• amthat1
  • tranhducphat
  • thanhanhniem2
  • daytusi
  • vandao2
  • tinhtoa1
  • huongdantusinh
  • lailamtoduong1
  • chanhungphatgiao
  • amthat3
  • thanhanhniem1
  • tamthuphattu
  • khatthuc1
  • phattuvandao3
  • ThayTL
  • tinhtoa2
  • thanhanhniem3
  • lopbatchanhdao
  • benthayhocdao
  • toduongtuyetson
  • quetsan
  • vandaptusinh
  • phattuvandao1
  • ttl3
  • ttl1
  • amthat2
  • Am thất
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
In bài này

Giáo Án Tu Đạo Phật - Diệt Thọ Tưởng Định

Lượt xem: 14467

Trưởng Lão Thich Thông Lạc

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT

II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm trong 61 cassettes)


BÀI ĐỌC THÊM 4

DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH

Cô Minh Cảnh hỏi về hai vị nhập Diệt Thọ Tưởng Định sau đây đúng hay sai:

Một vị thì khi vị đó nhập Diệt Thọ Tưởng Định, bị đốt thì da vị đó bị cháy nám và y áo bị cháy hết. Như vậy vị đó ko có từ trường. Thí dụ Thầy mặc y áo như vầy mà Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì lửa ko thể cháy được y áo của Thầy đâu, từ trường bảo vệ tất cả các vật đang ở quanh thân của Thầy khi Thầy đang nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Còn ông này y áo bị cháy hết thì có thể ông này nhập tưởng định nào đó cho nên các đồ vật chung quanh ông ta bị cháy sạch, thậm chí còn cháy nám da.

Còn một vị khác khi nhập Diệt Thọ Tưởng Định phải lấy đồng la đánh thì xuất định. Ở đây họ chưa nhập được Diệt Thọ Tưởng Định mà họ lầm tưởng đó là Diệt Thọ Tưởng Định. Khi thật sự nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì không thể nào lấy đồng la hoặc lấy một vật gì khua cho người này tỉnh lại được; chỉ người nhập Diệt Thọ Tưởng Định có ý xuất định thì người này xuất ra khỏi định ấy chứ không thể làm cách gì cho vị đó tỉnh lại ra khỏi định Diệt Thọ Tưởng được hết. Chỉ khi vị này nhập các loại định tưởng khác thì mới lấy tiếng động làm cho vị đó xuất định mà thôi, chứ khi vị này nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì không thể nào dùng cái gì mà kêu vị đó xuất định được hết.

Nhập vào định Tứ thiền thì cái thức chúng ta vẫn còn, cho nên chúng ta rất tỉnh táo. Tâm của vị đang nhập Tứ thiền giao cảm tất cả tâm mọi chúng sanh; còn Diệt Thọ Tưởng Định cái thức hoàn toàn không còn, nó im phăng phắc, nó lặng lẻ vô cùng, nó chỉ còn nhất như cái yên lặng của nó thôi, nó không còn cái thức, không còn đối tượng trong sự thanh tịnh nữa. Do như vậy, khi một ai nào khác có cầu khẩn van xin gì thì cũng không giao cảm với người nhập Diệt Thọ Tưởng Định được bởi vì toàn bộ bộ óc là ý căn của họ ngưng hoạt động hoàn toàn cho nên họ không giao cảm với ai được, họ không còn ý thức nữa. Thí dụ Thầy đang nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì bên ngoài các con tu gặp khó khăn gì cũng không bao giờ gọi Thầy được hết, bởi Thầy hoàn toàn ở trong trạng thái tâm rất thanh tịnh, thân Thầy thì được từ trường thần lực của Diệt Thọ Tưởng Định bảo vệ, không bị hư hoại, không bị một vật gì có thể làm hư cái thân đó được. Đó mới là Diệt Thọ Tưởng Định. Cho nên phải hiểu rằng khi người nào tu tới chỗ có tam minh rồi thì chắc chắn họ cũng sẽ nhập Diệt Thọ Tưởng Định để thăm dò xem coi nó như thế nào.

Bây giờ Thầy biết Thầy nhập được Diệt Thọ Tưởng Định nhưng thời gian lâu cho tới, thí dụ 3 năm, hay 10 năm, không cho phép Thầy nhập vào đó lâu như vậy vì Thầy đang hướng dẫn các con như vầy mà bỏ các con để Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định trong khi các con đang tu điên tu khùng, đến chừng Thầy xuất khỏi Diệt Thọ Tưởng Định thì các con thành người khùng hết thì Thầy biết làm sao cứu được. Vì trách nhiệm của Thầy cho nên Thầy chỉ nhập vào các định như Tứ thiền là cao lắm, trong vòng khoảng chừng một tuần lễ hay nữa tháng, chưa dám bỏ đi mà nhập tới một tháng nữa.

Còn lúc xưa Thầy ở trong thất một mình có thể nhập định như Tứ thiền một tháng, hai tháng hay ba tháng được, nhưng thời gian đó chỉ nhập vào Tứ thiền một hai tháng phải có một lúc ra rồi mới nhập trở vào lại, chứ không phải Diệt Thọ Tưởng Định. Thí dụ như gom tâm nhập Tứ thiền 49 ngày là phải xuất ra khỏi định, mà 49 ngày thì chỉ mới có 1 tháng mười mấy ngày mà thôi, cho nên khi ra khỏi định của Tứ thiền thì Thầy mới gom tâm lại nữa để cho nó tịnh chỉ, ngưng hơi thở lại và tiếp tục nhập vào Tứ thiền nữa, nhưng thời gian kế này cũng không nằm lâu trong định Tứ thiền, mà nó cứ ra vô ra vô sau 49 ngày, buộc lòng người đó phải đi tới hoàn toàn ngưng hơi thở, tịnh chỉ ý hành, tức bộ óc phải ngưng hoạt động hoàn toàn thì nó mới không bung ra được (Diệt Thọ Tưởng Định).

Như các con muốn cho nó ngưng hơi thở, nhưng chỉ chừng một phút thì nó bung trở ra, nếu nó kéo dài thì các con chết luôn vì thân các con chưa thuần ở trong định Tứ thiền, cho nên các con ngưng hơi thở chỉ chừng một phút thì nó bung trở ra, rồi các con tập tăng dần lên 2 phút, 3 phút... cho nên mới được 7 ngày 7 đêm hay hoặc một tháng, hay 49 ngày. Mức cao của Tứ thiền cuối cùng chỉ 49 ngày mà thôi. Khi chúng ta tu tập thì phải tuần tự chứ không phải trong một lát mà có thể đạt được mức cuối cùng này.

Đó là phần trả lời về hai vị này. Một vị thì xách đồng la (xập xỏa, kẻng) đánh mà tỉnh lại thì vị này chưa phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định tức Diệt Tận Định, còn vị kia y áo bị cháy hết thì từ trường của các vị đó không đủ thần lực thì đương nhiên các vị này không phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định hay Diệt Tận Định. Đó là câu trả lời hai câu hỏi của con.

Các pháp sư Đại thừa dạy nhập Diệt Thọ Tưởng Định là Tiểu thừa, là tiêu nha bại chủng. Ông pháp sư Đại thừa dạy như vậy là ông tưởng nhập Diệt Thọ Tưởng Định như đồ chơi trẻ con. Cái thần lực bảo vệ cơ thể được như vậy đâu phải là việc của tiểu thừa mà đây là chỉ bậc thánh mới làm được. Đâu phải là chuyện dễ làm. Sau khi người ta đã đạt tam minh rồi mới thực hiện được cái này, chứ nếu chưa đạt được tam minh, tâm chưa thanh tịnh tới mức tối đa, chắc chắn nhập Diệt Thọ Tưởng Định chưa được đâu.

Các con phải hiểu khi chúng ta li dục li bất thiện pháp nhập Sơ thiền tâm vô lậu thì lúc đó chúng ta mới diệt được tầm tứ nhập được Nhị thiền, hơi thở chúng ta phải chậm nhẹ đúng mức mới nhập Nhị thiền. Tâm chưa li dục li bất thiện pháp mà nhập Nhị thiền thì đó là tà thiền chứ không phải chánh thiền. Cho nên khi có tam minh, dùng Lậu Tận Minh quét sạch lậu hoặc rồi, chúng ta hoàn toàn chấm dứt được sanh tử luân hồi, rồi mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định được. Nghĩa là người chưa nhập được Tứ thiền thì đừng mong nhập được Diệt Thọ Tưởng Định. Định đó là định cao, trong định đó có thần lực rất vi diệu bảo vệ thân chúng ta. Ngồi nhập định ngoài trời mưa mà không ướt. Từ trường của nó làm cho ta có một vách đá vô hình không thể ngở tưởng được. Mưa không ướt, nắng không làm cho nóng được thì định đó đâu phải là định của phàm phu, mà gọi là tiểu thừa. Họ nói tiêu nha bại chủng nhưng họ có làm được đâu.Người ta ngồi cả ngàn năm mà thân không hưmất, còn họ nói họ sống hành bồ tát đạo, lên xuống trong sanh tử để độ chúng sanh, nhưng không ngờ họ ở trong địa ngục, chứ làm sao họ lên tại vì họ làm những cái sai giới luật của Phật cho nên họ phải đọa địa ngục. Thí dụ Thầy và các con đều ăn ngày 3, 4 bữa mà nói chuyện như bồ tát, đến khi hết phước chết thì thầy trò cùng xuống địa ngục hết cả đám. Diêm vương nói: "Phật dạy ngày ăn một bữa mà các ông ăn 3, 4 bữa".

Hỏi: Đại thừa cho bồ tát có nguyện vào trong sanh tử để độ chúng sanh cho nên Phật pháp mới còn mãi mãi. Có đúng thật như vậy không?

Các con thấy Phật pháp tồn tại hiện nay có đúng Phật pháp không, hay đó là sai. Xui khiến người ta bỏ hết để đi tu, không làm ích lợi cho ai hết, như Minh Cảnh đến nay con gần chết rồi mà có thấy làm chủ sanh tử chưa, có buồn có khổ không, như vậy là dẫn con đi vào chỗ chết chứ giải thoát gì. Như vậy Phật pháp còn nhưng chỉ có tà pháp thôi chứ đâu phải Phật pháp.

Ngày xưa đức Phật không cho tỳ kheo ở trong nhà gạch mà nay toàn bộ các chùa đều sang đẹp, đều lát gạch, ốp gạch, cao sang thì thử hỏi Phật pháp còn chăng. Đại thừa nói Bồ tát đi vào trong sanh tử để độ chúng sanh. Độ kiểu đó là dẫn dắt đi xuống địa ngục hết chứ làm gì giải thoát được. Ngay bước đầu vô mà chúng ta không giải thoát được cái ăn cái ngủ thì giải thoát được cái gì. Không li được dục, không li được ác pháp thì chúng ta giải thoát được cái gì. Chỉ li dục li ác pháp mới sanh hỉ lạc, do đó mới nhập Sơ thiền. Không có sự giải thoát của người tu mà lại chạy theo dục lạc của thế gian thì toàn bộ là sai hết.

Hỏi: Và khi nhập Diệt Tận Định có mất tam minh lục thông không?

Đã nhập Diệt Tận Định thì làm gì có tam minh lục thông nữa. Mình chỉ nhập Tứ thiền rồi dẫn tâm đi vào tam minh thì mới có tam minh lục thông, chứ các con có nghe Phật dạy mình nhập Diệt Tận Định rồi dẫn tâm mình đi vào tam minh.Đâu có chỗ nào như vậy đâu. Cho nên nhập Diệt Tận Định chỉ là một thần lực của thiền định để thấy thần lực đó bảo vệ giữ gìn cái thân; nhưng đức Phật đâu có để lại nhục thân, đâu có duy trì cái thân này ngàn năm, triệu năm đâu, vì thấy nó là vô thường. Ngài biết định đó giữ thân cả triệu năm nhưng vẫn không chấp nhận nó. Cho nên Diệt Tận Định chỉ nói để chúng ta biết chơi vậy thôi chứ nó không phải là mục đích của đạo Phật.

Hỏi: Và có lợi ích gì cho Phật pháp, cho chúng sanh?

Cái Diệt Tận Định không có lợi ích đâu. Chúng ta thấy Tứ thiền thực hiện tam minh là giới-định-tuệ, chúng ta đã đủ chấm dứt luân hồi, chấm dứt sự đau khổ cho thân phận làm người, giải thoát sự đau khổ cho chúng ta là đủ rồi, nhưng tới đây chúng ta nhập Diệt Tận Định để chúng ta thấy được thần lực của định, để biết được sự tu tập của chúng ta có những thần lực tuyệt vời như vậy thôi, chứ cái Diệt Tận Định đó không phải là mục đích của chúng ta.

Hỏi: Trong kinh nói Phật có đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, tại sao Phật không nhập Diệt Tận Định để lại nhục thân cho hậu nhân chiêm ngưỡng mà Ngài lại nhập Niết bàn hoại thân.

Nếu như Thầy mà để lại nhục thân thì người ta sẽ nói cái ông gì mà xấu xí như vậy mà để lại nhục thân. Muốn để lại nhục thân thì phải như Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp mới đáng để. Ông Phật tướng tốt như vậy mà không để, còn Thầy có ra gì đâu cho nên Thầy không muốn để. Các con thấy các ngài Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Tường để lại nhục thân của các ngài. Nhưng nhìn nhục thân các ngài không đẹp đẻ gì, người ta chỉ ca ngợi sức thiền định của các ngài. Nhục thân không đẹp mà để lại chỉ làm cho người ta cười, chứ làm gì.

Thường các nhà điêu khắc tạc những tượng rất đẹp để trang hoàng nhà của họ. Ông Phật đâu có muốn làm đồ chơi cho mọi người, cho nên Phật sau khi nhập diệt đốt bỏ thân. Các con thấy mấy ông làm lớn, hay có danh tiếng thường hay làm tượng, tưởng là hay nhưng thật ra chỉ làm đồ chơi cho mọi người. Vừa rồi Thầy có tới nhà của Tâm Như, Thầy thấy có tượng của Hòa thượng Thanh Từ bằng đồng giả (chỉ mạ đồng bên ngoài). Hòa thượng là người tu hành mà các cư sĩ làm tượng để chơi như búp bế vậy. Một vị tu sĩ mà bây giờ người ta tưởng như vậy. Chẳng thà một vị tổng thống để cho người ta chiêm ngưỡng công lao của người đó, còn mình là người tu mà tạc tượng như vậy để làm chi. Cho nên đức Phật rất thông minh, Ngài không để lại nhục thân, 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp mà để lại cho đến bây giờ thì người ta giật mình, không có con người nào đẹp được như vậy. Bao nhiêu tượng Phật khắp thế giới với tướng tốt và vẻ đẹp đó thì chỉ làm đồ chơi. Bây giờ chỉ với hình tượng tưởng tượng ra mà người ta còn đốt nhang, còn hình tượng đúng thật đẹp quá người ta không dám đốt nhang đâu, chỉ để ngắm chơi thôi.

Hỏi: Còn tượng đúc, tượng vẽ đang thờ bây giờ là do người sau tưởng tượng ra làm sao tin Phật có 32 tướng tốt, xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con những điều con chưa hiểu biết để sau này Thầy nhập Diệt Tận Định có người hỏi con trả lời cho thông suốt, không bị người ta nói nhập Diệt Tận Định là tiểu thừa, là tiêu nha bại chủng.

Đó, các con thấy, người ta đặt vấn đề như thế nào, người ta luận như thế nào cũng được. Nhưng ở đây thì chúng ta hiểu rằng một vị thầy mà tu như Thầy thì không bao giờ nhập Diệt Thọ Tưởng Định để giữ thân của mình để cho người sau chiêm ngưỡng, mà một vị thầy chỉ thể hiện sự vô thường của nó mà thôi, nghĩa là chết thì cũng chết như mọi người nhưng tự tại trong sự chết chứ không chết trong đau khổ như người phàm phu. Chỉ có vậy thôi. Còn tiểu thừa hay đại thừa gọi sao thì kệ họ, tại vì họ chưa phải là người biết được con đường này, họ đứng ở trên góc độ cao với thấp cho nên mới có đại thừa tiểu thừa. Thấy cái định quá tuyệt vời của Phật pháp, họ muốn hạ xuống thấp cho nên họ gọi Diệt Tận Định là định của tiểu thừa, chứ họ không biết đó là một công phu tu hết sức chứ không phải chỉ trong một ngày, hai ngày mà làm được.

Hỏi: Xin thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con được hiểu, làm cho con đường của dạo Phật sáng thêm, Tổ và các thiền sư nói rằng "sinh như đắp chăn mùa đông, tử như cởi chiếc áo mùa hạ". Cho nên họ vào ra sanh tử độ chúng sanh tự tại, không sợ cực khổ, như vậy Phật với tổ khác nhau như thế nào?

Ở đây con thấy rất rõ ràng: Họ lí luận thì như vậy, chứ có ông thầy, ông tổ nào mà khi chết không đau rên suốt ngày; có ông nào mà không rên đâu, họ nằm trên giường bệnh đôi ba tháng hoặc là một năm, hai năm, nhất là những vị bị bán thân. Các con thấy khi chết thì họ mê muội không còn biết, mà trước đó thì đã bại hết một nửa thân người, không đưa tay lên được, đi tiểu, đi đại thì người ta phải đặt cái bô vào, rất khổ cho vị đó. Thế mà họ nói "sinh như đắp chăn mùa đông, tử như cởi chiếc áo mùa hạ". Các con thử tưởng tượng một người bị bán thân nằm liệt một chỗ, chân đi không được, phải ngồi trên xe lăn, các con nghĩ họ có khổ không. Bây giờ Thầy nói chúng ta chỉ đau sơ sơ thôi, chỉ là bị thần kinh tọa, chúng ta bị nhức chân từ mông xuống gối, mà khi chúng ta ngồi xuống bị buốt đau thì chúng ta có ngồi được không, chúng ta có ngồi được yên không. Đau khổ vô cùng. Đâu có chuyện ra vào sanh tử mà như đắp chăn bông, như cổi chiếc áo mùa hạ được.

Đó chỉ là hí luận, sự thật trước cảnh sanh tử đau khổ Thầy thấy ông thầy nào cũng mặt mày tái mét hết chứ đừng nói không sợ. Họ chỉ nói thôi chứ không có ông nào tự tại, chỉ tự tại khi nào người đó nhập Tứ thiền mới không sợ chết, nghĩa là người ta làm chủ sự sống chết của thân thì mới không sợ. Như bây giờ các con chưa làm chủ thì các con sợ chết lắm. Chừng chết các con bị nó giật méo miệng, nằm xuống ngồi lên. Các con thấy những người sắp chết chưa, vừa đở cho họ nằm xuống, thì họ kêu đở cho họ ngồi lên; vừa đở cho họ ngồi lên thì họ lại kêu cho họ nằm xuống. Đó gọi là trăn trở lúc sắp chết. Đây là bịnh không ngặt nghèo mà còn khổ như vậy huống nữa là bịnh ngặt nghèo. Các con đã ai săn sóc cho người sắp chết chưa? Không biết trong người họ như thế nào mà họ cứ yêu cầu đở cho họ nằm xuống, ngồi lên liên tục vậy. Vậy đừng nói là chết như cởi áo mùa hạ. Mấy ông tổ miệng nói vậy chứ khi sanh tử đến thì miệng ông nào cũng méo xẹo hết. Chỉ người nào nhập được Tứ thiền mới sanh tử tự tại, người ta biết khi người ta nhập Tứ thiền là người ta làm chủ được thân. Tâm không còn bị ác pháp nào tác động nữa, không còn khổ nữa. Người ta bảo thân không được đau là thân không đau. Còn các ông tổ đó có làm được như vậy khôngmà dám nói tự tại sanh tử, mà dám nói sanh như đắp chăn bông trong mùa đông, tử như cởi áo trong mùa hạ. Các ông chỉ nói lí pháp chứ không nói được lí hành, còn chúng ta nói được lí hành, lí pháp, cho nên chúng ta làm chủ được. Thầy bảo nó ngưng thở thì nó ngưng, còn các ông tổ có dám bảo như thế không. Khi người ta đã làm chủ chết được rồi thì người ta muốn đi tái sanh người ta cũng làm chủ được tái sanh. Chỉ tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi, mà khi tái sanh là người ta vào bụng mẹ như thế nào người ta biết, không phải nghiệp lôi được. Đó là chỉ mới tỉnh thức thôi chứ chưa li dục li bất thiện pháp. Khi tỉnh thức đến mức độ người ta biết li được li dục li ác pháp xong nhập được Sơ thiền thì khi sanh ra biết được đời trước của mình. Như vậy với Sơ thiền chúng ta làm chủ được sự sống chết, khi sanh ra nhớ được đời sống trước của mình ở đâu, làm gì.

Hỏi: Phật thì nhập Niết Bàn, còn Tổ vào ra trong cõi ta bà độ chúng sanh không nhập Niết bàn, như vậy là Tổ từ bi hơn Phật hay sao?

Tổ chỉ nói láo chứ đâu biết mình đi đâu, ông chỉ nói cái lí khơi khơi, chứ cái hành thì ông làm không được. Còn ông Phật nói ba tháng nữa tôi chết thì đúng ba tháng sau Phật chết. Ông tổ đâu dám nói lúc nào chết, chừng nào tới đó hẳn hay, chứ không dám nói trước. Các con nghe có tổ nào dám nói trước ngày giờ chết của mình không? Chỉ là một huyền thoại nói láo thôi, chứ không thể nào nói trước ngày giờ chết được.

Người ta nói từ bi ra vào sanh tử tức là người ta còn háo danh, như ông Phật tự tại sanh tử như vậy rồi muốn sanh muốn diệt thì chỉ một mình ông Phật đi độ chúng sanh, cứ kiếp này đến kiếp khác, chỉ có mình ông thôi, cứ độchúng sanh hoài như vậy, còn bao nhiêu người khác để họ tu, thì như vậy là ông dành cái danh, cái lợi. Đời nào ông cũng có danh làm bồ tát, như vậy là háo danh quá độ rồi chứ gì nữa. Tổ chỉ muốn cho một mình Tổ độ chúng sanh thôi, đừng cho người khác độ.

Như Thầy tu được như vầy rồi Thầy muốn kiếp sau Thầy cũng lên làm hòa thượng nữa, làm lớn mà, cho nên kiếp nào cũng ngon hết thì bây giờ cứ kiếp này rồi, rồi mình đi trong đường sanh tử, rồi mình trở ra làm nữa, cứ làm hoài như vậy, ai cũng kêu mình là thầy, "thiên nhân chi đạo sư" mình là đạo sư hết, không phải ngon sao. Cho nên ông Phật không phải là người háo danh, còn mấy ông tổ này nói tự tại trong sanh tử độ chúng sanh, thương chúng sanh dữ lắm, ra vào sanh tử không có trở ngại, mà thật sự ra đó là sự háo danh. Háo danh riết rồi ngày nay chùa mấy ông cất toàn bằng gạch, ông đâu dám ở nhà tranh vì nhà tranh mưa dột. Ông Phật suốt đời ở nhà tranh cho nên ông chết trong mưa là phải, còn các tổ đời nào kiếp nào cũng làm tổ cho nên ở chùa cao rộng lớn như vua rồi, đền đài sung sướng rồi, thì tội gì mà bỏ uổng, như vậy mấy tổ có li không, có li thế gian đâu; kiếp này ông cất chùa tốt, kiếp sau ông lên ông cất cái chùa khác nữa. Kiếp này cất 3, 4 cái chùa, rồi kiếp sau cất 5, 7 cái chùa; cứ mỗi kiếp cất chừng 10 cái chùa, mà 10 lần như vậy, thì các con thấy các tổ, một ông có thể cất cả trăm cái chùa không, các tổ háo danh kinh khủng mà ham lợi cũng dữ tợn, một mình ông làm đủ thứ hết, không để ai làm lợi ích cho chúng sanh hết, ông giành hết, cho nên ông hơn Phật là chỗ đó. Tại ông tham quá nhiều cho nên mấy ông mới hơn Phật.

Ông Phật thì diệt lòng tham cho nên chỉ một đời mà thôi, không làm nữa để cho những người đệ tử của mình làm chứ không phải giành với đệ tử của mình. Chẳng hạn bây giờ Thầy thuyết pháp rất hay cho nên người ta cứ tập trung nghe Thầy trong khi họ không thèm nghe mấy người đệ tử của Thầy, mấy người đệ tử của Thầy nói gì người ta cũng không thèm nghe hết, cuối cùng thì Thầy giành hết. Cho đến khi Thầy chết rồi, các đệ tử thuyết không còn ai nghe hết, chờ cho khi Thầy tái sanh lớn lên thuyết pháp, bao nhiêu người lại tập trung nghe Thầy nữa. Vậy có phải là Thầy giành với đệ tử mình không?

Đó là những cái mà Thầy thấy người ta bị tâm danh, tâm lợi che khuất đi mà người ta lí luận bằng cách thương chúng sanh, từ bi hơn Phật, nhưng làm gì hơn Phật được. Từ bi hơn Phật vậy tại sao ăn 3 bữa, cướp mồ hôi nước mắt của người khác mà các tổ ăn được, phải không?

Chúng ta từ bi nên mỗi món ăn nuôi chánh mạng của chúng ta, chúng ta biết sự đau khổ của mọi người mới làm ra thực phẩm này. Các tổ nở ăn 3, 4 bữa, có nơi còn ăn 5, 7 bữa nữa, thì thử hỏi như vậy có từ bi không hay là ăn trên mồ hôi nước mắt của người khác, có đúng không? Bởi vì Thầy thấy thật sự chúng ta có làm ra đồng bạc nào cho chúng ta sống đâu, thế mà các Tổ ngồi không ăn mà còn nói từ bi độ chúng sanh.

Còn ông Phật thấy mỗi một ngày chúng ta ăn là hao tốn mồ hôi nước mắt của người khác rất nhiều, chúng ta phải thực hiện sự giải thoát cho thật sự để hoàn toàn li tất cả những ham muốn ăn này, cho nên người ta đặt niệm thực phẩm bất tịnh để quán xét, từ đó không còn tâm tham đắm về sự ăn uống cho nên người ta ăn để sống, coi ăn như là liều thuốc chứ đâu phải thấy cái ăn đó mà thích. Người ta đặt cái niệm ăn đó tu tập hằng ngày làm cho lậu hoặc ăn uống quét sạch ra. Trái lại nếu chúng ta ăn ngày 3 bữa, còn ăn dặm thêm bánh trái, sữa bơ đủ loại thì như vậy là chúng ta ăn trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác chứ gì.

Trong chuyến đi vừa rồi, Thầy giữ hạnh không bao giờ vào quán vào lều, thế mà các chú cư sĩ cứ một lát thì rề xe lại quán này đả, lại rề xe lại quán khác. Thầy thấy cuộc đời của mấy con là cuộc đời thiếu cái ăn, thời gian của các con chỉ biết ăn chứ không biết gì hết, làm ra tiền chỉ phục vụ cho cái ăn. Các con biết thì giờ của Thầy ngồi chờ các con ăn uống, tốn hao bao nhiêu thì giờ của Thầy không, các con chỉ biết ăn cho ngon miệng mà phá thì giờ của người khác, không biết thì giờ quý báu của người khác.

Mỗi giờ qua đi làm thân chúng ta hoại diệt từng phút giây, mà các con đâu biết, mai mốt mất thân rồi tìm lại thân không được đâu, cho nên đừng chạy theo ăn uống. Các con còn mua hai chai nước ngọt cúng dường Thầy cho Thầy uống, bỏ ra 6, 7 ngàn cho một chai; mười mấy ngàn là mồ hôi nước mắt của các con làm ra, bao nhiêu người bất hạnh không có tiền bạc, đói cơm khát nước mà các con đi mua nước cho Thầy uống mà gọi là thương Thầy sao. Thầy hỏi hai chai nước biển này là nước lạnh hay cái gì, có phải chất bổ không? Các con làm bậy. Thầy đâu cần phải uống thứ này đâu. Thầy chỉ cần uống nước lạnh ở giếng là được rồi. Các con đi lại giếng nước kia, lấy chai hứng nước đó, Thầy uống đâu có chết. Ngày xưa đức Phậtphải uống nước vũng dơ, như vậy mới là người tu; còn bây giờ hở ra là mua sắm quăng tiền. Người tu hành là phải giữ hạnh.

Hỏi: Tượng Phật lúc nào cũng ngồi thiền, đôi mắt nhìn xuống hiền từ, còn tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma thì vẽ đôi mắt sống động, vẻ mặt bặm trợn hùng hồn. Sao vẽ tượng Phật mặt hiền từ tượng trưng cho cái gì, tại sao tượng tổ lại vẽ mặt bặm trợn hùng hồn như vậy, còn tại sao tượng các vị bồ tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, Quan Âm mặc đồ trang sức rất đẹp, mang tràng hoa, chuổi anh lạc, mặc y áo thêu thùa, cởi sư tử coi oai hùng như tướng quân ra trận.

Các con thấy những điều kiện người ta vẽ vời bên Đại thừa rất rõ ràng. Hình ảnh đức Phật là hình ảnh rất từ bi, còn ông tổ gì mà con mắt trợn trắng nhìn thiên hạ, con nít còn không muốn nhìn, hình tổ mà vẽ như vậy thì tổ có từ không? Người ta nói ông ta "trừng tâm". Tâm gì mà trừng. Bộ tâm dữ lắm sao phải trừng, phải ngó nó dữ vậy. Đó những cái mà người ta lí luận để thực hiện thiếu lòng từ của đạo Phật. Đạo Phật dạy ta Từ Bi Hỉ Xả, tứ vô lượng tâm, phải luôn luôn thực hiện oai nghi từ bi của chúng ta thế mà Tổ trừng tâm như vậy, nhìn cái tâm hung dữ như vậy, thì thử hỏi làm sao thoát khỏi ác pháp trong đó. Người ta tưởng trừng tâm như vậy là cái giải thoát, nhưng sự thật đâu phải là chuyện đó. Một hình ảnh hiền từ thì nó mới nói lên được lòng thương yêu của chúng ta. Còn các vị bồ tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, Ngài Quan Âm đều ăn mặc trang sức đẹp đẽ như cô gái nhà giàu, như công chúa. Thử hỏi những hình ảnh này có phạm giới luật của Phật không. Hình ảnh người tu mà như vậy thì có phải là người tu theo đạo Phật không.

Có hỏi thì Thầy mới trả lời, còn không hỏi thì ai làm gì thì làm, Thầy đâu cần phải móc ra làm gì. Những hình ảnh Văn Thù, Đại Thế Chí, Quan Âm đều ăn mặc trang sức đẹp đẽ mà gọi là những người đạo Phật, mà gọi là đệ tử của Phật thì đâu có phải là theo ông thầy giới luật. Ông Phật thì mặc y phấn tảo, lượm vải bó thây ma, còn các ngài này thì hàng lụa phải đẹp rồi còn trang sức vòng hoa, châu báu; ông Phật thì từ bi đi bộ, còn các ngài thì leo lên cởi trên lưng sư tử, bắt các con vật chở mình đi, có ác không?

Nói là Phật tánh bình đẳng đều có trong các con vật, vậy con sư tử này không có Phật tánh sao, các ngài leo lên lưng nó mà ngồi thì sao gọi là Phật tánh bình đẳng. Như vậy các con thấy Đại thừa nói một đằng mà sống có đúng bình đẳng không? Ông Phật đâu có nói Phật tánh, đâu có nói chúng sanh có Phật tánhnhưng hành động sống của ông Phật lúc nào cũng bình đẳng với chúng sanh, thậm chí như con kiến còn không giết. Còn các ông nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh nên đối xử với nhau đều bình đẳng hết nhưng lại trèo lên lưng nó ngồi, vậy thì bình đẳng cái gì.

Các con thấy ngài Quan Thế Âm ngồi trên lưng con bạch tượng, còn Văn Thù thì ngồi trên lưng con sư tử lông xanh, Địa Tạng thì ngồi trên lưng con địa thính,... bắt các con vật rồi ngồi trên nó là làm cha nó chứ bình đẳng cái gì. Nói Phật Tánh chung nhau, nghĩa là Phật tánh của các con vật đó là phải làm con vật cho mình cởi đi, ông Phật của con vật đó là đồ cởi của ông Phật kia; như vậy là cái gì, nghĩa là nói một đường mà thực hiện một ngã, không đúng tâm bình đẳng.

Hỏi: Còn tiểu thừa, hình ảnh của Sariputta, Moggallana hiền từ, đi nhìn xuống, không có hiên ngang tự tại như các vị bồ tát, làm sao con rõ. Kính mong Thầy chỉ dạy cho con rõ hơn.

Các con thấy các đệ tử của Phật như ông Sariputta (Xá-Lợi-Phất), Moggallana (Mục-Kiền-Liên), Rahula (La-Hầu-La), Anuruddha (A-Nậu-Lâu-Đà),... đều đi bộ, không bao giờ cởi trên lưng con vật nào. Nhưng bên Đại thừa nói mọi chúng sanh đều có Phật tánh, và Phật tánh đều bình đẳng như nhau mà họ sống không bình đẳng. Giới luật của Phật là mặc y phấn tảo, ông Maha Cassapa (Đại-Ca-Diếp) lập ra 13 hạnh đầu đà và sống theo 13 hạnh đó, không có trang điểm trang sức gì hết. Thế mà nhìn bên Đại thừa, các vị như Văn Thù, Thế Chí, Quan Âm, Địa Tạng... người nào cũng trang điểm đầy mình, như ngài Thế Chí giắt bông trên đầu như công chúa, trong các hình tượng vẽ rõ ràng, tưởng tượng như vậy là các vị bồ tát quá đẹp.Còn các ông Thinh Văn, các ông Alahán quá cù đày, ăn mặc rách rưới như người nghèo đói. Đúng vậy, những người nghèo đói này mới giải thoát, còn các người kia là mới chạy theo dục lạc thế gian đó.

So sánh những hình ảnh này chúng ta mới thấy cái đúng cái sai của đạo Phật, cái nào là Đại thừa, cái nào là Tiểu thừa. Chúng ta biết rõ những người chạy theo dục lạc, ham thích dục lạc, luôn luôn đè nén đạo lí của đạo Phật xuống tận đáy bùn, cho nó là Tiểu thừa, cho nó là tiêu nha bại chủng.

Hôm nay nhân dịp Minh Cảnh hỏi Thầy, Thầy trả lời chung để các con hiểu, chứ Thầy chẳng muốn làm động ai hết, vì nếu làm động thì người ta cũng có những lí luận, kiến chấp của họ để che đậy lổi lầm này hay lổi lầm khác. Làm cho người khổ thì không nên, nhưng vì lợi ích chung cho các con nên buộc lòng Thầy nói cho đúng, pháp nào là pháp của Phật, pháp nào là pháp không phải của Phật. Vì nhìn qua các hình ảnh của các ngài thì chúng ta biết các ngài sống không đúng giới hạnh của Phật, như vậy không thể nào gọi các ngài là đệ tử của Phật được. Vì vậy mà Thầy phải nói ra.

Phật giáo trong thời vị lai khi có đức Phật Di Lặc ra đời thì hình ảnh tôn giáo Phật giáo đó phải nói là Phật giáo Mới chứ không còn Phật giáo do đức Phật Thích Ca sáng lập ra, Phật giáo do đức Phật Thích Ca sáng lập ra đã bị che mất đi, thuộc về Tiểu thừa rồi.

Phật giáo nào dẫn dắt chúng ta tu tập đến giải thoát thì đó là đạo Phật; và giới luật nào giúp chúng ta li được dục li được bất thiện pháp để chúng ta thoát ra khỏi tâm ham muốn, tâm ác pháp của chúng ta, để thoát khỏi đau khổ, thì giới luật đó chúng ta chọn để để cứu chúng ta ra khỏi cuộc đời đau khổ của kiếp người đau khổ, thì dù nó là tiểu thừa, dù nó là tiêu nha bại chủng nhưng nó đưa chúng ta đến con đường giải thoát được thì chúng ta chấp nhận. Còn ai nói tiểu thừa hay tiêu nha bại chủng như thế nào thì mặc họ, chúng ta chẳng nên nói ai hết.

Chúng ta dù hiểu biết Đại thừa phạm giới, phá giới thì mặc họ, vì họ có giới luật riêng. Họ phá giới của Phật chứ họ không phá giới Đại thừa của họ. Chúng ta đừng lấy giới luật của Phật mà nói những người này (Đại thừa) là sai tại vì họ có những giới luật của họ, họ sống trong dục lạc của họ thì họ cứ tu tập theo họ. Còn riêng chúng ta hãy chọn lấy con đường dẫn chúng ta đến chỗ giải thoát không còn sanh tử luân hồi, làm chúng ta hết sự đau khổ của đời người thì chúng ta chọn con đường đó, mặc dù người ta có chê nó là Phật giáo Tiểu thừa, hay gì gì, hoặc họ cho nó là nhỏ bé, thấp bé không bằng họ, chúng ta vẩn vui lòng nhận cái đó. Mặc dù nhận cái đó mà chúng ta nhận thấy sự tu tập hằng ngày của chúng ta có kết quả rất rõ ràng thì chúng ta chấp nhận. Còn nếu hằng ngày chúng ta tu tập mà không thấy có kết quả, không đem lại hạnh phúc an vui, không đem lại sự giải thoát cho chúng ta thì đó là con đường sai, chúng ta hãy cố gắng đi tìm cho đúng con đường mà tu tập cho được giải thoát. Đừng vì một kiến chấp nào chúng ta bị dính mắc rồi chúng ta cho đó là tại chúng ta tu chưa tới, vì đức Phật đã xác định một ngày chúng ta tu là phải có kết quả của sự giải thoát thật sự, nếu không kết quả là chúng ta đã tu sai. Vì vậy mà chúng ta nên tìm đến một vị thầy hỏi tại sao trong khi thực hiện pháp của Phật thì ngay hiện tại đó phải có kết quả, nhưng con tu một ngày mà con thấy không kết quả, vậy thì con tu sai chỗ nào, xin thầy dạy cho con để cho con thực hiện được giải thoát trong một ngày con tu tập. Mà ngày này được giải thoát thì ngày kế cũng được giải thoát, cho nên thời gian chúng ta sẽ thu ngắn được và cuối cùng thì chúng ta giải thoát hoàn toàn. Còn nếu tu mà ngày này ngày kia, mãi mãi mà không thấy giải thoát, đó là chúng ta tu sai, tu không đúng, hoặc là pháp môn không đúng, hoặc là pháp môn của tà giáo ngoại đạo mà chúng ta lầm nó là của Phật giáo.

Hỏi: Nếu không có sự thị hiện ra đời của Thầy thì rừng kinh điển ấy không giúp con ra khỏi luân hồi sanh tử. Thưa hỏi cho hiểu rồi, sau khi Thầy ẩn bóng con nỗ lực tu để tự cứu mình sau đó cứu người hầu mong đền đáp lại công ơn của Thầy, để nói lên con đường của Phật là rất thực tế và cụ thể. Kính trình Thầy.

Ở đây Thầy xin xác định cho các con biết rằng Thầy không có tam minh, không có lục thông, nhưng trên bước đường tu hành, trong khi nhập định Thầy có đi ngang qua, Thầy biết nó, nhưng nói Thầy có cái đó thì Thầy không có. Nếu Thầy nói có thì phải thực hiện chứ. Đằng này Thầy không có cho nên Thầy không thực hiện.Trên bước đường nhập các định, Thầy có đi ngang qua lục thông và tam minh, nhưng Thầy không chứng những pháp này, Thầy không thực hiện những pháp này. Thầy biết điều kiện tu tập để thực hiện được lục thông, để thực hiện được tam minh, nhưng Thầy không dạy cho các con thực hiện lục thông tam minh. Chừng nào mà các con thực hiện được, các con sẽ thấy.

Lục thông và tam minh không phải là cứu cánh của các con, mà chỉ là trên đường nhập định, các con gặp nó mà thôi. Vậy thì sau khi gặp nó xong, các con thực hiện được rồi, thì các các con cũng phải bỏ nó xuống. Cho nên dù người ta có nói các con có lục thông, nhưng các con vẫn thấy không có lục thông.

Chẳng hạn như muốn thực hiện nhập Tứ thiền, Thầy thường dùng pháp hướng bảo hơi thở ngưng nghỉ và các hành trong thân ngưng nghỉ. Thầy biết và ai cũng biết nhập định Tứ thiền thì hơi thở và các hành trong thân phải ngưng. Cho nên Thầy tu tập cho đến khi các hành ngưng nghỉ hoàn toàn để nhập Tứ thiền. Nhưng khi Thầy đã thực hiện nhập định Tứ thiền rồi mà bắt Thầy thực hiện lại cho các con xem thì Thầy không làm điều đó; bởi vì Thầy đã đi qua định Tứ thiền rồi, Thầy biết rồi, chỉ khi nào cần bỏ thân thì Thầy xử dụng nó mà bỏ thân thôi. Đó là thực hiện định Tứ thiền bởi mục đích giải thoát của Thầy chứ đâu phải mục đích biểu diễn cho các con xem, cho nên Thầy không thực hiện, nhưng Thầy biết Thầy có khả năng làm chủ được mình trên bước đường tu tập.

Cho nên bây giờ nói về tam minh thì Thầy không thể nào thực hiện tam minh cho các con xem. Thầy biết tam minh như vậy và Thầy biết quá trình đường đi đến nó, Thầy dạy lại kinh nghiệm đó để các con thực hiện tam minh. Nhưng khi các con thực hiện tam minh rồi, khi các con thấy tam minh rồi, thì các con cũng vẫn thấy mình không có tam minh, nghĩa là mình có nó nhưng mình không sử dụng nó, cho nên nói mình không có. Nhưng khi cần thì nó sẽ có, mà không cần thì coi như là mình không có. Vì vậy các con phải hiểu như vậy.

Cô Minh Cảnh xác định như thế này: "Trong đời Thầy tu Thầy có lục thông tam minh". Thật sự ra Thầy không có gì hết, cho nên nói về Thầy như vậy là nói sai. Nói Thầy có tam minh lục thông tức là nói sai, không đúng, tức là phỉ báng Thầy. Nói Thầy có điều này điều kia làm cho người ta lầm tưởng Thầy là người tự mình xưng mình có điều đó. Sự thật Thầy không có.

Mục đích của Thầy là làm sao làm chủ được cái sống chết và chấm dứt được tái sanh luân hồi. Phạm hạnh của Thầy là lúc nào cái tâm cũng bất động, không giao động trước các đối tượng, trước các pháp, trước các thọ đau khổ. Thầy chỉ biết làm được điều này mà thôi. Còn những cái khác Thầy hoàn toàn không có gì hết. Nhưng khi Thầy tu tập để cho tâm Thầy bất động, không còn giao động thì các oai lực, thần lực này Thầy đều có gặp hết, Thầy có hết nhưng Thầy không chấp nhận nó, cho nên Thầy không có.

Cho nên các con nói Thầy có lục thông, Thầy có tam minh thì đó là các con phỉ báng Thầy. Tại vì mục đích tu hành của Thầy là giải thoát chứ đâu phải đi tìm lục thông tam minh. Có cái đó để làm gì. Cho nên hiện giờ có cũng như là không có. Không khéo các con nói bậy rồi người ta hiểu Thầy có lục thông tam minh. Người ta tìm đến Thầy là để học lục thông, tam minh, thì đó là sai.

Nếu người ta tìm Thầy để tu tập li dục li bất thiện pháp, làm cho tâm không còn lậu hoặc để làm chủ được sự tái sanh luân hồi, để điều khiển các hành ngưng nhập Tứ thiền, làm chủ sự sống chết của họ, tức là liễu sanh thoát tử. Đó là mục đích của người tu theo đạo Phật. Ngoài ra hoàn toàn không có lục thông tam minh gì hết.

Thầy là một người bình thường như mọi người, cũng ăn, cũng uống. Chết thì không để nhục thân cho ai thờ phượng, mà sống thì đem kinh nghiệm tu hành dạy lại cho người khác tu tập giải thoát như mình. Thầy không phải là Phật, không phải là Bồ tát, không phải Alahán, tất cả các cái đó Thầy không cầu mong. Tu hành Thầy không cầu làm Alahán mà chỉ muốn làm sao làm chủ được cái thân quá đau khổ của mình, làm chủ được cái tâm quá tham sân si phiền não của mình. Mục đích của Thầy là vậy. Các con cũng nên nhớ rằng các con theo Thầy tu học thì các con cũng nhắm mục đích đó chứ đừng nhắm tam minh lục thông. Nếu nhắm vào tam minh lục thông thì chắc chắn mình thành tà giáo ngoại đạo mất, là trật rồi.

Mục đích của các con đến với Thầy là phải tu cho được giải thoát. Thầy mong mỗi người đến với Thầy, dù lớn tuổi hay nhỏ tuổi đều làm chủ được sự sống chết và chấm dứt sự luân hồi là điều kiện duy nhất của các con.

Còn vấn đề người ta hỏi này kia thì các con đừng trả lời câu hỏi về chết. Chừng nào các con được giải thoát sự sanh tử rồi thì chuyện Diệt Thọ Tưởng Định, hoặc Tứ thiền, hoặc là những thần lực gì đi nữa, các con cũng đều hiểu biết. Có hiểu biết mới làm chủ được, chứ không hiểu biết thì không làm chủ được đâu. Không phải nói tui li dục xong rồi là tui giải thoát. Không phải đâu. Phải có đủ những quyền lực mới làm chủ được sự sống chết của chúng ta. Các con đừng cho là mình làm không tới đó. Không phải. Các con tu đúng thì cũng y như Thầy. Bây giờ thì các con chưa làm được, nhưng khi các con đi đúng lộ trình này, các con sẽ tới đó y như Thầy. Thầy làm được thì các con cũng sẽ làm được, miễn là các con bỏ hết cuộc đời để thực hiện sự giải thoát này. Mọi người giống nhau hết, không khác đâu. Tới chừng các con tu xong rồi thì các con cũng trả lời các hiểu biết cở mực Thầy nói bây giờ cho các con.

Nhưng các con học mà không tu thì người ta hỏi, các con lấy của Thầy trả lời, thì đó là cái sai nhất, là cái khổ đau nhất. Cho nên ở đây chúng ta phải nỗ lực tu, chừng tu xong có ai hỏi thì mình móc trong bụng ra trả lời cho người ta, cũng như bây giờ Thầy móc trong bụng mà trả lời cho các con. Đó là cái hay nhất.

Các con thấy trong sách nói Diệt Tận Định có ra gì đâu, nói tầm bậy, tầm bạ. Nói nhập Diệt Tận Định gì mà y áo bị lửa cháy hết, rồi còn bị lửa cháy nám da nữa, rồi còn nói lấy đồng la đánh cho người nhập Diệt Tận Định tỉnh lại. Nói Diệt Tận Định kiểu đó thì thiệt là nói cái định gì thôi, chứ đâu phải Diệt Tận Định. Họ đâu có biết cái gì. Đó là cái sai của các người sau này không nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà nói đại để gạt người ta.

Thầy đã nói tư trường của người tu Diệt Thọ Tưởng Định bảo vệ người đó rất kỹ. Như Thầy ngồi nhập Diệt Thọ Tưởng Định ở đây, các con muốn đi vô, không đi vô được đâu. Từ trường như tường đồng vách sắt vô hình, các con không đến gần thân của Thầy được, con vật còn không qua được thì các con làm sao qua được tường đồng vách sắt vô hình đó. Đứng ở ngoài thì thấy Thầy, mà muốn đến gần thì không được. Như Thầy nhập Diệt Tậm Định trong thất thì từ trường của nó lan ra bên ngoài, con mà muốn vào thất thì chỉ đi vòng vòng ngoài kia chứ vào trong thất không được, không cách nào vô thất được. Còn nhập Tứ thiền thì tới gần được. Diệt Thọ Tưởng Định là định của bậc thánh nhân chứ không phải của Tiểu thừa đâu. Các con đừng hiểu Diệt Thọ Tưởng Định theo kiểu của các nhà Đại thừa.

Diệt Thọ Tưởng Định thì nó là đại thần lực rất ghê gớm chứ không phải tầm thường như người ta nghĩ nó là định của tiểu thừa. Bởi vì khi một người nhập Tứ thiền thì người này ở trong sức tỉnh thức, nhưng trời sét người này không nghe, mọi sự kiện xẩy ra người nhập Tứ thiền không biết nhưng rất tỉnh, tỉnh hơn là lúc chúng ta đang tỉnh thức như thế này. Đó là khi nhập vào Tứ thiền là như vậy.

Còn khi nhập vào Diệt Thọ Tưởng Định thì cái thức hoàn toàn không có nữa, chỉ còn trạng thái rất thanh tịnh vắng lặng, không còn nghe tiếng động gì hết. Cho nên ngay cả khi một người nhập vào Tứ thiền thì không thể nào lấy đồng la đánh mà có thể làm cho người nhập Tứ thiền này xuất định được. Thế mà trong sách nói ngài Thánh Nhơn nhập Diệt Thọ Tưởng Định 4, 5 ngày, rồi những người bạn của ngài đến thất của ngài, họ phá cửa sổ thấy ngài ngồi trong đó như gộc cây, rồi người ta lấy cái linh (chuông nhỏ) đánh một hồi thì ngài xuất định, thì định đó không phải là Diệt Thọ Tưởng Định đâu. Còn như trong các truyền thuyết nói có một người nhập một cái định 1,000 năm bị các cây bao lại và sau đó người ta xẻ cây ra và người ta cũng lấy đồng la mà đánh cho vị đó thức, xuất định.

Do như vậy thì hầu như người ta chưa có hiểu về Diệt Thọ Tưởng Định. Bởi vì Diệt Thọ Tưởng Định có một từ trường bảo vệ người nhập định rất vững vàng. Ngay cả Định Tứ thiền, theo Thầy biết, thì ý thức rất tỉnh táo, nhưng âm thanh không còn tác động được, cho nên không dùng âm thanh đánh thức họ được, thậm chí như trời sét mà cũng không đánh thức người nhập định Tứ thiền được. Kinh nói đức Phật đang nhập Tứ thiền chứ không phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định đâu, huống hồ nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì toàn bộ các hành trong thân đều phải ngưng hết. Trong khi nhập Tứ thiền thì ý hành chưa ngưng nghĩa là thọ và tưởng chưa hoàn toàn ngưng, bởi vì ý căn, là bộ óc, còn hoạt động, vậy mà âm thanh không tác động được, không còn nghe một tiếng động nhỏ hay lớn nào cả, huống hồ là Diệt Thọ Tưởng Định, trong đó ý hành ngưng hoàn toàn.

Trong Diệt Thọ Tưởng Định có một cái lực giữ được thân trong thời gian bao lâu cũng không bị hư hoại, không hoại diệt, cho nên từ trường của nó rất mạnh. Chúng ta đừng nghĩ những định của Phật là thứ định Tiểu thừa tầm thường. Một thứ định mà chỉ có thần lực ra lịnh mới làm được. Không phải như người ta nói ức chế ép buộc cách này cách khác, hay tự động nó rơi vào chỗ này hay rơi vào chỗ kia, mà đây là người ta điều khiển.

Cho nên khi đọc cuốn của ngài Ajahn Cha viết loại thiền mà để tâm tự nhiên cho tâm vào định. Ngài dạy thiền như vậy, theo Thầy thấy, đó là ngài chưa biết thiền.

Đức Phật đã bảo chúng ta là thiện xảo nhập định, rồi thiện xảo an trú trong định, thiện xảo sống trong cảnh giới định, rồi thiện xảo xuất định. Thiện xảo là cách thức chúng ta phải khéo léo điều khiển nó mới nhập định được. Thiện xảo an trú, tức kéo dài thời gian trong định, thiện xảo sống trong định.

Như vậy rõ ràng Phật dạy chúng ta có sự điều khiển để nhập định, thế mà ngài Ajahn Cha dạy để tự nhiên cho tâm vào định. Và đức Phật dạy chúng ta Định Niệm Hơi Thở Ra Hơi Thở Vô khéo tác ý để nhập vào các định. Trái lại như thiền sư Mahasi ở Miến Điện lại dạy biết hơi thở bằng phình xọp ở bụng, sau một thời gian ức chế tâm cho không có tầm, rồi ngài lại dùng nó mà quán, thì hình thức đó giống như Lục Diệu Pháp Môn (sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh). Chỉ tầm tức là tầm ngưng, rồi bắt đầu mới quán, như vậy là sai tất cả.

Ngay từ lúc đầu, người muốn li dục li bất thiện pháp đã dùng pháp quán để quét sạch lậu hoặc, nhưng cái cốt lậu hoặc, cái gốc của nó, phải chờ tới khi có trí tuệ tam minh, dùng lậu tận minh, mới đốn sạch gốc lậu hoặc. Lúc đầu những cành nhánh lá của lậu hoặc chúng ta dùng định Vô Lậu để quét nó, do đó mà chúng ta mới diệt 5 triền cái và 7 kiết sử; mà chúng ta gọi là li dục li bất thiện pháp để chúng ta nhập Sơ thiền.

Từ Sơ thiền lên Nhị thiền chúng ta phải trải qua ba giai đoạn địnhnữa chứ không phải một giai đoạn định mà được, nghĩa là từ Sơ thiền với hơi thở bình thường, chúng ta muốn diệt tầm tứ để nhập Nhị thiền thì phải trải qua ba giai đoạn định, là ba giai đoạn cần phải tu tập hơi thở mới nhập Nhị thiền được, nghĩa là phải có thiện xảo, phải có khéo léo, phải có hướng tâm, phải có tác ý thì nó mới vào định được chứ không phải để tự nhiên mà vào định được. Các thầy nghiên cứu kinh sách của Phật không thấy lời đức Phật dạy, cho nên khi dạy đến giới hành thiền định, khi học về tu Tứ Niệm Xứ để nhập bốn thiền, quý thầy sẽ thấy Thầy dạy rất rõ ràng. Quý thầy sẽ thấy chúng ta đi từ Sơ thiền lên Nhị thiền không đơn giản, phải qua 3 cách thức tu tập mới đạt được Nhị thiền, chứ không phải dễ diệt tầm tứ để nhập Nhị thiền đâu, không phải đơn giản đâu. Muốn nhập Sơ Thiền phải li dục li bất thiện pháp đã là khó khăn rồi, thế mà muốn nhập Nhị Thiền phải xác định cho được cái ý của chúng ta lúc đó đang nằm ở dạng định nào, thiền nào để rồi mới đi tới được Nhị thiền. Sau này Thầy sẽ cho quý thầy biết ba giai đoạn từ Sơ thiền lên Nhị thiền phải tu tập định nào trước định nào sau.

Cho nên Diệt Thọ Tận Định chúng ta đừng tưởng lầm như các ngài diễn tả cách thức lấy đồng la, lấy thỏi đồng đánh cho phát âm ra để đánh thức người đó xuất định. Thiền của đạo Phật không phải là loại thiền của ngoại đạo, không thể nào dùng tiếng động làm cho người đó xuất định được.

Đối với một vị đang nhập Tứ thiền, lúc quý thầy gặp khó khăn trên bước đường tu, chỉ thành tâm hướng đến vị đang nhập Tứ thiền này thì vị đó giao cảm được nổi khổ của quý thầy, sẽ đến giúp đở quý thầy. Trong Tứ thiền, người nhập định vẫn giao cảm được với quý thầy là vì cái thức thức của họ luôn luôn làm việc, không bao giờ ngưng nghỉ, cho nên người ở trong Tứ thiền giao cảm được với tất cả mọi tâm niệm của chúng sanh. Nó giao cảm như thế nào? Khi nào quý thầy tu hành giới luật nghiêm chỉnh, thân quý thầy thanh tịnh thì nếu quý thầy gặp khó khăn trong tu tập, quý thầy cầu xin sự giúp đở, thì quý thầy giao cảm được với vị nhập Tứ thiền. Vị nhập Tứ thiền li dục li bất thiện pháp, tâm họ rất thanh tịnh, cho nên hai cái tâm đều thanh tịnh thì dễ dàng giao cảm. Khi quý thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà tu gặp khó khăn không thể qua được thì chỉ cần khởi tâm hướng đến chư Phật, hướng đến vị đã nhập Tứ thiền thì ngay đó người ta cảm thông được sự khó khăn của quý thầy và người ta đến giúp quý thầy liền. Cho nên dù bất cứ ở nơi nào mà quý thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì quý thầy sẽ được sự cảm thông đó và có sự giúp đở cho quý thầy. Còn quý thầy phá giới, không giữ trọn vẹn giới luật thì dầu có cầu khẩn gì cũng không làm sao giao cảm với người nhập Tứ thiền được, vì không tương ưng. Thí dụ quý thầy đang tu tập mà bị hôn trầm nặng không thể nào vượt qua được, nhưng quý thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không ăn phi thời, tinh tấn siêng năng mà gặp khó khăn đó thì quý thầy chỉ cần cầu xin: Cầu xin chư Phật, cầu xin những vị tu hành đã đạt được sự giải thoát đến giúp con đang gặp khó khăn về hôn trầm" thì ngay đó người ta sẽ thị hiện đến giúp đở quý thầy tu hành, quý thầy đừng sợ. Cũng như quý thầy gặp những trường hợp nghiệp lực quá đau khổ mà thân tâm quý thầy đã giữ giới luật nghiêm chỉnh thì ngay đó quý thầy chỉ cần khởi một ý cầu xin chư Phật mười phương, hoặc là những bậc chơn tu, giới đức thanh tịnh có sức giải cứu được nghiệp của con, xin hãy đến cứu con trong sự khó khăn này, thì ngay đó người ta cảm thông được và thị hiện đến để giúp đở quý thầy. Còn nếu quý thầy phạm giới, thân tâm của quý thầy không trong sạch, nên người ta không thể đến giúp quý thầy được, quý thầy không thể giao cảm được với người ta. Đó là những điều Thầy căn dặn quý thầy. Dù quý thầy ở nơi đâu mà quý thầy giữ giới luật nghiêm chỉnh thì ngay đó sẽ có thiện hữu tri thức giúp đở quý thầy khi gặp khó khăn.

Với người nhập Diệt Thọ Tận Định thì quý thầy có cầu gì cũng không được hết, họ không còn giao cảm với quý thầy ở chỗ nào được cả.

Đó là phần Thầy nói về định Diệt Thọ Tưởng Định, nó rất vi diệu, từ trường của nó bảo vệ chúng ta. Nghe trong kinh nói khi một người nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì lấy gươm dao đâm người đó không lủng. Thầy nghe câu chuyện có một vị tỳ kheo đến chỗ đó thấy một cái tháp của một vị ni mà ngở là tháp của vị tăng nên đi vòng quanh tháp 3 vòng mới khám phá ra là tháp đó của vị ni, vị tỳ kheo này tức giận mới đập phá cái tháp đó, rồi bỏ đi. Số ni giữ tháp xách dao rượt theo, vị tỳ kheo thấy không chạy thoát khỏi các ni này, bèn nhập Diệt Thọ Tưởng Định để chịu đựng. Số ni chạy đến thấy vị tỳ kheo ngồi đó bèn đâm chém vị tỳ kheo này cho đến khi y rách tan nát. Sau khi các ni đi xong, vị tỳ kheo xuất định về. Ông Ananda hỏi sao y rách hết vậy, vị tỳ kheo nói nhờ nhập Diệt Thọ Tưởng Định chứ không thì bị các ni ăn tươi rồi.

Thầy thấy câu chuyện thuật như vậy dường như không đúng với người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Khi nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì từ trường vô hình bao bọc rộng lớn, thậm chí như khi trời mưa thì từ trường này làm cho mưa không ướt người này được. Vậy làm sao khi vị tỳ kheo này nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà các ni đâm chém làm cho y tan nát được.

Cô Minh Cảnh hỏi Thầy nghe nói có người nhập Diệt Thọ Tận Định thì rừng cháy làm y vị đó cháy và da vị này bị lửa cháy nám. Thiệt ra người viết lại chuyện này chẳng hiểu gì hết. Bởi vì khi vị đó nhập Diệt Thọ Tận Định thì từ trường bảo vệ, không bao giờ lửa cháy y áo được, nước cũng không bén mãng được. Thí dụ trong khi vị tỳ kheo nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà có ngập lụt thì nước dựng đứng như núi chứ không tràn vào thân của người này được. Bởi đó là đại thần lực. Mà nói về đại thần lực thì thần lực rất kinh khủng chứ không thường.

Trong đạo Phật có ba thần lực:

Đại oai lực, khi một vị tu sĩ đi ra mắt nhìn xuống, cái oai nghi đó gọi là đại oai lực, làm cho mọi người thấy cái tướng, cái hành động của vị tu sĩ đó khiến cho người ta rất kính trọng.

Đại thần lực thuộc về thiền định, người nhập Diệt Thọ Tưởng Định là định tuyệt cao trong Phật giáo. Khi nhập Tứ thiền thì chỉ mới ngưng nghỉ hơi thở thôi. Còn nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì toàn bộ ý thức không còn hoạt động nữa, đó là cái định cao nhất của đạo Phật cho nên thần lực của nó phải vĩ đại không lường được.

Người ta diễn tả theo kiểu của người ta hiểu, mà vì không ai nhập được nó cho nên người ta nói nhập Diệt Thọ Tưởng Định như chuyện đùa chơi, người ta không hiểu đại thần lực. Tại sao Diệt Thọ Tưởng Định có thần lực như vậy mà nói lấy gươm dao đâm tan nát y. Người ta chỉ muốn diễn tả khi người nhập Diệt Thọ Tưởng Định có cái thân như thiết bố sam nghĩa là như một người luyện võ có thân cứng như đồng, một người có pháp gồng dao đâm chặt không trầy sướt da. Thần lực của Diệt Thọ Tưởng Định mà như một người luyện võ thì có nghĩa lí gì, cái đó đâu phải là thần lực. Đại thần lực là phải như thế nào mới gọi là đại thần lực. Nói đại thần lực tức là nói về thiền định của đạo Phật,

Đại minh lực là nói về trí tuệ của Phật, là trí tuệ siêu việt không thể tưởng tượng được. Chỉ có Phật mới có đủ tất cả ba oai lực này mà thôi, còn tất cả các đệ tử của Ngài không đủ, do vậy, tất cả các đệ tử của Ngài không được Phật chỉ định là người thừa kế đức Phật để dạy chúng ta sau này. Tại sao vậy? Là tại các vị đó đều có sở trường sở đoản, không có ai toàn diện như đức Phật có đủ ba oai lực được. Như ông Moggallana giỏi về thần thông thì gọi ông là thần thông đệ nhất, thì chỉ có đại thần lực, còn đại minh lực không có mà đại oai lực không có. Còn ông Upali thì ông là đệ nhất giới luật thì ông chỉ có đại oai lực chứ đâu có đại thần lực, cũng đâu có đại minh lực. Còn nói ông Sariputta đệ nhất trí tuệ thì ông chỉ có đại minh lực, nhưng ông đâu có đại thần lực. Cho nên mỗi người đệ tử Phật đều có sở trường riêng biệt cho nên đức Phật mới nói đệ nhất cái này đệ nhất cái kia chứ không có ai được toàn diện. Cho nên đâu có người nào xứng đáng làm người thừa kế Phật mà dạy chúng ta. Chỉ có giới luật của Phật mới đủ ba thần lực này, mới là người thừa kế Phật dạy chúng ta sau này. Do đó chúng ta lấy giới luật làm thầy của mình. Giới luật là một vị thầy xứng đáng có đủ ba oai lực.

Như vậy quý thầy mới hiểu được trên con đường tu hành, có tu hành đến nơi đến chốn mới đủ thần lực,mới gọi là một vị đệ tử của Phật, mới gọi là một người xứng đáng lãnh đạo Phật giáo sau này. Nhưng làm sao chúng ta tìm thấy người như vậy. Thầy nói như thế này: người nào cũng có thần thông hết, nhưng người đệ nhất thần thông thì chớp mắt là người đó thực hiện được liền; ông Sariputta cũng có thần thông, ông bay lên trời được nhưng mà đức Phật không khen ông là đệ nhất thần thông mà chỉ nói ông Moggallana là đệ nhất. Ví dụ như ông Moggallana ra lệnh từ thân này biến ra một thân nữa thì tức khắc có thân khác hiện ra, còn ông Sariputta cũng biến ra thân khác được nhưng chậm hơn, không nhanh như ông Moggallana cho nên ông Sariputta không thể nào gọi là đệ nhất thần thông được, mặc dù cùng biến hóa thần thông được nhưng có chậm có nhanh, do vậy đức Phật mới gọi là đệ nhất cho người thực hiện nhanh.

Do vậy quý thầy mới hiểu Diệt Thọ Tưởng Định không phải là định Tứ thiền. Người chưa nhập được Tứ thiền thì không thể nào nhập Diệt Thọ Tưởng Định vì hơi thở chưa ngưng nghỉ thì làm sao ý hành ngưng nghỉ được, thân hành chưa ngưng thì làm sao ý hành ngưng được, cũng như người chưa nhập Nhị thiền thì làm sao nhập Tứ thiền được, cũng như người nhập Sơ thiền chưa được, khẩu hành chưa ngưng mà muốn nhập Nhị thiền thì làm sao nhập được. Muốn nhập Sơ thiền thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ trong một năm, hai năm, ba năm mới li dục li ác pháp được. Điều kiện Phật dạy tới đâu là phải đúng đó chứ không phải tự nhiên mà nhập định được, hay ngồi hoài ức chế tâm mà nhập định được, chúng ta phải biết cách thức điều khiển thiện xảo thì chúng ta mới vào định được.

Hôm nay trả lời câu hỏi của cô Minh Cảnh về Diệt Thọ Tưởng Định, những huyền thoại về những vị sư nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Do các huyền thoại này mà các nhà Đại thừa cho là tiêu nha bại chủng, cho Diệt Thọ Tưởng Định là định tiểu thừa, cho 4 thiền là thiền phàm phu. Đó là những người muốn hạ bệ, muốn diệt con đường của đạo Phật, cho nên họ dùng những điều bôi bác các thiền định của Phật là không có giá trị, không xứng đáng là pháp tối thượng.

Nhưng chúng ta biết định Diệt Thọ Tưởng Định này có thần lực như thế nào, đòi hỏi công phu tập luyện rất lớn chứ không phải ngồi ức chế tâm mà đạt được, nó đòi hỏi công phu chúng ta luyện tập và đời sống chúng ta phải sống đúng giới luật đức hạnh, nếu sống sai thì không bao giờ chúng ta thực hiện được. Phải hiểu biết nếu đời sống chúng ta còn dính mắc một chút gì của thế gian thì chúng ta không thể thực hiện Diệt Thọ Tưởng Định được.

Cho nên giới luật là điều kiện để chúng ta so sánh được đời sống của phàm phu với đời sống của tu sĩ phải khác xa, không giống nhau. Người cư sĩ thì còn nắm giữ một ít chứ còn người tu sĩ thì không còn gì cả. Cuộc đời tu sĩ phải xả bỏ hết, không còn yêu ghét, không còn vật dụng gì cả, chỉ ở chòi tranh vách lá, không được ở nhà ngói nhà tường gạch, không được ở chỗ sang đẹp, không được nằm chỗ sang đẹp, không có một vật gì tùy thân ngoài 3 y 1 bát, có vậy mới thực hiện thiền định của đạo Phật mới được.

***

Đang có 46 khách và không thành viên đang online

Lượt xem
451
Các bài viết
1441
Số lần xem các bài viết
8928305