, thọ biết bao nhiêu sự đau khổ từ kiếp này đến kiếp khácdo chính hành động của họ đã làm.
Ở trên đời này, trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến chế độ phong kiến đã chứng minh điều này: “Ða kim ngân Phá luật lệ”. Người có tiền, có thế lực, thì lúc nào cũng có thể mua chuộc được tội lỗi của mình.Và mãi sau này, dù cho bất cứ một chế độ nào, thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng thực thi được trọn vẹn. Nhưng với luật nhân quả thì không thể dùng tiền để làm cho hết tội được.
Dưới chế độ phong kiến, con cháu của vua quan dù có làm tội giết người, cướp của vẫn ung dung tự do, không ai làm tội làm tình được. Pháp luật đối với hạng con cháu của vua quan coi như không có, bắt họ cũng như bắt cóc bỏ dĩa.
Cho nên, Ðại Thừa Giáo với sự lý luận vụng về trong câu chuyện Mục Liên Thanh Đề đã để lộ chơn tướng thế tục hóa: “Khi chư Tăngchấp nhận thọ dụng trai Tăng và tứ sự cúng dường thì hợp lại công đức tu hành của mình thành một công đức vô lượng, công đức đó sáng chói như ngọn đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thanh Ðề giác ngộ nên bà mới thoát khỏi địa ngục”. Ðó là hình thức ăn lo tập thể của chế độ phong kiến mà Phật giáo Ðại Thừa đã bị đồng hóa. Như vậy trong câu chuyện này Đại Thừa là một tôn giáo bị “thế tục phong kiến hóa”.
Ðó là cách lý giải không chân thật của các nhà Ðại Thừa khéo che đậy lừa đảo những tín đồ mê tín, vô minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được trang bị đạo đức nhân quả. Vì giáo pháp của đức Phật dạy rõ ràng, cụ thể: người tu sĩ phải lấy đức hạnh (giới luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có công bằng, công lý và từ bi đối với mọi người mọi loài chúng sanh. Và vì thế, không thể nào có sự gian xảo, lừa đảo, dối trá theo kiểu dạy của kinh sách Ðại Thừa như trên.
Bài kinh Vu Lan Bồn chỉ gạt những người chưa hiểu giáo lý chân chánh và đạo đức nhân quả của đạo Phật. Bài kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu trong lòng tín đồ Phật Giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được tính cách vô đạo đức của nó.
Mùa Vu Lan! Mùa báo hiếu! Những danh từ này đã lặp đi lặp lại trong lòng người Phật tử hiếu hạnh Việt Nam, nhưng mấy ai đã biết sự hiếu hạnh này là phi hiếu hạnh, là bị lừa đảo. Hằng năm người Phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền tài của cải trong mùa Vu Lan. Mùa Báo hiếu, một việc làm chẳng ích lợi gì cho những người thân thương quá cố của mình, chỉ có làm lợi ích cho các nhà sư Ðại Thừa mà thôi.
Nếu mọi người ai cũng đều thông hiểu đạo đức nhân quả của đạo Phật thì những kinh sách phi đạo đức của Ðại Thừa không thể lường gạt họ được. Những kinh sách như: Vu Lan Bồn kinh, Phẩm Phổ Môn trong bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Di Ðà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma Cật kinh, v.v... đều là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp. Các kinh sách này không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức nhân quả, nó khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt tuệ, thường sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới siêu hình tưởng, nó dạy người làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì, v.v…
Theo như trong kinh Vu Lan Bồn đã dạy ông Mục Kiền Liên cứu mẹ bằng cách dựa vào lòng đại từ đại bi của Thánh Chúng. Giả thuyết, nếu làm được như vậy thì tất cả chúng Tăng và đức Phật tập trung công đức tu hành giải thoát của mình lại thành một công đức có oai lực vô lượng vô biên như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực, và hướng đến chúng sanh, khiến cho chúng sanh ngộ được đạo lý giải thoát để mọi người ly dục ly ác pháp thoát ra cảnh địa ngục tại tâm, thì chúng sanh đâu cần gì phải tu hành vất vả khổ nhọc, mà cũng vẫn được giải thoát như thường, tương tự nhưchư Tăng hợp công đức tu hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh Ðề ngộ được đạo lý giải thoát, liền thoát ra cảnh địa ngục A Tỳ.
Nếu chư Thánh Tăng trong thời đức Phật đã cứu độ cho bà Thanh Ðề thoát cảnh địa ngục như vậy thì với tâm đại từ đại bi của Phật và chư Thánh Tăng không lẽ không làm điều này để độ chúng sanh thoát khổ sao? Một cá nhân nhỏ mọn như bà Thanh Ðề mà chư Tăng còn độ được thay, thì có lý đâuvới tất cả chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà Phật và chư Thánh Tăng đều biết rõ, lại đành làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ sự? Có cúng dường tứ sự mới cứu độ thì còn gì là Phật, là Thánh Tăng nữa, phải không các bạn?
Kinh điển Ðại Thừa diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn. Công đức tu hành của Phật là vô lượng vô biên vậy mà Ngài còn từ chối không cứu độ ai hết. Ngài xác định Ngài chỉ là một hướng đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận, mà không ai hiểu đạo lý nhân quả hơn Ngài. Do hiểu đạo lý nhân quả tường tận, dù biết rằng mình có đủ thần lực, có vô lượng vô biên công đức, nhưng Ngài vẫn từ chối không cứu độ ai hết, vì cứu độ là một việc làm phi đạo đức, nên Ngài dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi”.
Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ làm ác được, chỉ có các nhà Ðại Thừa mới có một đức Bồ Tát Quan Thế Âm dám làm điều phi đạo đức này (phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa) rồi đến chư Thánh Tăng và đức Phật trong kinh Vu Lan Bồn mới dám cả gan làm điều phi đạo đức, phi giáo lý của Phật để cứu bà Thanh Ðề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời đức Phật còn tại thế, Ngài còn phải xin ăn để gieo duyên độ chúng sanh. Nhờ có gieo duyên nhân quả thiện như vậy, Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình, khiến cho chúng sanh ngộ được chân lý giải thoát rồi mới lần lần tu tập dứt bỏ và xả ly, mới thoát cảnh địa ngục trần gian đầy đau khổ của kiếp làm người.
Các nhà Ðại Thừa xây dựng sự cứu độ một cách vô lý, thiếu công bằng và công lý, thế mà mọi người vẫn tin theo, làm theo, với sự thiếu suy nghĩ.
Các Thánh Tăng đem công đức tu hành giải thoát của mình, hợp lại làm một ngọn đèn sáng, khiến cho người đang mê gặp ngọn đèn này, trí tuệ bừng sáng, thoát cảnh địa ngục (nếu được như vậy thì đâu cần gì phải tu). Ðó là một thứ vọng ngữ của các nhà Ðại Thừa, để lừa đảo những người tín đồ thiếu trí tuệ và cũng khiến cho những người có trí tuệ, hiểu biết nghi ngờ Phật giáo và xem thường đạo Phật, cho rằng Phật giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.
Nếu thật sự những loại kinh sách này là của Phật giáo thì Phật giáo không còn đất đứng trên hành tinh này nữa, một khi thời đại dân trí càng đi lên và khoa học càng tiến bộ, thì người ta càng rõ sự gian xảo này. Trên hành tinh này duy chỉ cần phải có một đạo đức nhân quả và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để quân bình vật chất và tinh thần của con người, nhờ vậy, xã hội loài người mới có sự an vui, hạnh phúc. Do thế, các tôn giáo nào thiếu đạo đức, gây mê tín, tạo thế giới siêu hình trừu tượng, viển vông, dạy những điều phi đạo đức, thường lừa đảo tín đồ, thì phải bị khoa học chỉ mặt vạch tên và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống của họ.
Bởi vậy, câu chuyện Mục Liên Thanh Ðề là câu chuyên phi đạo đức, phi công lý, phi công bằng, phản lại đạo đức nhân quả của Phật giáo. Sự báo hiếu như trong kinh sách Ðại Thừa là không phải của đạo Phật, kinh sách này đã bị dân gian thế tục hóa Phật giáo theo thời đại phong kiến của nó.
Người tu sĩ đạo Phật muốn báo hiếu cha mẹ thì phải tu hành, sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, sống thiểu dục tri túc, ăn ngủ độc cư đúng cách, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, tâm thường thanh thản, an lạc, ly dục ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh Ðịnh thực hiện Tam Minh, làm chủ sự sống chết và luân hồi, thì mới báo hiếu trọn vẹn.
Còn người tín đồ cư sĩ muốn báo hiếu thì phải giữ gìn năm giới nghiêm túc, thường khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều thiện, đừng làm điều ác.
Ðó là sự báo hiếu chơn thật của Phật giáo. Thực hiện được những gương hạnh cao quý này qua đời sống, khiến cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp vì có nhân duyên nhân quả nên quy tựu gặp lại nhau để nhận lấy gương hạnh đạo đức giải thoát và giáo pháp của Phật hướng dẫn cho những người thân thương của mình từ vô lượng kiếp để thoát ra cảnh đời đầy đau khổ. Ðó là báo hiếu cha mẹ, chớ không phải làm lễ trai Tăng cúng dường tứ sự để nhờ công đức của chư Tăng cứu độ cha mẹ là báo hiếu.
Báo hiếu kiểu đó là báo hiếu không thực tế, thua xa các nhà Nho trong Ðạo Khổng “Quạt nồng ấm lạnh” không làm cho cha mẹ buồn rầu, thường làm vui lòng cha mẹ. Sống chửi cha, mắng mẹ, làm cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư Tăng cúng dường Tam Bảo để báo hiếu, thì thật là buồn cười, bày đặt chuyện báo hiếu như vậy không có đạo nghĩa và không thực tế. Đó là lối lường gạt người “tiền mất tật mang”, chẳng làm ích lợi gì cho ai cả?
***



























